PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP
KHẨU TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN CỦA
TỔNG CỤC HẢI QUAN
3.1. Định hướng trong hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu của Việt
Nam
3.1.1. Các mục tiêu chống thất thu thuế nhập khẩu của Chính phủ
Năm 2009, mặc dù bị tác động bởi những điều chỉnh chính sách nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, song kết quả thu ngân sách qua hàng hóa XNK do ngành
Hải quan thực hiện vẫn đạt và vượt chỉ tiêu, đạt 132.000 tỷ đồng, tăng 5,5% so với
dự toán năm và tăng 3,4% so với năm 2008. Song nói gì thì nói những chính sách
điều hành hoạt động XNK, điều chỉnh thuế suất thuế XK, thuế NK của nhiều nhóm
mặt hàng; việc cho phép giãn, giảm thuế GTGT đối với một số hàng hóa, dịch vụ
DN kinh doanh gặp khó khăn... cũng phần nào tác động đến số thu ngân sách của
ngành Hải quan. Trong điều kiện đó việc đề ra các biện pháp tăng thu ngân sách
của ngành Hải quan có vai trò quan trọng.
Tăng cường chống thất thu, khai thác hiệu quả các nguồn thu là một trong
những biện pháp mà ngành Hải quan đã áp dụng trong năm 2009 nhằm tăng thu
ngân sách. Đó là thực hiện Chỉ thị của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc
tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và chống thất thu
thuế, triển khai các biện pháp để tăng cường thu ngân sách, cải cách thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho DN chủ động hoạt động XNK. Đồng thời công tác kiểm
tra sau thông quan đã hạn chế thấp nhất việc DN lợi dụng sơ hở tại các khâu trước
và trong thông quan nhằm gian lận, trốn thuế. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời những
kẽ hở của chính sách pháp luật, những khoảng trống trong quản lý, kịp thời khắc
phục, truy thu thuế lớn. Công tác phân tích phân loại hàng hoá XNK chống gian
lận thương mại qua mã số HS cũng được tăng cường, góp phần thu đúng, thu đủ
thuế cho Nhà nước.Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì việc chống thất thu
thuế nhập khẩu là việc làm cấp bách, quan trọng không những của ngành hải quan
mà còn của các Bộ, Ngành liên quan.
Đến năm 2010 ngành hải quan sẽ tăng cường công tác thu hồi nợ đọng, giảm
nợ cũ, thu hồi nợ thuế trên 1.000 tỷ đồng. Chú trọng công tác kiểm tra sau thông
quan phục vụ đắc lực nhiệm vụ thu ngân sách, khắc phục những sơ hở, yếu kém
trong quá trình làm thủ tục hải quan. Tăng cường công tác kiểm soát hải quan
nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn cộng đồng, chống thất thu thuế.
Đồng thời nâng cao năng lực công tác phân tích phân loại hàng hoá, chống gian lận
thương mại qua mã số góp phần thu đúng, thu đủ thuế cho Nhà nước, bảo vệ cộng
đồng, an toàn môi trường, an ninh xã hội. Bên cạnh đó, ngành Hải quan tiếp tục
thực hiện tốt Đề án quản lý giá tăng cường các biện pháp chống gian lận thương
mại qua giá tính thuế.
Ngành Hải quan cũng sẽ tiến hành kiểm tra sau thông quan đối với các DN
trọng điểm, mặt hàng trọng điểm, chủ động thu thập, nghiên cứu, xử lý thông tin về
hoạt động gia công, sản xuất XK theo ngành hàng, nhóm mặt hàng để lựa chọn đối
tượng kiểm tra, góp phần thu đúng thu đủ cho NSNN.
Chính sách ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải đảm bảo tính rõ
ràng, công bằng, minh bạch, ổn định và không phân biệt đối xử, tạo điều kiện cho
đối tượng nộp thuế thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đúng thời hạn; Các quy
định xử lý đối với các đối tượng chậm nộp phải phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm
bảo các nguyên tắc tôn trọng ý thức, sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế
và xử lý phải đảm bảo công bằng.
Hạn chế tình trạng thất thu thuế, đồng thời tạo điều kiện cho đối tượng nộp
thuế có điều kiện tài chính để nộp thuế cần có sự ràng buộc, gắn trách nhiệm nộp
thuế mới phát sinh và số tiền thuế còn nợ của đối tượng nộp thuế với điều kiện làm
thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu.
Áp dụng chính sách ân hạn thuế dựa trên cơ sở ý thức chấp hành pháp luật
về thuế và hải quan của đối tượng nộp thuế. Để tránh tình trạng lợi dụng chính sách
ân hạn để chây ỳ, trốn thuế, chỉ có thể áp dụng chính sách ân hạn nộp thuế đối với
các đối tượng có quá trình chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, không có hành vi gian lận
thương mại, trốn thuế, không còn nợ thuế quá hạn, không còn nợ tiền phạt, chấp
hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; gắn điều kiện để
được ân hạn thuế với điều kiện để được thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu.
Việc xác định đối tượng nộp thuế có quá trình chấp hành tốt chính sách pháp
luật về thuế, về hải quan trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu để làm cơ sở cho
phép ân hạn thuế và ưu tiên làm thủ tục hải quan. Để làm được điều đó, cần phải
xấy dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, trong đó các chỉ tiêu chủ yếu bao gồm: tình
hình chấp hành nghĩa vụ thuế, chấp hành pháp luật về hải quan, thực hiện chế độ
báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu thông tin phải đảm bảo thống nhất, đồng bộ với việc
đánh giá chấp hành pháp luật của người khai hải quan và phải được kết nối trên tất
cả các điểm thông quan trong cả nước làm cơ sở để ra quyết định thông quan hàng
hóa.
Cơ quan hải quan phải tổ chức hệ thống kế toán để theo dõi, quản lý thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đến từng đối tượng nộp thuế nhằm ghi
chép, phản ánh chính xác các khoản nợ thuế phải trả của đối tượng nộp thuế;
thường xuyên đối chiếu các khoản nợ phải đến hạn phải trả, nợ phát sinh, nợ quá
hạn giữa cơ quan hải quan và đối tượng nộp thuế. Thông tin về nợ thuế quá hạn
phải được cập nhật thường xuyên trên hệ thống thông tin nghiệp vụ hải quan để
làm cơ sở cho các đơn vị hải quan các cấp kiểm soát kịp thời, chính xác để áp dụng
chế độ kiểm tra hải quan, ân hạn thuế đối với đối tượng nộp thuế có quá trình chấp
hành tốt pháp luật về thuế và hải quan.
3.1.2. Phương hướng chống thất thu thuế trong quản lý nhà nước về hải quan
- Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động chống thất thu
thuế nhập khẩu của tổng cục hải quan. Theo dõi, nắm sát tình hình thực hiện luật
hải quan và các văn bản hướng dẫn thực hiện để có đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ
sung các qui định phù hợp với yêu cầu chống thất thu thuế trong điều kiện hiện nay
ở Việt nam và phù hợp với cam kết quốc tế.
- Quy hoạch và hoàn thiện thiết kế hạ tầng trong ngành Hải quan đảm bảo
kết nối các địa bàn, khâu nghệp vụ trong toàn ngành theo định hướng mô hình tập
trung xử lý dữ liệu điện tử, đảm bảo độ an ninh, an toàn trong quá trình truy cập,
khai thác, trao đổi thông tin với các đối tác của hải quan cũng các cơ quan của
chính phủ và Hải quan quốc tế
- Đổi mới qui trình thủ tục hải quan cho phù hợp cơ chế tự kê khai thuế, tự
nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, cần làm tốt công tác xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về giá tính thuế; tăng cường các biện pháp kỹ thuật,
nghiệp vụ, phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu cần phải
nâng cao hơn nữa năng lực của cơ quan hải quan trong việc phân tích, phân loại, áp
mã số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhằm đảm bảo việc áp mã số
thuế tuân thủ theo đúng chuẩn mực quốc tế về phân loại và mã hóa hàng hóa xuất
nhập khẩu.
- Xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hải quan có kỷ luật, trung
thực, chuyên môn nghiệp vụ cao và có tinh thần văn minh lịch sự bằng cách tiêu
chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp; tuyển dụng, bố trí, đào tạo, luân chuyển cán bộ
công chức theo nguyên tắc đúng người, đúng việc phát huy năng lực, sở trường của
cá nhân
3.2. Giải pháp hạn chế tình trạng thất thu thuế nhập khẩu
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu
3.2.1.1. Hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu, thuế suất và phân loại để áp mã số
thuế.
Biểu thuế quan là ‘ linh hồn” của chính sách thuế nhập khẩu của mỗi quốc
gia. Hệ thống Biểu thuế nhập khẩu hiện hành cần phải sửa đổi theo hướng: thống
nhất danh mục, mã số từng mặt hàng ở cấp độ 10 số, mức thuế suất thuế nhập khẩu
phải đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế, ổn định trong một thời gian nhất định;
Có thể công bố lộ trình sửa đổi trong thời gian tối thiểu là 5 năm. Hệ thống biểu
thuế nhập khẩu được xây dựng phải đảm bảo khả năng tích hợp với hệ thống thông
quan điện tử và cơ sở dữ liệu, thông tin nghiệp vụ hải quan.
Việc hoàn thiện danh mục biểu thuế nhập khẩu cần phải dựa vào danh mục
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Tổ chức Hải quan thế giới được cụ thể hóa
bằng danh mục hàng hóa nhập khẩu tại việt nam là bước đi cần thiết nhằm góp
phần hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu cho phù hợp với danh mục biểu thuế nhập
khẩu của các nước trên thế giới. Biểu thuế nhập khẩu phải chi tiết, cụ thể với từng
nhóm mặt hàng, và mang tính ổn định cao. Yêu cầu này xuất phát từ thực tế là biểu
thuế nhập khẩu hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu ổn định, còn nhiều mức thuế
suất và có những mức thuế suất đề ra không phù hợp với tình hình thực tế dẫn đến
tình trạng khiếu nại của các doanh nghiệp. Trong tương lai cần giảm bớt các mức
thuế suất, đơn giản biểu thuế cả về số lượng mức thuế suất và khoảng cách giữa
các mức thuế suất. Đồng thời, gắn chính sách quản lý đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu với Biểu thuế để có cơ sở áp dụng mức thuế suất phù hợp với chính
sách thương mại giữa Việt nam với các nước.
Hoàn thiện Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo hướng tiếp tục đàm phán để
hoàn thiện danh mục hàng hóa chung ASEAN ( danh mục AHTN) làm căn cứ để
ban hành biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đảm bảo tính minh bạch của Biểu thuế; đồng
thời hoàn thiện hệ thống chú giải Biểu thuế để đảm bảo rõ ràng, minh bạch nhằm
tránh tình trạng lợi dụng hoặc tranh chấp mã số thuế giữa cơ quan hải quan và đối
tượng nộp thuế. Về mức thuế suất cụ thể cần hoàn thiện theo hướng đảm bảo phù
hợp với danh mục nhóm hàng chịu thuế và trong phạm vi khung thuế suất do ủy
ban thường vụ Quốc hội ban hành; góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước và bình ổn thị trường; bảo hộ sản xuất trong nước có chọn lọc, có điều kiện,
có thời hạn phù hợp với điều ước quốc tế mà Cộng hòa chủ nghĩa Việt nam là
thành viên. Đồng thời nghiên cứu áp dụng thuế tuyệt đối đối với một số mặt hàng
cần thiết nhằm hạn chế tình trạng gian lận thương mại qua giá tính thuế để đảm bảo
tính đơn giản và hữu hiệu trong việc chống gian lận thương mại và trốn thuế.
3.2.1.2. Xác định đúng trị giá tính thuế
Trong điều kiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, giá cả là yếu tố
thường xuyên biến động, sự tăng giảm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.
Tôn trọng đặc điểm khách quan của sự hình thành và biến động của giá cả, hệ
thống trị giá tính thuế theo hiệp định trị giá GATT/WTO đưa ra một nguyên tắc ổn
định cho việc xác định trị giá tính thuế là chấp nhận ở phạm vi lớn nhất có thể việc
sử dụng trị giá giao dịch của hàng hóa làm trị giá tính thuế. Với 6 phương pháp xác
định trị giá tính thuế đòi hỏi phải được tuân thu nghiêm ngặt và thống nhất với
nguyên tắc chung, trị giá giao dịch hoặc một trị giá gần gũi nhất với trị giá giao
dịch có thể xác định được trong hầu hết các trường hợp hàng hóa nhập khẩu. Bên
cạnh đó, khi áp dụng Hiệp định, đòi hỏi các nước tham gia phải xây dựng được
hành lang pháp luật hoàn thiện, đầy đủ và chặt chẽ. Các điều luật, qui định, quyết
định và hướng dẫn phải được công khai, đảm bảo cả cơ quan quản lý và cộng đồng
doanh nghiệp đều nắm vững và vận hành chính xác. Các quyền, nghĩa vụ và nhiệm
vụ của doanh nghiệp, của cơ quan quản lý đều được phân định rõ ràng và được
điều trỉnh bằng các chế tài pháp luật cụ thể.
Hiện nay, hiệp định trị giá tính thuế GATT/WTO được nhiều tổ chức kinh tế
quốc tế sử dụng như một hệ thống chung cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Thậm chí, WTO còn coi Hiệp định như một trong các điều kiện tiền đề bắt buộc
các nước thành viên mới phải thỏa mãn trước khi gia nhập tổ chức. Số lượng các
nước thừa nhận và tham gia hiệp định ngày càng tăng. Đến nay, đã có chính thức
150 nước và lãnh thổ hải quan áp dụng hiệp định này. Vì vậy, để việc xác định trị
giá thuế nhập khẩu theo đúng nguyên tắc của hiệp định chung về thuế quan và
thương mại( GATT), cần thiết phải sửa đổi các quy định nhằm đảm bảo thống nhất
trong hệ thống pháp luật về việc xác định trị giá tính thuế, theo đó, giá tính thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập khẩu đầu
tiên theo hợp đồng phù hợp với cam kết quốc tế.
3.2.1.3. Về phương pháp tính thuế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, cũng như gia nhập
WTO đòi hỏi các quốc gia thành viên phải loại bỏ các biện pháp phi thuế quan
nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại thì việc sử dụng phương pháp tính
thuế nhập khẩu theo mức tuyệt đối( gọi tắt là thuế tuyệt đối) là một trong những
công cụ hữu hiệu nhằm góp phần trong việc chống gian lận thương mại qua giá
tính thuế đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc
áp dụng thuế tuyệt đối đối với một số mặt hàng nhập khẩu ở nước ta trong thời
gian tới là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo hộ các
ngành sản xuất non trẻ trong nước, tăng cường công tác nhập khẩu nói chung, cũng
như chức năng điều tiết vĩ mô của công cụ thuế nói riêng.
Từ trước đến nay, phương pháp tính thuế nhập khẩu ở Viêt nam chủ yếu mới
chỉ sử dụng tính thuế theo tỷ lệ phần trăm trên giá thuế của hàng xuất khẩu, nhập
khẩu. Đối với một số mặt hàng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp nhập khẩu khai thấp
giá tính thuế thì số tiền thuế thu được sẽ giảm đáng kể dù thuế suất được ấn định ở
mức cao. Đồng thời, do mức thuế phải nộp thấp nên giá bán của các mặt hàng này
trên thị trường trong nước sẽ thấp, không đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh
doanh. Thuế suất càng cao thì động cơ trốn thuế do khai thấp giá tính thuế càng
lớn.
Trong thời gian qua, khi triển khai áp dụng các phương pháp xác định trị giá
tính thuế hàng nhập khẩu theo hiệp định trị giá GATT/WTO đã phát sinh tình trạng
gian lận trốn thuế qua giá rất phổ biến. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có một công cụ
quản lý mới nhằm chống gian lân thương mại mà không vi phạm các qui định của
WTO. Thuế tuyệt đối sẽ là công cụ phù hợp vì đánh thuế không dựa trên giá trị
hàng hóa. Thuế tuyệt đối sẽ phát huy vai trò của mình trong các trường hợp hàng
nhập khẩu được khai giá tính thuế thấp khiến thuế phần trăm giảm tác dụng. Ví dụ
như, một số mặt hàng nhập khẩu từ Trung quốc như gạch bộ vòi tắm, gạch ốp- lát,
kính xây dựng, sứ vệ sinh…, được khai báo giá nhập khẩu thấp và bán với giá thấp
hơn so với giá bình quân của các mặt hàng cùng chủng loại trên thị trường trong
nước. Đây cũng là những mặt hàng có mức độ bảo hộ cao và có khả năng cung ứng
của các doanh nghiệp trong nước nhìn chung đã đủ khả năng đáp ứng hoặc vượt
mức cầu trong nước. Các doanh nghiệp trong nước đã và đang bị ảnh hưởng không
nhỏ bởi tình trạng nhập khẩu và bán trên thị trường với giá thấp của các mặt hàng
nói trên. Vì vậy, áp dụng thuế tuyệt đối đối với các mặt hàng này sẽ có tác dụng
quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất, tạo ra sự công bằng và ổn định trên thị
trường trong nước.
Ngoài ra, trong công tác quản lý nhập khẩu, có một số mặt hàng rất khó xác
định giá trị ngay cả khi đã áp dụng các phương pháp của hiệp đinh trị giá
GATT/WTO, chẳng hạn như hàng điện tử, ô tô nhập khẩu đã qua sử dụng… Đối
với nền kinh tế nước ta khi gia nhập WTO, việc nhập khẩu các mặt hàng này là tất
yếu và có khả năng mở rộng. Đối với những mặt hàng này, thuế phần trăm giảm
tác dụng vì mức thu được tính trên giá trị hàng hóa. Để quản lý và điều tiết hoạt
động nhập khẩu đối với những mặt hàng này, thuế tuyệt đối sẽ là một công cụ phù
hợp vì tính theo các tiêu chuẩn đo lường định hướng của hàng hóa. Ngoài ra, đối
với hàng tiêu dùng nhập khẩu có giá trị nhỏ mà chi phí để xác định giá tính thuế
lớn thì việc áp dụng thuế tuyệt đối sẽ có hiệu quả hơn so với thuế phần trăm
Trong điều kiện xác định trị giá hải quan theo hiệp định trị giá GATT/WTO,
để tránh những bất cập trong thời gian đầu thực hiện như các nước đã đi trước vì
thiếu cơ sở dữ liệu thông tin về giá, thông tin về doanh nghiệp xuất khẩu, nhập
khẩu; thiếu các biện pháp kiểm soát quá trình thanh toán giữa người mua và người
bán; kể cả các trường hợp gian lận về giá tính thuế xuất khẩu thì biện pháp hữu
hiệu nhất là áp dụng thuế tuyệt đối.
Để đảm bảo tính đồng bộ và sử dụng khi cần thiết, trong trường hợp có gian
lận thương mại qua giá tính thuế đối với mặt hàng nào đó trở thành phổ biến thì
việc sử dụng thuế tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất trong
nước, phù hợp với cam kết quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung nội dung qui
định về thuế tuyệt đối, theo hướng: bổ sung qui định về căn cứ tính thuế đối với
mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan và mức thuế tuyệt đối
quy định trên một đơn vị hàng hóa; đồng thời qui định thẩm quyền và điều kiện áp
dụng, đó là Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ tài chính sẽ quyết định mặt hàng áp
dụng thuế tuyệt đối và mức thuế tuyệt đối trong trường hợp cần thiết, phù hợp với
cam kết quốc tế. Trước mắt, có thể đưa các mặt hàng có thuế suất cao và đang bị
thất thu thuế do doanh nghiệp khai giá tính thuế thấp hơn giá thực thanh toán; bia,
rượu, ô tô mới nguyên chiếc, xe máy, hàng điện tử… vào diện mặt hàng phải chịu
thuế tuyệt đối.
3.2.1.4. Về thời hạn nộp thuế
Mặc dụ, nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất thu thuế nhập khẩu một phần do
việc qui định cho phép ân hạn thời hạn nộp thuế nhưng về cơ bản, vệc ân hạn này
đã góp phần hỗ trợ tích cực cho đại bộ phận các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu. Thông qua đó, các doanh nghiệp có điều kiện giảm thiểu chi phí trong
việc vay vốn kinh doanh. Vì vậy, để tiếp tục đảm bảo thông thoáng, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, mặt khác vẫn phải đảm bảo chặt
chẽ trong công tác quản lý, chống hiện tượng chây ỳ, lợi dụng cần qui định thêm
các điều kiện ràng buộc như phải đảm bảo mức độ tín nhiệm hoặc có bảo lãnh, thế
chấp, tín chấp…; gắn với trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc nộp thuế, hạn
chế nợ đọng kéo dài, cần phải sửa đổi nội dung qui định về thời hạn nộp thuế, theo
hướng tiếp tục cho phép các doanh nghiệp được hưởng thời hạn nộp thuế tùy vào
mục đích nhập khẩu của hàng hóa.
Các điều kiện ràng buộc để được hưởng ân hạn nộp thuế, theo hướng đối
tượng nộp thuế đáp ứng được một trong hai điều kiện: đối tượng nộp thuế có hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian nhất định ít nhất là một năm tính đến
ngày đăng ký tờ khai hải quan mà được cơ quan hải quan xác nhận không có hành
vi gian lận thương mại, trốn thuế, không có nợ thuế quá hạn, không còn nợ tiền
phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo qui định của pháp luật hoặc được
tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo qui định của Luật các tổ chức
tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Hết thời hạn bảo lãnh hoặc thời hạn nộp
thuế mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bào lãnh có trách nhiệm nộp
số tiền thuế và số tiền phạt chậm nộp thay cho đối tượng nộp thuế. Trong trường
hợp đối tượng nộp thuế không có đủ hai điều kiện qui định tại khoản này thì phải
nộp xong thuế trước khi nhận hàng.
3.2.1.5. Đối với chính sách ưu đãi thuế
Việc miễn thuế, giảm thuế là một trong những bộ phận cấu thành trong
chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Mặc dù, theo chương trình cải cách hệ thống
thuế đến năm 2010, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu giảm dần và tiến tới xóa bỏ các
ưu đãi thuế. Tuy nhiên, việc miễn thuế, giảm thuế là một trong những chính sách
để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Do vậy, việc xóa bỏ những ưu đãi này cần
có thời gian, trong những năm trước mắt nên tiếp tục duy trì những ưu đãi này,
nhưng cần qui định rõ ràng, minh bạch và không phân biệt đối xử. Việc ưu đãi thuế
thực sự đến từng dự án, từng đối tượng ưu đãi nhằm góp phần thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả đầu tư; hỗ trợ các ngành, lĩnh vực cần nhập khẩu để hiện đại hóa
trang thiết bị.
Để đảm bảo sự thống nhất, cần hệ thống hóa các qui định hiện hành về miễn
thuế nhập khẩu theo nguyên tắc chọn những qui định miễn thuế, xét miễn thuế ở
mức cao nhất để qui định áp dụng chung; đồng thời bỏ qui định không khả thi, khó
có căn cứ để thực hiện trên thực tế như qui định miễn thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng này sẽ mở rộng ưu đãi hơn cho
các nhà đầu tư trong nước và đảm bảo bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài,
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Về thủ tục miễn thuế cần đơn giản, công khai, minh bạch để đối tượng nộp
thuế căn cứ chính sách miễn thuế tự xác định và tự chịu trách nhiệm về xác định
chế độ miễn thuế; cơ quan hải quan kiểm tra tính chính xác của việc kê khai để
được hưởng ưu đãi về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
3.2.2. Giải pháp tổ chức hạn chế thất thu thuế nhập khẩu
3.2.2.1. Giải pháp tổng quát
Trước hết, phải cho tiến hành phân tích nợ thuế. Nghĩa là, hàng tháng, hàng
quí, cơ quan hải quan phải căn cứ vào số theo dõi nợ thuế trên chương trình quản
lý thuế, quản lý nợ đọng thuế; đồng thời đôn đốc thu nợ phải thực hiện công tác
tổng hợp, phân tích, đánh giá theo số thuế còn nợ, tuổi nợ( thời gian đã nợ) của
từng thời kỳ kê khai thuế theo từng loại thuế, từng đối tượng nợ thuế; rà soát từng
trường hợp nợ theo nguyên nhân và tình trạng nợ để phân tích các khoản nợ nhằm
áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp. Theo đó, trên cơ sở phân tích đánh giá, bộ
phận thu nợ phân công cán bộ thực hiện đôn đốc các đối tượng nộp thuế có các
khoản nợ đọng, nợ có khả năng thu hồi mà việc giải quyết căn cứ theo qui định của
luật hoặc không cần thiết phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Với các đối tượng
nộp thuế chuẩn bị cổ phần hóa cố tình dây dưa để chờ được xóa nợ, hay các đối
tượng nộp thuế chây ỳ, lảng tránh việc thanh toán nợ thuế, đòi hỏi phải phân tích
báo cáo tài chính thì cơ quan hải quan phải phối hợp với cơ quan thuế để thực
hiện… Khâu tiếp theo là phải lập nhật ký và hồ sơ thu nợ, đồng thời đưa ra các biện
pháp đã áp dụng đôn đốc thu nợ và theo dõi kết quả thu nợ. Có thể nói, đây là khâu
quan trọng vì trên cơ sở tiến hành phân loại đối tượng nộp thuế theo mức độ để lựa
chọn thu nợ theo thứ tự ưu tiên đảm bảo cân đối nguồn nhân lực hiện có.
Cần qui định về thủ tục, trách nhiệm của cơ quan hải quan và cơ quan có liên
quan trong việc thực hiện thu nợ thuế và cưỡng chế thuế. Chẳng hạn như qui định
cụ thể cho cơ quan hải quan được quyền xem xét, cho phép đối tượng nộp thuế nộp
dần những khoản nợ thuế tồn tại phù hợp với khả năng tài chính của đối tượng nộp