Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.16 KB, 25 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1. MỘT SỐ MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THỰC HIỆN TRONG
THỜI GIAN TỚI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1.1. Một số mục tiêu định hướng của ngân hàng Nhà nước
Một là: Phát triển dịch vụ trong dân cư là một mục tiêu chiến lược nhằm mở
rộng thị trường nâng cao hiệu quả và năng lực của ngành ngân hàng Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó sẽ thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình gửi tiền tiết kiệm vào đầu tư, nâng cao tỷ trọng đầu tư của dân
chúng lên .
Hai là: Tổ chức dịch vụ tiền tệ dân cư thuận tiện, an toàn, đưa lại lợi ích cho
khách hàng sử dụng, xây dựng thành tập quán sử dụng séc, thẻ nhựa, uỷ nhiệm
thanh toán định kỳ để thay thế tập quán sử dụng tiền mặt, giảm tỷ trọng khối tiền
mặt trên diện rộng M2 xuống dưới 10% vào nửa đầu thế kỷ 21.
Ba là: Tăng mạnh khối lượng và phạm vi cung ứng dịch vụ ngân hàng trong
dân cư đưa doanh số thanh toán không dùng tiền mặt ngân hàng đến năm 2005 gấp
đôi năm 2001 và đến năm 2020 gấp khoảng 15 – 16 lần năm 2001. Bằng mở rộng
dịch vụ tiền tệ dân cư để điều chỉnh cơ cấu lao động; giảm mạnh lao động trong
lĩnh vực liên quan, đặc biệt là trong khâu tiền mặt của ngân hàng nhà nước; của các
tổ chức tín dụng và giảm lao động kho quĩ ở các doanh nghiệp, công sở, hộ kinh
doanh cá thể.
Bốn là: Sớm triển khai và hoàn thiện chương trình hiện đại hoá trên toàn hệ
thống ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân hàng phải có sự kết hợp đồng bộ với nhau,
tránh tình trạng mỗi ngân hàng làm một phách. Một số tổ chức tín dụng cần triển
khai mạnh mẽ hơn nữa phương án thành lập công ty cổ phần tin học ngân hàng;
trong đó ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục để mô
hình công ty này sớm đi vào hoạt động.
Năm là: Thu hẹp tối đa thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế để tạo cơ
hội hạn chế dẫn đến xoá bỏ tệ nạn tham nhũng công quĩ; tôn trọng pháp luật, bảo
đảm công khai, công bằng và văn minh xã hội. Từ đó tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế của ngành ngân hàng theo quyết định số 683/QĐ-NHNN ngày 26/06/2003


của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2. Phương hướng thực hiện
Bám sát vào những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra của ngành ngân hàng để
từ đó đưa ra những phương hướng thực hiện hữu hiệu nhất cho hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Các ngân hàng cần đầu tư hơn nữa vào
thị trường truyền thống, trên cơ sở phân loại khách hàng thực hiện đầu tư trực tiếp
và mở rộng cho vay thông qua tổ nhóm tín chấp, đáp ứng đủ vốn cho các thành
phần kinh tế nhằm phát triển sản xuất kinh doanh.
Các ngân hàng mở rộng vốn huy động tại chỗ, củng cố chất lượng hoạt động
của hệ thống mạng lưới, coi trọng việc đổi mới phong cách giao dịch, tiếp khách
văn minh lịch sự để tạo niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Bên cạnh đó thực
hiện giao các chỉ tiêu huy động vốn đến cho bộ phận kế toán, đưa các hình thức đa
dạng về sản phẩm như chính sách lãi suất, kỳ hạn, các hình thức khuyến mại để thu
hút khách hàng…và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, quan tâm huy động tiền gửi
không kỳ hạn từ các tổ chức kinh tế, khách hàng lớn với lãi suất thấp như: Kho
bạc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… nhằm hạ lãi suất đầu vào. Hơn nữa, các ngân
hàng sẽ đa dạng hoá các hình thức tiền gửi cá nhân, tiền gửi tiết kiệm, mở rộng
hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trên một năm. Ngoài ra, mỗi ngân
hàng còn phải tiếp cận với các dự án lớn, phối hợp với các ngân hàng thương mại
khác tham gia các dự án tài trợ hoặc làm đầu mối thu xếp cho các dự án lớn, chủ
động tiếp cận và mở rộng quan hệ tín dụng với các tổng công ty lớn và các đơn vị
thành viên, đồng thời tiếp cận với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh sản xuất, kinh doanh hiệu quả để thiết lập và mở rộng mối quan
hệ tín dụng thanh toán.
Mỗi ngân hàng cần tăng cường đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng,
đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Tiếp tục đổi mới hệ thống thiết bị vi
tính, tiếp nhận và triển khai các mạng thanh toán mới và áp dụng chương trình giao
dịch một cửa, cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
khi giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cần tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật, phương tiện làm việc, xây dựng chương trình phần mềm giao dịch

đồng bộ đáp ứng nhu cầu quy trình điều hành, qui trình nghiệp vụ đặc thù của từng
ngân hàng và khai thác tốt cơ sở dữ liệu trong quá trình nghiệp vụ nhằm nâng cao
uy tín, cạnh tranh của ngân hàng.
Củng cố bộ máy tổ chức của ngân hàng đảm bảo đủ mạnh, cải tiến lề lối làm
việc, tổ chức chặt chẽ tác phong nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đáp
ứng tốt nhất nghiệp vụ cho khách hàng, kể cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay
tiền cũng như khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán, tăng cường khả năng cạnh
tranh giữa các ngân hàng về chất lượng dịch vụ.
Phải tập trung hiện đại hoá bộ máy thanh toán, nâng cao chất lượng dịch vụ
hiện có như: Dịch vụ chuyển tiền nhanh, chuyển tiền điện tử… và từng bước mở
rộng các loại hình dịch vụ khác như: Thanh toán thẻ, séc du lịch, nối mạng thanh
cho khách hàng, chuyển tiền mua bán, thanh toán ngoại tệ…Những dịch vụ này
nhằm giảm tối đa lao động thủ công đối với các nghiệp vụ chuyên môn, điều hành.
Ngân hàng nên xây dựng phương án đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi cả về
nghiệp vụ lẫn kỹ năng giao tiếp, cấp quản lý phải có kế hoạch phân loại cán bộ để
có kế hoạch đào tạo cho phù hợp.
2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT
2.1. Áp dụng cho mọi phương thức thanh toán
2.1.1. Đào tạo đội ngũ cán bộ
Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát
triển của đất nước cũng như của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Để trở thành
một ngân hàng luôn đổi mới nghiệp vụ kinh doanh một cách có hiệu quả, cán bộ và
nhân viên ngân hàng, nhất là người đứng đầu các bộ phận phải có trách nhiệm cao,
làm việc với động cơ vì uy tín và sự thành đạt của ngân hàng. Những người này
còn phải có trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết và có khả năng xử lý nhiều loại giao
dịch phức tạp, đồng thời phải có khả năng giao tiếp tốt và thành thạo ngoại ngữ.
Muốn làm được điều này, các ngân hàng phải có chế độ làm việc, khuyến khích
tặng thưởng, đề bạt nhân sự phù hợp. Ngân hàng nên nghiên cứu, sớm áp dụng các
biện pháp khuyến khích vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ; tăng cường công

tác giáo dục chính trị, tư tưởng, động viên toàn cán bộ phát huy hết khả năng góp
phần thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra.
Tuy nhiên, quan trọng hơn tất cả là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn cho các cán bộ của ngân hàng. Việc đào tạo chuyên môn của toàn
ngân hàng nói chung và của phòng thanh toán quốc tế nói riêng sẽ là bước đầu cho
việc áp dụng các hình thức giao dịch thanh toán mới. Việc đào tạo cần quan tâm
đến kiến thức mới của kinh tế thị trường như: Marketing ngân hàng, phân tích hoạt
động kinh doanh ngân hàng, phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dự
đoán rủi ro có cơ sở khoa học, môi trường vi mô và môi trường vĩ mô trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho chính
khách hàng mà còn củng cố thêm vị trí của sở trong thời gian tới. Sau đây là một
số giải pháp cụ thể:
Đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ cán bộ cũ, đào tạo bổ sung kiến
thức cho nhân viên mới tuyển dụng.
Đa dạng hoá loại hình đào tạo, thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ chuyên môn, cử cán bộ đi học nâng cao.
Tổ chức các buổi dự thảo nhằm truyền đạt kinh nghiệm trong xử lý tình
huống.
Tổ chức các kỳ thi sát hạch kiểm tra và tuyển chọn cán bộ có trình độ
chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm.
2.1.2. Cải tiến các hình thức thanh toán truyền thống
Đã có rất nhiều hình thức thanh toán được sử dụng ở nước ta, nhưng có
những hình thức chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Ngân hàng Nhà nước cũng
như các ngân hàng thương mại nên có sự đúc rút kinh nghiệm, cần có những thể lệ,
chế độ đối với các hình thức này để chúng thực sự có hiệu quả. Trong các hình
thức đó, hình thức nên được quan tâm nhiều hơn nữa là thương phiếu. Do tình hình
thực tế ở Việt Nam nên thương phiếu chưa thực sự phát triển. Ngân hàng nên đứng
ra làm hợp đồng và bảo lãnh cho các khách hàng có nhu cầu thanh toán cho việc
mua hàng hoá và dịch vụ bằng thương phiếu. Đối với các doanh nghiệp có thương
phiếu nhưng chưa đến hạn thanh toán mà họ lại cần ngay một lượng tiền, ngân

hàng có thể giúp đỡ họ bằng cách chiết khấu các thương phiếu đó.
2.1.3. Phát triển các hình thức thanh toán hiện đại
Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện rất nhiều hình thức thanh toán hiện đại.
Chúng cũng được sử dụng rộng rãi trong mọi hoạt động thanh toán của dân chúng
cũng như của các tổ chức tài chính và xã hội. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều hình
thức thanh toán mới như thanh toán bằng máy ATM, thanh toán qua mạng diện
thoại di động, thanh toán qua mạng Internet…nhưng chúng chưa được sử dụng một
cách rộng rãi, chỉ mới trong giai đoạn thử nghiệm và cung cấp cho một số ít khách
hàng. Một trong những biện pháp nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt
là phát triển các hình thức thanh toán hiện đại này.
Một điều dễ nhận thấy là để phát triển các hình thức thanh toán hiện đại này
cần phải có một hệ thống máy móc tối tân với lượng vốn lớn, nền móng khoa học
công nghệ cao, các chuyên gia về máy móc cũng như nhân viên thanh toán phải có
trình độ và bề dày kinh nghiệm. Tuy nhiên, phải đánh giá một cách khách quan là
hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam mới chỉ vừa “tỉnh giấc” sau
một thời gian dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy, cách giải quyết tốt
nhất là Việt Nam phải “đi tắt đón đầu” tiếp thu công nghệ của các nước phát triển,
nhập máy móc thiết bị của họ một cách có chọn lọc, mua lại phần mềm hướng dẫn
cách sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại và cải tiến để phù hợp với nhu
cầu thanh toán và tình hình thực tế của Việt Nam.
2.1.4. Mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng
Trong nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các ngân hàng phải có đủ năng lực tài
trợ, đáp ứng nhu cầu quản trị rủi ro cho các công ty, bất kể lớn hay nhỏ, ở khắp nơi
trên thế giới. Họ cũng cần có khả năng luân chuyển vốn xuyên biên giới và chuyển
dịch nguồn vốn kịp thời đến các khu vực đang phát triển nhanh cũng như các loại
hình kinh doanh có lợi.
Chìa khóa để đạt được thành công là đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói
chung phải có hoạt động truyền thống về tiếp nhận cho vay, uỷ thác, chuyển tiền…
sang một nghiệp vụ mới thích hợp và độc đáo hơn. Những sáng kiến đổi mới một
cách linh hoạt và phát huy nhiều kỹ năng sáng tạo hữu hiệu sẽ giúp các ngân hàng

có lợi thế trong kinh doanh tiền tệ và chứng khoán, trong hoạt động thiết kế và
phân bố sản phẩm mới. Những loại hình dịch vụ mới của ngân hàng trong thanh
toán không dùng tiền mặt có thể là: Dịch vụ tư vấn thông tin, dịch vụ tư vấn tài
chính, dịch vụ tư vấn pháp luật; mở rộng loại hình dịch vụ ngân hàng tại nhà; dịch
vụ thuê mua, dịch vụ mua bán chứng khoán…Những loại hình dịch vụ mới này đòi
hỏi phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố, không thể thực hiện được một sớm một
chiều, cần phải có sự hỗ trợ chung của toàn hệ thống cũng như sự phối hợp của các
ngân hàng bạn, nó cũng đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải có hướng đi đúng đắn cho Sở
giao dịch của mình.
2.1.5. Môt số giải pháp thu hút dân cư mở tài khoản các nhân và thanh toán qua
ngân hàng.
Phương thức thanh toán trong dân cư hiện nay chủ yếu là phương thức thanh
toán tiền mặt trao tay. Tỷ lệ người dân mở tài khoản cá nhân còn ít, lượng giao dịch
thanh toán qua ngân hàng chưa nhiều. Ngân hàng cần có biện pháp kích thích dân
cư mở tài khoản cá nhân và tuyên truyền quảng cáo để họ biết được lợi ích của
việc mở tài khoản cá nhân. Các biện pháp khuyến khích có thể là: Giảm chi phí
hoặc không thu phí dịch vụ thanh toán qua ngân hàng của dân cư; tăng lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn của dân cư cao hơn mức lãi suất cho các doanh nghiệp vay;
trường hợp một số khách hàng hội đủ điều kiện, ngân hàng có thể ưu đãi lãi suất
cho vay và thời gian thẩm định khi khách hàng có nhu cầu vay. Thêm nữa, ngân
hàng cần phát triển qui mô mạng lưới cung cấp giữa các ngân hàng nhằm giảm chi
phí. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa và phát triển một số dịch vụ nhằm khuyến khích dân
cư thanh toán qua tài khoản mở tại ngân hàng của mình:
- Thứ nhất, ngân hàng nên đưa và phát triển dịch vụ chi trả tiền lương cho
cán bộ công nhân viên qua ngân hàng. Xuất hiện dịch vụ này là do hiện nay xuất
hiện nhu cầu của các cơ quan nhờ ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi trả lương
cho cán bộ công nhân viên theo danh sách; công nhân viên có nhu cầu dành một
phần tiền lương gửi ở tài khoản cá nhân; công nhân viên có nhu cầu thanh toán một
số khoản chi phí như chi phí điện nước, bảo hiểm theo định kỳ. Chính vì vậy, các
ngân hàng nên tiếp cận các doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ

này, tạo thói quen thanh toán qua tài khoản cá nhân.
- Thứ hai, ngân hàng nên phát triển nghiệp vụ cho vay đời sống, tổ chức thu
nợ hàng tháng từ tài khoản cá nhân. Bởi vì, sau khi Chính phủ có chủ trương kích
cầu tiêu dùng, ngành ngân hàng đã triển khai mạnh nghiệp vụ cho vay và đã thu
được những kết quả khá khả quan góp phần “xã hội hoá” công tác ngân hàng. Tuy
nhiên, cần gắn kết các nghiệp vụ cho vay hơn nữa phục vụ đời sống cán bộ công
nhân viên. Ngoài ra, để thực hiện thu nợ tốt hơn đối với những khách hàng đã có
tài khoản cá nhân, ngân hàng nên thu nợ hàng tháng bằng cách rút tiền từ tài khoản
của họ.
- Thứ ba, ngân hàng nên thúc đẩy việc thực hiện các nghiệp vụ môi giới,
trung gian thanh toán, hỗ trợ vốn trong giao dịch mua bán bất động sản và mua bán
các tài sản có giá trị lớn qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Bằng cách này, ngân
hàng vừa nâng cao sức cạnh tranh của mình với các ngân hàng khác, vừa tăng
doanh số; vừa thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.6. Giải pháp về Marketing
Hoạt động ngân hàng là hoạt động có tính cạnh tranh sâu sắc. Vì thế, để khai
thác triệt để thế mạnh, khắc phục những điểm yếu, mỗi ngân hàng cần có chính
sách Marketing hoàn chỉnh và hợp lý. Một chiến lược phù hợp phải nhằm vào ba
mục tiêu chính: Tăng khả năng sinh lợi, tăng sức mạnh cạnh tranh, an toàn trong
kinh doanh. Chính vì thế các ngân hàng cần:
Xác định thị trường hiện tại cũng như thị trường tiềm năng cho các dịch vụ
thanh toán. Xác định thị trường cụ thể để xác định và phục vụ được nhu cầu của
khách hàng trên đoạn thị trường đó, từ đó rút ra kinh nghiệm và những biện pháp
để phục vụ khách hàng tốt nhất.
Chính sách Marketing của ngân hàng phải bao gồm được 4 chính sách lớn:
Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; chính sách giá cả; chính sách
phân phối; chính sách giao tiếp – khuyếch trương. Ngân hàng phải kết hợp linh
hoạt 4 chính sách này thu hút khách hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ cũng như
đánh bại đối thủ cạnh tranh.
Ngân hàng cần có một đội chuyên trách phân tích, tổng hợp các thông tin về

khách hàng. Hoạt động chăm sóc khách hàng phải được thực hiện một cách thường
xuyên và chu đáo hơn. Ngân hàng nên có hình thức ưu đãi như ưu đãi về phí dịch
vụ thanh toán, ưu đãi về lãi suất ..., đồng thời phát triển tốt mối quan hệ với khách
hàng cũ và không ngừng tìm kiếm và tạo mối quan hệ với khách hàng mới. Ngân
hàng cần sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ khác bằng chính chất lượng sản
phẩm, tinh thần thái độ phục vụ đặc biệt là dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu
hút khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu chu kỳ
sống của các sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng cung cấp giúp công tác kế hoạch hoá
sản phẩm, nghiên cứu và phát triển dịch vụ thích hợp với từng thị trường trong
từng giai đoạn cụ thể để khai thác thị trường đó với hiệu quả cao nhất.
2.2. Áp dụng cho từng phương thức
2.2.1. Thanh toán bằng séc
Séc là một lĩnh vực không còn mới ở Việt Nam song tính phổ dụng còn thấp
và chưa có một sự đầu tư đáng kể nào, vì vậy séc chưa được hình thành thành một
thị trường thống nhất. Hiện nay trên thế giới đã hình thành hai mô hình để xây
dựng trung tâm xử lý séc: Mô hình cũ (xử lý séc truyền thống) và mô hình mới (mô
hình có sự can thiệp của công nghệ hiện đại). Ở Việt Nam nên đi theo con đường
thứ hai. Việt Nam là một nước đi sau, vì vậy rút ngắn thời gian là một việc làm cần
thiết. Việt Nam có thể xây dựng thị trường séc bằng các biện pháp sau:
Ngân hàng có thể thành lập trung tâm xử lý séc ở ba miền như: Hà Nội - Đà
Nẵng – Thành phố Hồ Chí Minh. Sự lựa chọn này là có cơ sở, bởi vì 3 thành phố
này chiếm tới 80 % số lượng séc trong toàn quốc
1
. Bên cạnh đó, ngân hàng nên cho
1 Nguồn: Tạp chí Tin học ngân hàng số 2/2003
phép sử dụng rộng rãi séc ở ngoài phạm vi các thành phố, tỉnh cùng tham gia vào
trung tâm này.
Các chi nhánh ngân hàng sẽ gửi tờ séc và các thông tin về séc đến ngân hàng
nhà nước để kiểm tra, kiểm soát chúng và thanh toán bù trừ, sau đó phân loại và
gửi các séc đến ngân hàng phát hành. Ngoài việc thanh toán qua trung tâm bù trừ,

các ngân hàng trên cùng địa bàn có thể mở tại nhau các tài khoản song biên
clearing. Tài khoản này hoạt động trên nguyên tắc phục vụ lẫn nhau việc thu hộ,
chi hộ trong những phạm vi thanh toán đã được thoả thuận trước giữa các ngân
hàng với nhau trong đó có séc cá nhân. Đến kỳ các ngân hàng đối chiếu song biên
với nhau để quyết toán số tiền đã thu hộ, chi hộ và thanh toán với nhau các khoản
phải thu, phải chi. Các ngân hàng không nên tính lãi những tài khoản này, không
bắt buộc duy trì số dư ký quĩ khi làm thủ tục mở và trong suốt quá trình hoạt động.
Tài khoản song biên này sẽ giúp cho quá trình thanh toán séc được nhanh chóng
hơn và khi có sự cố sẽ rút ngắn thời gian xử lý.
Ngân hàng nên phát hành thẻ séc dùng song song với séc cá nhân. Mục đích
của việc ra đời thẻ này là tạo tâm lý an tâm khi sử dụng và hạn chế khả năng sử
dụng thẻ bất hợp pháp. Trên thẻ séc ghi đầy đủ các yếu tố để đảm bảo cho thanh
toán như: Họ tên chủ tài khoản, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số hiệu, tên ngân
hàng giao dịch, số của thẻ séc. Khi người thụ hưởng có tài khoản ở một ngân hàng
và muốn phát hành séc, ngân hàng sẽ cấp cho chủ tài khoản một thẻ séc kèm theo
số séc đã nhượng, có nghĩa là ngân hàng nhượng séc đảm bảo khả năng chi trả cho
người thụ hưởng, có thể gọi đây là chứng chỉ thanh toán do ngân hàng nơi mở phát
hành cho người sử dụng séc, một loại dùng trong phát hành séc không thể chuyển
nhượng. Có thể khi cần thiết ngân hàng nên nghiên cứu thủ tục uỷ quyền sử dụng
thẻ séc giống như người được uỷ quyền phát hành séc hiện nay.
Ngân hàng cũng nên quan tâm đến séc cá nhân có đảm bảo khả năng chi trả
của ngân hàng thương mại. Từ một bộ phận dân cư có sử dụng séc thanh toán (Có

×