Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 1 HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.09 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 1 HÀ NỘI
2.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến phân tích tình
hình tài chính tại Công ty Cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội
Phân tích là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu, so sánh để từ đó cung cấp
thông tin cho những đối tượng quan tâm. Do đó, qua phân tích tình hình tài chính,
các thông tin về thực trạng tài chính, về hiệu quả kinh doanh, về rủi ro tài chính có
thể gặp phải sẽ được cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư
và các đối tượng quan tâm khác. Nhưng với mỗi doanh nghiệp khác nhau thì lượng
thông tin cung cấp và đòi hỏi phân tích cũng khác nhau do chịu tác động của nhiều
nhân tố.
Chính vì thế, tại Công ty Cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội, đặc điểm hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có tác động và ảnh hưởng đến phân tích
tình hình tài chính tại Công ty.
Thứ nhất, Công ty tham gia sản xuất kinh doanh trên khá nhiều lĩnh vực
nhưng chủ yếu là lĩnh vực xây lắp với sản phẩm sản xuất chủ yếu là sản phẩm xây
lắp. Vì thế, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty khá phức tạp, liên quan đến
nhiều quá trình: sản xuất, thương mại… đồng thời liên quan đến nhiều đối tượng:
chủ đầu tư (bên A), ngân hàng, tổ chức tài chính, cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp… Bởi lẽ đó, đặt ra yêu cầu đối với việc phân tích tình hình tài chính của
Công ty phải khách quan, bao quát và có sự liên hệ, tổng hợp phân tích các lĩnh
vực liên quan cũng như tình hình tài chính của các đối tượng liên quan. Điển hình
như khía cạnh nguyên vật liệu xây dựng: đây là yếu tố quan trọng đối với sản phẩm
xây lắp nhưng lại thường xuyên biến động nên đòi hỏi phân tích tình hình tài chính
tại Công ty cần nghiên cứu, tìm hiểu về thị trường vật liệu xây dựng. Không những
thế, còn cần liên hệ với tình hình tài chính của các nhà cung cấp nguyên vật liệu và
từ đó phân tích tác động tổng hợp của các yếu tố đó đối với tình hình tài chính của
Công ty. Mặt khác, cũng chính do đặc thù của ngành nghề kinh doanh nên khi
phân tích tình hình tài chính không thể quá cứng nhắc, máy móc, khuôn mẫu mà
cần linh hoạt. Bởi lẽ nhiều chỉ tiêu phân tích được xây dựng chuẩn cho doanh
nghiệp sản xuất bình thường nhưng khi đem áp dụng phân tích trong doanh nghiệp


xây lắp như Công ty thì cần điều chỉnh và biến đổi linh hoạt để hướng tới mục đích
chính yếu là phản ánh đúng đắn thực trạng tài chính của Công ty.
Thứ hai, đặc điểm của sản phẩm xây lắp có ảnh hưởng đến phân tích tình
hình tài chính tại Công ty. Sở dĩ như vậy là do sản phẩm xây lắp có đặc điểm khác
biệt hơn các sản phẩm sản xuất khác: kết cấu phức tạp, thời gian thi công và sử
dụng lâu dài nên đòi hỏi người phân tích phải có hiểu biết và nắm vững quy trình
sản xuất sản phẩm. Từ đó, lựa chọn được phạm vi phân tích cũng như xây dựng
chương trình phân tích hợp lý đảm bảo kết quả phân tích xác thực mà lại giảm
thiểu được chi phí và thời gian. Hơn nữa do các sản phẩm xây lắp của Công ty chủ
yếu là các công trình xây dựng, có ý nghĩa tạo dựng cơ sở vật chất nên khi phân
tích hiệu quả hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư không thể chỉ quan tâm đến
kết quả kinh doanh lãi, lỗ tại thời điểm trước mắt mà còn cần liên hệ giữa quá khứ,
hiện tại và những dự báo tương lai. Đặc biệt hiệu quả của việc xây dựng hay đầu tư
công trình nếu chỉ quan tâm đem về bao nhiêu lợi nhuận khi tham gia thi công thì
chưa đầy đủ vì nhiều công trình còn có ý nghĩa lịch sử và mang lại những giá trị
phi tài chính nên khi phân tích tình hình tài chính tại Công ty cũng cần được đề cập
đến.
Thứ ba, chính từ đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh và của sản phẩm sản xuất
nên Công ty có kỳ kinh doanh, tức khoảng thời gian để thực hiện hết một chu kỳ
kinh doanh bình quân là khá dài. Do vậy công tác theo dõi, tổng hợp tài liệu sẽ gặp
khó khăn và ảnh hưởng đến phân tích tài chính. Điều đó đặt ra yêu cầu muốn đạt
hiệu quả khi phân tích tình hình tài chính tại Công ty cần phải chọn được phạm vi,
đối tượng phân tích cũng như nội dung phân tích phù hợp. Bởi lẽ nếu như theo dõi
hết kỳ kinh doanh mới tiến hành phân tích thì sẽ chậm trễ và khối lượng công việc
quá lớn. Hơn nữa, thông tin cung cấp không còn kịp thời với yêu cầu quản lý. Song
hành với kỳ kinh doanh, Công ty bắt đầu kỳ kế toán từ 01/01 đến 31/12 năm
Dương lịch, lập các báo cáo tài chính theo quý và khi kết thúc năm tài chính thì lập
báo cáo tài chính năm. Chính vì thế, nếu phân tích theo kỳ kinh doanh gặp khó
khăn và hạn chế thì với kỳ kế toán như trên lại là thuận lợi cho phân tích tình hình
tài chính tại Công ty. Bởi lẽ kỳ kế toán có thời gian rõ ràng, cố định, sau mỗi kỳ lại

có các báo cáo kế toán, tổng hợp được số liệu nên Công ty tiến hành phân tích tình
hình tài chính theo các báo cáo này. Thực tế, trên cơ sở các báo cáo, Công ty đã
chọn ra một số báo cáo quan trọng phục vụ cho phân tích để đánh giá thực trạng tài
chính tại Công ty.
Thứ tư, Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng,
tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập trung nên đã tạo được sự thống nhất trong
quản lý. Các thông tin về quản trị, về kinh tế, về tài chính được theo dõi, cập nhật,
xử lý ban đầu từ chi nhánh rồi chuyển lên trên Công ty. Chính vì thế, phân tích
cũng có những bước phân tích từ phía chi nhánh, đơn vị trực thuộc cho đến tổng
hợp phân tích toàn Công ty.
Thứ năm, Công ty có hình thức sở hữu là công ty cổ phần với số lượng cổ
đông khá nhiều nên họ là những đối tượng hàng đầu quan tâm đến kết quả kinh
doanh, đến khả năng sinh lời và triển vọng phát triển của Công ty nên ảnh hưởng
đến việc phân tích tình hình tài chính tại Công ty. Ngoài ra, do được cổ phần hoá
chưa lâu nên Công ty chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, yếu tố
này cũng ảnh hưởng đến phân tích tài chính. Bởi lẽ nó thúc đẩy việc phân tích
không chỉ cung cấp các thông tin về quản trị, về tài chính mà còn chỉ ra những
nhân tố có tác động mạnh mẽ đến tình hình tài chính của Công ty. Trên cơ sở đó,
hỗ trợ cho công tác xây dựng kế hoạch, tiến trình niêm yết cổ phiếu của Công ty
trên thị trường chứng khoán.
Như vậy, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã có những
tác động, ảnh hưởng đến phân tích tình hình tài chính và cho thấy được nét đặc thù
khi phân tích tình hình tài chính tại doanh nghiệp xây lắp.
Hơn nữa, như đã trình bày, Công ty lựa chọn tài liệu phân tích trên cơ sở là
các báo kế toán. Các báo cáo kế toán này được lập thông qua quá trình từ thu thập,
xử lý, kiểm tra, phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để lập chứng từ kế toán
đến phân loại ghi sổ kế toán. Chính vì thế, có thể nói các báo cáo kế toán chứa
đựng toàn cảnh bức tranh tài chính sinh động của Công ty. Thực tế, số lượng các
báo cáo kế toán của Công ty là khá nhiều gồm báo cáo kế toán quản trị và báo cáo
tài chính. Các báo cáo này đều là những tài liệu có thể được dùng để phân tích.

Tuy nhiên, mục đích của việc phân tích là cung cấp thông tin nhưng không
chỉ là thông tin cho một đối tượng mà là cho nhiều đối tượng nên khi phân tích tình
hình tài chính, Công ty chú trọng phân tích các báo cáo tài chính gồm bốn mẫu báo
cáo theo quy định của Bộ Tài chính: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Từ đó có thể giới thiệu sơ qua các báo cáo tài chính của Công ty.
Thứ nhất là Bảng cân đối kế toán: một báo cáo tài chính cung cấp thông tin
tổng quan về tình hình tài chính của Công ty tại một thời điểm. Công ty lập báo
cáo này sau mỗi quý (trừ quý 4) và thời điểm khi kết thúc năm tài chính (31/12).
Các số liệu trên báo cáo này được tập hợp trên cơ sở theo dõi số dư các tài khoản
từ loại 1 đến loại 4 tại thời điểm lập báo cáo. Báo cáo này cho thấy tình hình tài
sản, nguồn hình thành tài sản cũng như các khoản nợ của Công ty. Từ những thông
tin cơ bản đó, hỗ trợ cho việc phân tích đánh giá khái quát và tìm hiểu ban đầu về
thực trạng tài chính của Công ty. Có thể minh hoạ Bảng cân đối kế toán của Công
ty tại Phụ lục 1-1, trang 67.
Thứ hai là Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: báo cáo này cung cấp
thông tin liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty qua
một thời kỳ. Căn cứ để lập báo cáo này là trên cơ sở theo dõi số liệu các tài khoản
từ loại 5 đến loại 9. Việc phân tích báo cáo này giúp đánh giá khả năng sinh lời,
hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng nguồn lực… Mẫu Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh mà Công ty đang sử dụng được trình bày tại Phụ lục 1-2, trang
69.
Thứ ba là Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: quá trình hoạt động của Công ty thực
chất là quá trình vận động của dòng tiền vào và dòng tiền ra, quá trình lưu chuyển
tiền tệ. Vì thế, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính cung cấp thông tin
về luồng tiền phát sinh và biến động trong kỳ báo cáo của Công ty theo từng hoạt
động: hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính. Theo
quy định hiện hành có hai phương pháp lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: phương
pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Công ty hiện đang lập báo cáo này theo
phương pháp gián tiếp. Như vậy, báo cáo này giúp cho việc phân tích đánh giá khả

năng tạo tiền và sử dụng nguồn tiền của Công ty.
Thứ tư là Bản thuyết minh báo cáo tài chính: đây là báo cáo nhằm thuyết
minh và giải trình một số chỉ tiêu kinh tế tài chính trên Bảng cân đối kế toán, Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh để làm rõ cũng như minh chứng chi tiết cho tình
hình tài chính của Công ty. Từ đó, Bản thuyết minh báo cáo tài chính sẽ bổ sung và
chi tiết thêm thông tin mà các báo cáo tài chính khác khó có thể trình bày được,
đồng thời hỗ trợ cho việc phân tích thêm cụ thể và chi tiết hơn.
Tuy nhiên bên cạnh nguồn tài liệu phân tích là các báo cáo tài chính, quá
trình phân tích còn thu thập, kiểm tra, đối chiếu với một số sổ kế toán liên quan.
Đó có thể là các sổ kế toán chi tiết theo dõi tiền, vật tư, tài sản cố định, thanh toán
với người mua, người bán… mà cũng có thể là sổ tổng hợp theo hình thức ghi sổ
kế toán Nhật ký chung.
Tóm lại, tài liệu phục vụ cho phân tích tình hình tài chính tại Công ty là các
báo cáo tài chính và các sổ kế toán. Dầu vậy trong số những tài liệu đó, Công ty
tiến hành phân tích tình hình tài chính chủ yếu trên cơ sở Bảng cân đối kế toán và
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kết hợp với các sổ kế toán liên quan. Đây là
những báo cáo tài chính cơ bản và được quan tâm nhiều nhất cũng như phản ánh
khá trọn vẹn và đầy đủ tình hình tài chính của Công ty.
2.2. Phương pháp phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần xây dựng
số 1 Hà Nội
Bên cạnh việc lựa chọn thu thập tài liệu phân tích còn cần phải xây dựng và
lựa chọn phương pháp phân tích cách hợp lý và mang lại hiệu quả. Về mặt lý
thuyết có khá nhiều phương pháp được áp dụng để phân tích tình hình tài chính
nhưng trên cơ sở những tài liệu phục vụ phân tích thì Công ty Cổ phần xây dựng số
1 Hà Nội chọn hai phương pháp phân tích sau: phương pháp so sánh và phương
pháp loại trừ.
2.2.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được xây dựng căn cứ theo yêu cầu có thể so sánh được
của các thông tin kế toán, thông tin tài chính nhằm nghiên cứu sự biến động và xác
định mức biến động của chỉ tiêu phân tích. Mức biến động cần xác định bao gồm

mức biến động tuyệt đối và mức biến động tương đối cùng với xu hướng biến động
của chỉ tiêu phân tích. Bên cạnh đó, phân tích tài chính theo phương pháp này có
ba hình thức: so sánh theo chiều ngang, so sánh theo chiều dọc, so sánh tỷ số xác
định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu. Mỗi hình thức so sánh đều có
cách thức và nội dung so sánh khác nhau nhưng vẫn đảm bảo nghiên cứu được sự
biến động của chỉ tiêu.
Do đó khi phân tích tình hình tài chính giai đoạn 2007-2008, Công ty tiến
hành so sánh năm 2008 với năm 2007 theo các chỉ tiêu quan tâm, cụ thể như so
sánh ngang, so sánh dọc biến động tài sản, nguồn hình thành tài sản, biến động kết
quả kinh doanh…, so sánh tỷ số về khả năng thanh toán, về công nợ…
2.2.2. Phương pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng lần lượt
của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, tức là khi xác định mức độ ảnh hưởng của
nhân tố này thì phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Phương pháp này có hai
cách thực hiện. Thứ nhất là phương pháp số chênh lệch dựa vào ảnh hưởng trực
tiếp của từng nhân tố. Thứ hai là phương pháp thay thế liên hoàn, thay thế ảnh
hưởng lần lượt của từng nhân tố. Cả hai phương pháp đều cho thấy được ảnh
hưởng của từng nhân tố nhưng yêu cầu đặt ra là giữa chỉ tiêu phân tích và các chỉ
tiêu nhân tố có mối quan hệ với nhau, nhất là mối quan hệ về toán học.
Như vậy, trong quá trình phân tích tình hình tài chính, Công ty kết hợp
phương pháp này với phương pháp so sánh nhằm nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết hơn,
cụ thể hơn nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu phân tích, ví như phân tích
nhân tố ảnh hưởng đến biến động lợi nhuận của Công ty trong năm 2008, đánh giá
mức ảnh hưởng của từng chỉ tiêu nhân tố như chi phí, giá vốn hàng bán…
2.3. Nội dung phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần xây dựng số 1
Hà Nội
2.3.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra trên nhiều lĩnh vực nên
tình hình tài chính của công ty cũng được thể hiện trên nhiều khía cạnh. Chính vì
thế, trước khi đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh cụ thể và chi tiết cần tìm hiểu

tổng quan, nắm bắt sơ bộ thực trạng tài chính của Công ty để có thể hình thành
những nhận định ban đầu. Như vậy, ta sẽ tiến hành đánh giá khái quát tình hình tài
chính của Công ty thông qua xem xét cấu trúc tài chính và mức độc lập tài chính
của Công ty.
2.3.1.1. Phân tích cấu trúc tài chính
Tài sản và nguồn hình thành tài sản (tức nguồn vốn) là những yếu tố không
thể thiếu để giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Doanh nghiệp nào cũng
đều mong muốn có được nguồn tài sản dồi dào, phong phú và có nguồn tài trợ,
nguồn hình thành tài sản ổn định, hiệu quả. Do đó hình thành nên cấu trúc tài chính
của doanh nghiệp, gồm cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn. Chính vì thế, qua Bảng
cân đối kế toán của Công ty năm 2008 có thể dễ dàng tổng hợp số liệu như bảng số
liệu sau:
Bảng 2-1
Bảng phân tích cấu trúc tài chính của Công ty giai đoạn 2007-2008
Đơn vị tính: VND
Chỉ tiêu

Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền Tỷ lệ
Tỷ
trọn
g

1.TSNH 945.801.894.756 92,49 905.000.850.031 92,02 -40.301.044.725 -4,26 -0,47
2.TSDH 76.794.555.130 7,51 78.499.334.224 7,98 +1.704.779.094 +2,22
+0,4
7
3.Tổng TS 1.022.596.49.86 100,00 984.000.184.255 100,00 -38.596.265.631 -3,77 0
4.Nợ phải trả 963.049.725.388 94,18 923.154.423.858 93,82 -39.895.301.530 -4,14 -0,36
5.VCSH 59.546.724.498 5,82 60.845.760.397 6,18 +1.299.035.899 +2,18
+0,3
6
6.Tổng NV
1.022.596.449.88
6 100,00 984.000.184.255 100,00 -38.596.265.631 -3,77 0
Nguồn: Tài liệu Phòng Tài chính kế toán
Qua bảng số liệu ta thấy, Tổng tài sản và Tổng nguồn vốn của Công ty năm
2008 giảm so với năm 2007 (-3,77%).
Trong đó, về tài sản: Tổng tài sản giảm là do cơ cấu tài sản có những biến
động. Cơ cấu tài sản gồm Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn mà Tài sản ngắn hạn
năm 2008 giảm so với năm 2007 (-4,26%) còn Tài sản dài hạn tăng lên (+2,22%)
nên tổng hợp ảnh hưởng làm Tổng tài sản của Công ty năm 2008 so với năm 2007
giảm 3,77%.
Không những thế, chính vì Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn có biến động
tăng, giảm nên tác động đến tỷ trọng cơ cấu tài sản của Công ty. Khi Tài sản ngắn
hạn giảm 4,26% thì tỷ trọng Tài sản ngắn hạn so với Tổng tài sản giảm 0,47% còn
tỷ trọng Tài sản dài hạn trên Tổng tài sản tăng tương ứng là 0,47%. Tuy nhiên, tỷ
trọng cơ cấu Tài sản ngắn hạn và Tài sản dài hạn của Công ty chưa hợp lý. Tỷ
trọng Tài sản ngắn hạn trong cả hai năm đều rất cao: năm 2007 đạt 92,49% và năm
2008 đạt 92,02%. Còn tỷ trọng Tài sản dài hạn lại thấp hơn rất nhiều, năm 2007:
7,51% và sang đến năm 2008: 7,89%. Mặc dù xu hướng biến động là tích cực
nhằm để điều chỉnh tỷ trọng cơ cấu tài sản nhưng chưa thực sự có tác động mạnh.
Khi xem xét nghiên cứu thì thấy: do trong cơ cấu Tài sản ngắn hạn của Công ty,

hàng tồn kho và các khoản phải thu đều có giá trị rất cao và chiếm phần lớn nên
Tài sản ngắn hạn có giá trị và chiếm tỷ trọng lớn. Bên cạnh đó, Tài sản dài hạn mà
phần nhiều là Tài sản cố định không thường xuyên có những biến động, khi
chuyển đổi cổ phần hóa được đánh giá lại với giá trị không cao nhưng giá trị sử
dụng vẫn đáp ứng được đến giờ nên tỷ trọng Tài sản dài hạn chiếm không nhiều
như Tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên chỉ tiêu này có xu hướng tăng là vì trong năm qua
Công ty bắt đầu có sự đầu tư thêm vào Tài sản cố định và Bất động sản đầu tư để
thay thế dần một số thiết bị lạc hậu bằng thiết bị hiện đại hơn, bắt kịp với trình độ
xây dựng của nhiều Công ty xây dựng cùng ngành nhưng mức đầu tư này còn khá
nhỏ.
Về nguồn vốn, Tổng nguồn vốn của Công ty giảm (-3,77%) sở dĩ là do Nợ
phải trả của Công ty biến động giảm lớn hơn nhiều so với biến động tăng của Vốn
chủ sở hữu. Theo bảng số liệu trên, Nợ phải trả của Công ty năm 2008 giảm so với
năm 2007 là 4,14% còn Vốn chủ sở hữu tăng 2,18%. Điều đó đã tác động tích cực
đến tỷ trọng cơ cấu nguồn vốn của Công ty. Tỷ trọng Nợ phải trả so với Tổng
nguồn vốn giảm từ 94,18% xuống còn 93,82%, tỷ trọng Vốn chủ sở hữu tăng từ
5,82% lên 6,18%, tức là tỷ trọng Nợ phải trả giảm 0,36% còn tỷ trọng Vốn chủ sở
hữu tăng 0,36%. Đây là dấu hiệu tích cực đối với tình hình tài chính của Công ty:
giảm Nợ phải trả và tăng Vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, tỷ trọng Nợ phải trả của
Công ty vẫn ở mức rất cao, trong hai năm đều trên 90%. Do đó Công ty có cơ cấu
nguồn vốn chưa hợp lý và có thể thấy Công ty đang bị lệ thuộc nhiều vào các
nguồn vốn bên ngoài, nhất là nguồn vốn vay. Dầu vậy với xu hướng tăng tỷ trọng
Vốn chủ sở hữu và giảm tỷ trọng Nợ phải trả cho thấy Công ty đã có những biện
pháp tác động để giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài và ảnh hưởng đến tình hình tài
chính.
Như vậy có thể thấy cơ cấu tài sản, nguồn vốn của Công ty trong năm 2008
có biến động và những biến động này đều có xu hướng tích cực nhằm tác động
lành mạnh đến tình hình tài chính của Công ty. Tuy nhiên, Công ty chưa xây dựng
được một cơ cấu tài sản và nguồn vốn hợp lý, vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng từ bên
ngoài và khả năng chủ động trong tài chính còn hạn chế. Trước tình hình kinh tế

toàn cầu, đặc biệt là biến động của kinh tế Việt Nam năm 2008 vừa qua, tuy có tác
động làm giảm Tổng tài sản và Tổng nguồn vốn của Công ty nhưng Công ty vẫn
có những cải thiện đối với cấu trúc tài chính như vậy đã góp phần lành mạnh hóa
tình hình tài chính của Công ty.
2.3.1.2. Phân tích mức độc lập tài chính
Chính từ biến động tích cực của cấu trúc tài chính, nhất là biến động của cơ
cấu nguồn vốn: tăng tỷ trọng Vốn chủ sở hữu, giảm tỷ trọng Nợ phải trả đã chứng
tỏ Công ty quan tâm đến khả năng tự chủ tài chính và muốn nâng cao mức độc lập
tài chính nội tại của bản thân.
Do đó, ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2-2
Bảng phân tích mức độc lập tài chính của Công ty giai đoạn 2007-2008
Đơn vị tính: VND
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch
1.Vốn chủ sở hữu 59.546.724.498. 60.845.760.397 +1.299.035.899
2.Tổng nguồn vốn 1.022.596.449.886 984.000.184.255 -38.596.265.631
3.Tài sản dài hạn 76.794.555.130 78.499.334.224 +1.704.779.094
4.Hệ số tài trợ VCSH
(1/2)
0,0582 0,0618 + 0,0036
5.Hệ số tự tài trợ
TSDH từ VCSH (1/3)
0,7751 0,7754 + 0,0003
Nguồn: Tài liệu Phòng Tài chính kế toán
Căn cứ vào kết quả bảng tính, Hệ số tài trợ Vốn chủ sở hữu của Công ty năm
2008 tăng so với năm 2007 là 0,0036 lần. Có thể giải thích cho sự tăng lên này là
do Công ty đã có sự điều chỉnh để tăng Vốn chủ sở hữu và giảm Nợ phải trả. Hơn
nữa, do mức giảm của Nợ phải trả lớn hơn rất nhiều so với mức tăng Vốn chủ sở
hữu nên tác động làm Tổng nguồn vốn giảm. Chính vì thế khi Vốn chủ sở hữu tăng
và Tổng nguồn vốn giảm thì chỉ tiêu này xác định trong năm 2008 lớn hơn so với

năm 2007. Tuy nhiên, chỉ tiêu này ở cả hai năm đều thấp cho thấy mức độc lập tài
chính của Công ty chưa cao, khả năng tự chủ trong tài chính còn yếu và hạn chế.
Dầu vậy, với xu hướng tăng lên của chỉ tiêu này và dù mức độ tăng lên chưa nhiều
nhưng chứng tỏ Công ty đang bước đầu giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn bên
ngoài, cụ thể là nguồn vốn vay nợ đồng thời tác động tích cực đến việc nâng cao
năng lực tài chính, nhất là nâng cao sự độc lập về tài chính của Công ty.
Bên cạnh đó, Hệ số tự tài trợ Tài sản dài hạn từ Vốn chủ sở hữu năm 2008
và năm 2007 là gần tương đương nhau, mức độ tăng lên quá nhỏ (+0,0003 lần) cho
thấy khả năng tài trợ Tài sản dài hạn từ Vốn chủ sở hữu của Công ty trong năm
2008 không giảm sút mà ít nhất là vẫn đảm bảo được như năm 2007. Nhưng chỉ
tiêu này tại hai năm đều chưa cao chứng tỏ Vốn chủ sở hữu của Công ty chưa đủ
để đáp ứng nhu cầu tài trợ Tài sản dài hạn. Điều đó có nghĩa là ngoài nguồn tài trợ
là Vốn chủ sở hữu, Tài sản dài hạn của Công ty còn được hình thành và tài trợ từ
nguồn vốn vay nợ phải trả. Chính vì thế mà Công ty chưa có được sự độc lập hoàn
toàn trong vấn đề tài chính, tức là khả năng độc lập tài chính còn hạn chế, còn phụ
thuộc khá nhiều vào bên ngoài. Điều này có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của Công ty. Mặt khác, do chỉ tiêu này trong năm 2008 tăng lên so với năm 2007
cho thấy Công ty đã có những tác động tích cực nhằm tăng mức độc lập tài chính
nhưng chưa phát huy hiệu quả rõ rệt. Do đó, Công ty cần nghiên cứu lại những
biện pháp đã thực hiện đồng thời tìm kiếm, học hỏi và xây dựng những biện pháp
mới có tính khả thi cao hơn.
Vậy tóm lại, tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty năm 2008 so với
năm 2007 có thể khái quát như sau: giảm về mặt giá trị Tổng tài sản và Tổng
nguồn vốn, còn về cơ cấu thì có xu hướng tích cực khi tăng cơ cấu Vốn chủ sở
hữu, tăng mức độ độc lập tài chính. Tuy nhiên đây mới chỉ là những đánh giá ban
đầu về tình hình tài chính của Công ty trên một khía cạnh nên để có được những
đánh giá đầy đủ và xác thực hơn cần đi sâu vào phân tích một số góc độ tài chính
như vấn đề thanh toán, vấn đề hiệu quả kinh doanh hay khả năng gặp rủi ro tài
chính.
2.3.2. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán

2.3.2.1. Phân tích tình hình công nợ
Tình hình công nợ là một trong những góc độ tài chính được rất nhiều đối
tượng quan tâm bởi lẽ nó cho thấy khả năng chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn
của Công ty. Các khoản công nợ tồn đọng lớn quá hay nhỏ quá, kéo dài liên tục
hay đứt quãng đều có tác động không lành mạnh đến tình hình tài chính của Công
ty. Vì thế, trên cơ sở đánh giá khái quát tình hình tài chính của Công ty trong giai
đoạn 2007-2008, ta thấy tình hình công nợ của Công ty cần được quan tâm và xem
xét cụ thể hơn. Mặt khác, do công nợ gồm nợ phải thu và nợ phải trả nên ta sẽ phân
tích tình hình công nợ theo hai nội dung: công nợ phải thu và công nợ phải trả.
Trước hết, ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2-3
Bảng phân tích khái quát nợ phải thu và nợ phải trả của Công ty
giai đoạn 2007-2008
Đơn vị tính: VND
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch
1. Tổng nợ phải thu 275.564.712.927 241.810.456.681 -33.754.256.246
2. Tổng nợ phải trả 963.049.725.388 923.154.423.858 -39.895.301.530
3. Tỷ lệ nợ phải thu so với nợ
phải trả
0,29 0,26 -0,03
Nguồn: Tài liệu Phòng Tài chính kế toán
Qua bảng trên, Tổng nợ phải thu và Tổng nợ phải trả của Công ty năm 2008
giảm so với năm 2007. Cụ thể, Tổng nợ phải thu giảm 33.754.256.246 đồng còn
Tổng nợ phải trả giảm 39.895.301.530 đồng. Do đó, tỷ lệ các khoản phải thu so với
các khoản phải trả giảm từ 0,29 lần xuống còn 0,26 lần tức là giảm đi 0,03 lần.
Hơn nữa, chỉ tiêu này của cả hai năm đều khá thấp cho thấy số nợ phải thu nhỏ hơn
rất nhiều so với số nợ phải trả. Điều đó có nghĩa là Công ty để bị chiếm dụng vốn ít
hơn số vốn đi chiếm dụng được. Như vậy chứng tỏ Công ty có khả năng đi chiếm
dụng vốn và số vốn Công ty đi chiếm dụng là khá lớn.
Tuy nhiên chỉ tiêu này đang có xu hướng giảm nên bước đầu có thể thấy

Công ty đang ở trong tình trạng chiếm dụng rất nhiều vốn từ các đối tượng bên
ngoài. Điều đó không thực sự là dấu hiệu tích cực bởi song hành với việc chiếm
dụng được càng nhiều vốn thì đòi hỏi trách nhiệm với những khoản vốn đi chiếm
dụng đó của Công ty càng cao và rất nặng nề, từ đó ảnh hưởng đến uy tín và tình
hình tài chính của Công ty. Vì thế, Công ty cần xem xét lại chính sách thanh toán,
chính sách vay nợ để có những điều chỉnh hợp lý nhằm tạo sự cân bằng giữa nợ
phải thu và nợ phải trả. Bên cạnh đó, nên kết hợp với những biện pháp tác động
đến cấu trúc tài chính nhất là cơ cấu nguồn vốn để tạo sự tương hợp giữa tỷ lệ nợ
phải trả và nguồn vốn, tỷ lệ nợ phải trả với nợ phải thu.
Mặt khác do nợ phải thu và nợ phải trả của Công ty có biến động giảm nên
ta tiến hành so sánh các khoản nợ phải thu, nợ phải trả của hai năm từ các chỉ tiêu
tổng hợp đến các chỉ tiêu chi tiết để xác định các nhân tố tác động đến biến động
này.
Về tình hình nợ phải thu, ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2-4
Bảng phân tích tình hình các khoản phải thu
Đơn vị tính: VND
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ lệ
1. Phải thu ngắn hạn 275.564.712.927 241.810.456.681 -33.754.256.246 -12,25
- Phải thu khách hàng 167.683.401.109 156.603.259.788 -11.080.141.321 -6,61
- Trả trước cho người bán 82.650.394.272 86.051.492.092 +3.401.097.820 +4,12
- Các khoản phải thu
ngắn hạn khác
34.415.569.849 9.785.492.384 -24.630.077.465 -71,57
- Dự phòng phải thu khác (9.184.652.303) (10.629.787.583) -1.445.135.280 +15,73

×