Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ TÌNH HÌNH THẤT THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở THỊ XÃ PHÚC YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.5 KB, 17 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ TÌNH HÌNH THẤT THU
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở THỊ XÃ PHÚC YÊN
3.1, Phương hướng chống thất thu thuế GTGT ở thị xã Phúc Yên
* Tính tất yếu phải chống thất thu thuế GTGT:
- Để đảm bảo nguồn thu cho NSNN:
Như ở trên đã trình bày thuế GTGT cũng là một loại thuế có vai trò đầu tiên
là đóng góp vào nguồn thu cho NSNN do đó việc chống thất thu thuế GTGT cũng
hướng tới việc đảm bảo cho nguồn thu NSNN. Thuế GTGT là một trong những chỉ
tiêu pháp định được nhà nước thông qua hàng năm, việc thu thuế có hoàn thành
hay không hoàn thành sẽ có ảnh hưởng đến các kế hoạch khác của chính phủ.
- Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, đáp ứng công bằng xã hội:
Một chính sách thuế đúng đắn, được thực hiện tốt không những tạo được
những ảnh hưởng tốt về mặt kinh tế, mà còn ở mặt xã hội thể hiện trong công bằng
xã hội. Như tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, giữa các DN cạnh tranh bình
đẳng, giảm bớt sự thắc mắc khiếu nại, tạo niềm tin cho họ yên tâm hoạt động kinh
doanh, đồng thời nâng cao được uy tín, niềm tin của các DN đối với cơ quan quản
lý NN, cũng như với NN nói chung.
Ngoài ra công bằng xã hội còn thể hiện ở chỗ phải giải quyết hài hòa mối
quan hệ về lợi ích của nhà nước và của ĐTNT, nhà nước thì luôn muốn thu được
nhiều thuế để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, còn các đối tượng nộp thuế luôn
tìm cách trốn thuế vì lợi ích riêng của mình. Do đó khi hoạch định các chính sách
thuế cần tính đến cả hai loại lợi ích này, đảm bảo sự hài hòa thì hiện tượng thất thu
thuế sẽ giảm.
* Tính tất yếu phải hoàn thiện luật thuế GTGT :
Xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển nền KTTT và việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nước ta hiện nay, cũng như đòi hỏi mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và xu
thế toàn cầu hoá hiện nay, thì việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và cơ
chế đảm bảo thực hiện là một tất yếu.
Bản thân nền kinh tế thị trường (KTTT) Việt Nam có những đặc thù riêng và
những đặc thù này đã có những tác động quan trọng tới quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện của pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật thuế nói riêng. Vì


vậy, hoàn thiện pháp luật thuế GTGT hiện nay một mặt nhằm đáp ứng những yêu
cầu của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, một mặt nhằm đáp ứng cơ chế
tự điều chỉnh của thương trường khi bản thân nền kinh tế thị trường đã phát triển
cũng như đảm bảo tính phù hợp của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta
hiện nay. Mặt khác, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá thì mục
tiêu bảo hộ và tạo nguồn thu thông qua thuế quan không còn mấy tác dụng, nguồn
thu từ thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ hạn hẹp dần, trong khi đó khả năng nâng cao
nguồn thu từ thuế trực thu (thuế thu nhập) cũng hết sức hãn hữu, bởi mức thu nhập
của dân cư nước ta còn thấp, nên trước mắt giải pháp khả thi hơn cả là nâng cao vai
trò của các thuế gián thu trong đó vai trò của thuế GTGT là hết sức quan trọng.Vì
vậy, việc hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và cơ chế đảm bảo thực hiện được đặt ra
như một tất yếu để nâng cao vai trò bù đắp sự suy giảm nguồn thu ngân sách của
nhà nước.
Mặt khác trong xu hướng toàn cấu hoá và hội nhập kinh tế với việc tham gia
vào các hiệp hội, tổ chức thương mại quốc tế như hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc hình thành các liên minh
thuế quan trọng đòi hỏi điều chỉnh phát luật thuế GTGT cũng như cơ chế đảm bảo
thực hiện chúng phải được chuyển đổi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đó để
tạo điều kiện thuận lợi chủ động trong việc tham gia phát triển hợp tác quốc tế.
Hơn nữa, mặc dù nước ta hiện nay đang phải chịu sức ép của quá trình cắt giảm
thuế nhập khẩu theo các cam kết cắt giảm thuế quan CEPT/ AFTA, nhưng vẫn phải
tạo đà phát triển kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với những
biến động và áp lực cạnh tranh để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế, vì lẽ này mà đòi hỏi pháp luật thuế GTGT phải có sự thay đổi cơ bản. Bên
cạnh đó, do tác động toàn cầu hoá quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh được mở rộng trên nhiều bình diện và sắc thái mới trong việc thành lập các
cơ sở kinh doanh. Khai thác triệt để các lợi ích thông qua các biện pháp chuyển giá
cùng với việc di chuyển linh hoạt các luồng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu
đã làm cho cuộc cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia trở nên gay gắt hơn và kết
quả của sự cạnh tranh này đã làm cho hệ thống pháp luật thuế của các nước trên

thế giới có xu hướng hội tụ và phụ thuộc nhau nhiều hơn. Vì vậy, việc hoàn thiện
pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và cơ chế đảm bảo thực hiện cũng không thể
đứng ngoài vòng xoáy đó.
3.1.1, Không ngừng hoàn thiện luật thuế GTGT:
- Về hóa đơn:
Hiện nay lợi dụng việc thanh toán bằng tiền mặt nhiều đối tượng đã ghi hóa
đơn và hạch toán sổ sách không đúng thực tế, do đó NN đã có các biện pháp hạn
chế thấp nhất việc thanh toán bằng tiền mặt tràn lan như hiện nay, như là khuyến
khích người dân hạn chế sử dụng tiền mặt trong giao dịch, thay thế bằng hình thức
thanh toán chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng, vì vậy trong Nghị định Chính
phủ số 123/2008 đã quy định rõ chỉ chấp nhận khấu trừ hành hóa, dịch vụ mua vào
khi có chứng từ thanh toán qua ngân hàng, trừ trường hợp tổng giá trị hàng hóa,
dịch vụ mua vào từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng.
Khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in, sử dụng hóa đơn tự in có rất nhiều
thuận lợi cho DN vì nó được thiết kế phù hợp với nhu cầu, mục đích kinh doanh,
giới thiệu quảng bá sản phẩm của chính DN, trên tờ hóa đơn còn ghi rõ tên, địa chỉ
của DN đã giúp họ tự khẳng định mình, tự chịu trách nhiệm trước khách hàng và
trước pháp luật, đảm bảo cả về công tác hạch toán kế toán trong việc sử dụng hóa
đơn,…Với những ưu điểm này, ngành thuế đã có nhiều chủ trương khuyến khích
các DN tự in hóa đơn, cùng với việc trang bị máy tính cho ngành Thuế nối mạng
để quản lý, sử dụng và đối chiếu chéo trong cả nước, để kiểm tra, phát hiện sai
phạm thì việc khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in sẽ thúc đẩy các DN tăng cường
nội bộ để quản lý, sử dụng hóa đơn và ngăn ngừa các trường hợp sử dụng hóa đơn
bất hợp pháp của các đơn vị khác.
- Niên yết giá:
Điều 29 Pháp lệnh giá ngày 8/5/2002 quy định: “Tổ chức, cá nhân phải niên
yết giá hàng hóa, dịch vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ tại
cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa và cung cứng dịch vụ, việc liên yết giá
phải rõ ràng, không gây nhần lẫn cho khách hàng”, và “Đối với hàng hóa, dịch vụ
do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân SXKD phải niên yết đúng giá do cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền quy định và mua bán đúng giá đã niên yết”. Việc niên yết
giá này có rất nhiều tác dụng, vừa là để bảo vệ người tiêu dùng , cơ quan thuế cũng
có thể thông qua giá cả được niên yết tại các điểm mua, bán hàng hóa từ đó đối
chiếu với bảng kê mua, bán hàng hóa trên tờ khai thuế hàng tháng và kiểm soát
được các chỉ tiêu khi duyệt thanh quyết toán tài chính.
- Có những hình phạt nghiêm khắc hơn đối với hành vi trốn thuế và gian lận
thuế:
Vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định 13/2009/NĐ-CP, ngày 13.2.2009
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2007/NĐ-CP, ngày 7.6.2007
về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế... có nội dung chính là tăng mức phạt đối với các hành vi vi phạm về thuế.
Nghị định 13 có hiệu lực từ ngày 1.4.2009. Với Nghị định 13, rất nhiều hành vi vi
phạm pháp luật về thuế sẽ bị xử lý nghiêm, với mức phạt cao gấp từ 1 đến 3 lần
nhưng không quá 100 triệu đồng đối với các hành vi vi phạm thủ tục thuế.
Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế
được hoàn sẽ bị phạt 10% số tiền thuế thiếu; phạt từ một đến ba lần số tiền thuế
trốn đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Nghị định 13 cũng có bổ sung mức phạt tiền từ 500 ngàn đồng đến 5 triệu
đồng khi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định từ trên 40 ngày đến 90 ngày;
nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn quy định trên 90 ngày nhưng không phát sinh số
thuế phải nộp.
Điều chỉnh thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan thuế
như sau: đối với các hành vi vi phạm về thủ tục thuế, nhân viên Thuế đang thi hành
công vụ có quyền phạt tiền đến 200.000 đồng và Đội trưởng Đội Thuế có quyền
phạt tiền đến 5.000.000 đồng thay vì quy định cũ chỉ là 100.000 đồng và 2.000.000
đồng. Chi cục trưởng Chi cục Thuế, trong phạm vi địa bàn quản lý của mình, có
quyền phạt tiền đến 20 triệu đồng, gấp đôi mức phạt cũ.
3.1.2, Cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế:
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra:
Để công tác thanh tra, kiểm tra tránh được hai thái cực: Thất thu thuế nhiều

vì ít kiểm tra; kiểm tra quá nhiều khiến thị trường bị xáo trộn, DN lúc nào cũng
trong tình trạng căng thẳng vì bị giám sát, tốn kém tiền của, thời gian, nhân lực,…
Để làm được điều đó thì thanh tra, kiểm tra thuế phải hướng tới chiều sâu. Tập
trung vào các DN, các hộ kinh doanh có quy mô tương đối lớn, các đơn vị có số
thu lớn, những đơn vị nhiều năm chưa được kiểm tra, các đối tượng ghi giá không
đúng thực tế mà qua khảo sát giá liên yết đã có thông tin, và một số DN thuộc lĩnh
vực có ưu đãi thuế, lĩnh vực nhạy cảm,…Về hoàn thuế: rà soát các chính sách liên
quan đến quy trình hoàn thuế GTGT, khoanh vùng, phân loại đối tượng hoàn thuế,
tiến hành kiểm soát chặt chẽ hơn đối với những cơ sở hoàn thuế thuộc lĩnh vực
nhạy cảm.
- Quan tâm hơn đến dịch vụ hỗ trợ nguời nộp thuế:
Nhiều chuyên gia kinh tế đã phân tích tổng kết, đánh giá về ý thức chấp
hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT theo hình chóp sau
1- Đại bộ phận là chấp hành nghiêm chỉnh;
3- Là bộ phận nhỏ tìm cách trốn thuế ; 3
2- Là bộ phận nếu không được tuyên truyền, giải thích 2
kịp thời về chính sách thuế dễ dẫn đến vi pham; 1
Để giảm dần những hiện tượng vi phạm về thuế, không chỉ sử dụng các biện
pháp thanh tra, kiểm tra mà cần phải coi trọng cả công tác tuyên truyền hỗ trợ đối
tượng nộp thuế, cần đặt công tác này ngang tầm với công tác thanh tra, kiểm tra; để
có thể tác động một cách tốt nhất vào nhóm đối tượng thứ 2 trong hình chóp trên,
hướng họ đến chấp hành nghiêm chỉnh luật thuế.
Công tác dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế có tác dụng thiết thực đối với
ĐTNT, nhằm ngăn ngừa, giảm dần những sai phạm thường mắc phải, việc này
cũng tạo thuận lợi cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế được mở rộng sẽ tiết kiệm được
rất nhiều chi phí quản lý trong toàn xã hội: DN không mất quá nhiều thời gian và
tiền của cho quá trình tìm hiểu và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, cơ quan thuế lại
càng tiết kiệm được nhiều hơn trong công tác quản lý thu thuế, đồng thời số sai
phạm giảm xuống, DN chủ động thực hiện nộp thuế vào NSNN từ đó hạn chế mức

thấp nhất các cuộc thanh tra, kiểm tra không cần thiết.
Bên cạch việc tuyên truyền hướng vào ĐTNT cũng cần hướng tới mọi người
dân nói chung: nâng cao hiểu biết pháp luật về thuế, và một điều đặc biệt đó là tạo
được thói quen sử dụng hóa đơn khi mua hàng.

×