Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN CÔNG NGHỆ CMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.98 KB, 9 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN CÔNG NGHỆ CMC
3.1. Đánh giá tổng quát về tình hình tài chính năm 2008 của Công ty Cổ phần Tập
đoàn công nghệ CMC
Mặc dù tình hình kinh tế năm 2008 gặp nhiều khó khăn như: lạm phát tăng cao, chi
tiêu công bị cắt giảm, chính sách tiền tệ bị thắt chặt, lãi suất tăng cao, tỷ giá và ngoại hối
biến động khó lường…nhưng với sự chỉ đạo kịp thời và đúng hướng của Hội đồng quản
trị, sự điều hành linh hoạt, quyết liệt của Ban điều hành cũng như nỗ lực không mệt mỏi
của toàn thể cán bộ nhân viên, Tập đoàn Công nghệ CMC đã vượt qua năm 2008 với
những kết quả hết sức khả quan. Tất cả các công ty thành viên đều có sự tăng trưởng mạnh
về doanh thu và lợi nhuận sovới năm 2007 và hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra từ đầu năm
với tỷ lệ rất đáng khích lệ.
Về kết quả kinh doanh:
Tổng doanh thu toàn Tập đoàn (bao gồm doanh thu nội bộ) đạt 2.353 tỷ đồng, hoàn
thành 103% kế hoạch năm 2008, tăng trưởng hơn 53% so với năm 2007.
Đi đôi với tăng trưởng về doanh thu, năm 2008 lợi nhuận trước thuế CMC đạt 111,24
tỷ đồng (2007: 90,02 tỷ đồng), tăng trưởng 24% so với cùng kỳ năm 2007.
Tình hình tài chính năm 2008 của Tập đoàn CMC nhìn chung rất khả quan.
Về cấu trúc tài chính, quy mô vốn và tài sản của công ty đều tăng thể hiện sự mở rộng
về thị phần cũng như quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng lớn
Tài sản ngắn hạn tăng là một minh chứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh được mở
rộng, doanh thu tăng trưởng trong năm. Vì thế tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài
sản ngắn hạn khác đều tăng, riêng có các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn giảm nhưng đây
lại là chiến lược kinh doanh đúng đắn của công ty. Năm 2008 chứng kiến nhiều công ty
trong đó có cả những công ty niêm yết trên sàn chứng khoán thua lỗ nặng do hoạt động đầu
tư tài chính mà chủ yếu là đầu tư chứng khoán. Với CMC, có thể thấy hoạt động luôn bám
sát các lĩnh vực thuộc thế mạnh và truyền thống của mình mà không đầu tư dàn trải ra
nhiều ngành nghề lĩnh vực khác, điều này càng chứng minh chiến lược đúng đắn mà công
ty đã đề ra là: Phát triển mạnh mẽ 3 trụ cột chiến lược gồm Công nghệ thông tin, viễn
thông và Thương mại điện tử bằng phương thức không ngừng sáng tạo, đổi mới trong
nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp công nghệ cao. Song các khoản phải thu và hàng tồn


kho còn chiếm tỷ trọng lớn trong Tài sản ngắn hạn, gây ứ đọng vốn, giảm hiệu quả quay
vòng của vốn, là nhược điểm công ty phải khắc phục.
Tài sản dài hạn tăng chứng tỏ Tập đoàn đã có sự phát triển ổn định và chắc chắn, vì
thế ngày càng chú trọng hơn đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng, không chỉ góp phần nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà còn tạo ra đòn bẩy kinh tế cao, tạo động lực phát triển
sản xuất kinh doanh cho công ty. Tài sản dài hạn tăng mạnh ( tăng 866,91% ) giúp chuyển
dịch cơ cấu tài sản theo chiều hướng tốt, phù hợp với ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của
công ty. Bên cạnh sự tăng trưởng của Tài sản cố định thì các khoản đầu tư tài chính dài hạn
cũng tăng rất cao, năm 2008 chính sách đầu tư tài chính của công ty đã có nhiều thay đổi,
biểu hiện, công ty đã chú trọng đến đầu tư liên doanh- liên kết, điều này không chỉ giúp
mở rộng hoạt động kinh doanh mà còn tạo điều kiện học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, kiến
thức quản lý kinh tế giữa các công ty với nhau, hoạt động đầu tư liên doanh liên kết cũng
là xu hướng chung trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay.
Tài sản cố định tăng là một điều đáng khích lệ khi mà tỷ trọng của khoản mục này
trong tổng tài sản còn quá nhỏ. Nhưng qua phân tích cơ cấu tài sản nhận thấy, công ty có
quá nhiều tài sản đang trong giai đoạn đầu tư và xây dựng cơ bản dở dang dẫn đến chi phí
của Công ty tăng cao trong khi chưa thu được lợi nhuận, vì thế làm giảm hiệu quả sản xuất
kinh doanh, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty.
Tóm lại, với đặc điểm sản xuất kinh doanh đặc thù của Tập đoàn thì cơ cấu Tài sản
của công ty là khá hợp lý.
Về cơ cấu Nguồn Vốn:
Song song với sự chuyển dịch của tỷ trọng TSDH/TSNH thì cơ cấu Nợ vốn của
Công ty cũng có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng Nợ trên Tổng Nguồn
Vốn. Điều này phù hợp với sự tăng trưởng của vốn lưu động trong năm, góp phần nâng
cao hiệu quả tài chính cho Tập đoàn, đồng thời thực hiện được mục tiêu chiến lược tài
chính là tăng trưởng vốn vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Vốn chủ sở hữu sử
dụng tài trợ cho các tài sản dài hạn và một phần vốn lưu động ở mức tối thiểu. Nhưng qua
phân tích cho thấy việc phân bổ nguồn vốn là chưa hợp lý, tỷ trọng nợ phải trả quá cao,
việc tăng nhanh của nợ phải trả khiến cho tỷ trọng của khoản mục này tăng lên và tỷ trọng
vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn giảm. Nếu cứ duy trì tình trạng này sẽ tiềm ẩn rất

nhiều rủi ro cho doanh nghiệp, tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp giảm, đồng thời
mức độ phụ thuộc về tài chính với chủ nợ tăng lên.
Về tình hình Công nợ:
Một ưu điểm có thể nhận thấy đó là doanh nghiệp từ chỗ bị chiếm dụng vốn (năm
2007) chuyển sang đi chiếm dụng vốn, đây là xu hướng chung của các doanh nghiệp hiện
nay, trong sản xuất kinh doanh càng chiếm dụng được nhiều vốn càng tốt, nhưng cũng
phản ánh việc trả nợ của doanh nghiệp kém đi, có thể gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh
nghiệp.
Tiến hành phân tích cụ thể tình hình thanh toán với khách hàng lại cho thấy doanh
nghiệp đang bị khách hàng chiếm dụng vốn, công tác quản lý và thu hồi nợ của Công ty
chưa thực sự hiệu quả dẫn đến vốn bị ứ đọng và làm giảm hiệu quả kinh doanh của công
ty. Bên cạnh đó, khả năng trả nợ của doanh nghiệp cũng giảm nhưng không đáng kể, xét
trong điều kiện kinh tế hiện nay thì không đáng lo ngại. Tuy nhiên, so sánh thời gian một
vòng quay nợ phải thu khách hàng lại lớn hơn rất nhiều so với thời gian một vòng quay nợ
phải trả người bán, càng khẳng định việc thu hồi nợ khách hàng của Công ty kém.
Như vậy, việc công ty đi chiếm dụng vốn nhiều hơn bị chiếm dụng là do công ty vay
nợ nhiều, nếu không có sự cân đối trong quá trình chiếm dụng vốn của các đối tượng khác
nhau công ty sẽ dễ rơi vào tình trạng tài chính không lành mạnh và dẫn đến những rủi ro
khác.
Về khả năng thanh toán:
Nhìn chung khả năng thanh toán năm 2008 của công ty giảm. Cụ thể, các chỉ tiêu về
khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty cuối năm đều giảm so với đầu năm, đó là do có
sự biến động của tài sản ngắn hạn trong năm, song khả năng thanh toán nhanh vẫn được
đảm bảo. Khả năng thanh toán ngắn hạn còn ở mức thấp nhưng so sánh với doanh nghiệp
cùng lĩnh vực ( FPT ) thì đây là tình trạng chung của ngành. Bên cạnh đó, độ dài chu kỳ
kinh doanh tăng, là một trong những nguyên nhân làm cho khả năng thanh toán giảm đồng
thời phản ánh hiệu quả kinh doanh của công ty giảm, vì vậy các nhà quản trị cần phải lưu ý
trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh để tăng khả năng thanh toán cho công ty .
Khả năng thanh toán dài hạn của công ty cũng có xu hướng giảm nhưng vẫn đảm bảo,
đặc biệt mặc dù vay nợ nhiều nhưng công ty vẫn thừa khả năng chi trả các khoản lãi vay,

hiệu quả kinh tế của công ty tốt.
Tóm lại, năm 2008 khả năng thanh toán giảm song Tập đoàn vẫn thực hiện tốt việc
kiểm soát luồng tiền luôn đáp ứng nhu cầu thanh toán với các tổ chức tín dung và duy trì
thanh khoản ở trang thái tốt.
Về hiệu quả kinh doanh:
Trước tình hình biến động kinh tế đầy khó khăn và phức tạp của năm 2008, hiệu quả
kinh doanh của công ty giảm là điều không thể tránh khỏi. Tài sản của doanh nghiệp được
quay vòng nhiều hơn nhưng khả năng sinh lời giảm do chi phí tăng mạnh, điều đó cho thấy
hiệu quả của công tác tiết kiệm chi phí trong sản xuất kinh doanh giảm. Vì vậy, khả năng
sinh lời của doanh thu cũng giảm. Suất sinh lời của tài sản giảm là nguyên nhân chính
khiến cho khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu giảm. Tuy nhiên các chỉ tiêu về khả năng
sinh lời của công ty vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty đạt kết quả khả quan.
Năm qua, tiến độ thi công các công trình, dự án của công ty còn chậm, cụ thể Toà nhà
văn phòng, các dự án xây dựng hạ tầng kĩ thuật và công nghệ cao tại khu công nghiệp Sài
Đồng của công ty đều dự kiến đưa vào sử dụng trong quý I năm 2009 nhưng đến nay vẫn
chưa hoàn thành, tăng nhiều chi phí cho công ty trong khi chưa thu được đồng lợi nhuận
nào. Vì thế khiến cho hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn giảm. Bên cạnh đó hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn cũng không mấy khả quan, nguyên nhân chính là do hàng tồn kho của
công ty quay vòng chậm, hàng hoá bị ứ đọng nhiều, công tác tiêu thụ hàng của công ty
chưa tốt. Vì thế làm giảm hiệu quả kinh doanh của công ty.
Đánh giá thực trạng tài chính của Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ CMC qua
phân tích hệ thống Báo cáo tài chính hợp nhất cho thấy thực trạng kinh doanh cũng như
năng lực tài chính đều giảm sút, song kết quả kinh doanh vẫn hiệu quả, hoàn thành kế
hoạch đặt ra. Mặc dù vậy các nhà quản trị cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân khiến hiệu quả
kinh doanh giảm để có các biện pháp cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hơn,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của cả Tập đoàn, tiến tới là một Tập đoàn hàng đầu
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông và thương mại điện tử.
3.2. Một số ý kiến đóng góp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty Cổ phần
Tập đoàn công nghệ CMC
Năm 2009 là một năm đầy thách thức đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói

chung và thị trường CNTT nói riêng. Suy thoái toàn cầu và khủng hoảng tài chính sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường CNTT Việt Nam vẫn là thị
trường mới nổi, nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân vẫn còn rất lớn. Vì
vậy Tập đoàn CMC cần có những biện pháp và chiến lược cụ thể hơn nữa để phát triển sản
xuất kinh doanh cũng như cải thiện tình hình tài chính của công ty, bao gồm tình hình công
nợ, khả năng thanh toán cũng như hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có:
Thứ nhất, công ty cần có biện pháp tăng tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho. Mở
rộng bán hàng, chấp nhận thời gian thanh toán dài hơn đối với các đội thủ cạnh tranh để
mở rộng thị trường. Đồng thời có thể bán chịu dài thời gian cho khách hàng hơn để giữ
khách hàng nếu như khách hàng là những doanh nghiệp lớn có nhu cầu cung cấp đều đặn
hoặc những doanh nghiệp đưa ra những đảm bảo an toàn cho giao dịch mua bán. Tuy nhiên
cũng cần phải xem xét thời gian bán chịu để khong ảnh hưởng đến tình hình thu hồi nợ
khách hàng.
Điều quan trọng hơn đó là doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng
hàng hóa, dịch vụ bán ra, đồng thời có chiến lược mở rộng thị trường kinh doanh góp phần
tiêu thụ hàng hóa tốt hơn, cụ thể:
-Tăng cường đầu tư về nhân lực, phát triển sản phẩm và dịch vụ, tăng cường quan hệ
đối tác trong mảng dịch vụ tích hợp hạ tầng và ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, thuế, hải quan, viễn thông, giáo dục. Bên cạnh đó cần phát
triển mạnh dịch vụ phần mềm cho doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, tập trung vào các
doanh nghiệp sản xuất, phân phối.
-Nâng cao năng lực phát triển phần mềm theo yêu cầu, thông qua việc tiếp tục hoàn
thiện hệ thống kiểm soát chất lượng và đào tạo nội bộ nhân viên.

×