Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.89 KB, 74 trang )

MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
Thuế là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế và huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Một trong
những yêu cầu quan trọng trong tổ chức thực thi chính sách thuế là phải thu
đúng, thu đủ và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế. Chấp
hành tốt nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, cũng
như đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Trong những năm qua, chính sách thuế nhập khẩu, cùng với cơ chế
vận hành đảm bảo công bằng minh bạch, không phân biệt đối xử và ổn định
đã tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tăng cường thu hút
đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần huy động nguồn thu cho
ngân sách, bảo hộ sản xuất trong nước…Bên cạnh những kết quả đã đạt
được thì trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu cũng
đã nổi lên một vấn đề cần giải quyết đó là tình trạng thất thu thuế nhập khẩu.
Có thể nói tình trạng thất thu thuế nhập khẩu đã xảy ra trong thời gian dài,
số thuế thất thu không phải là nhỏ, làm ảnh hưởng xấu đến cân đối thu chi
của ngân sách nhà nước- một trong những cân đối lớn của nền kinh tế quốc
gia và tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện
nghĩa vụ về thuế.
Nguyên nhân của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu có thể do khách
quan như chính sách chế độ thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai nạn bất
ngờ…,cũng có thể do nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình
gian lận trốn thuế…Vì vậy, cùng với việc tổ chức triển khai thực hiện chính
sách thuế nhập khẩu thì việc tìm ra giải pháp để chống thất thu thuế nhập
1
khẩu là một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách
nhằm đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả chính sách thuế của nhà nước.Với


ý nghĩa trên, em đã chọn đề tài “Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản
lý nhà nước về hải quan của Tổng cục hải quan Việt nam: Thực trạng và
giải pháp hoàn thiện “ để nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của
thực tiễn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát những vấn đề cơ bản về chống thất thu thuế của
tổng cục hải quan việt nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu trong
quản lý nhà nước về hải quan của tổng cục hải quan việt nam trong thời gian
qua
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
trong quản lý nhà nước về hải quan của tổng cục hải quan
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỐNG
THẤT THU THUẾ CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN VIỆT NAM
1.1. Giới thiệu tổng quan về Tổng cục hải quan Việt nam
1.1.1 Quá trình hình thành phát triển.
1.1.1.1. Lịch sử hình thành
Năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tịch đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên,
sau đó Việt Nam vẫn phải tiếp tục trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt và 27
năm thử thách trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh.
Với cái tên đầu tiên là “Sở Thuế quan và thuế gián thu” được thành
lập với mục đích đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn
thu ngân sách Hải quan Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng, hoàn
thiện và nâng cao cơ sở pháp lý - quản lý Nhà nước để ngày càng phù hợp
hơn với thực tiễn của nước Việt Nam. Từ chỗ Hải quan Việt Nam còn phải
tạm thời sử dụng những quy định nghiệp vụ về thuế quan của chính quyền
thực dân đến nay đã xây dựng và ban hành được “Điều lệ Hải quan”, Pháp
lệnh Hải quan và tiếp đó là Luật Hải quan Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1

tháng 1 năm 2002.
1.1.1.2.Tóm tắt sự phát triển của Hải quan theo các thời kì
Ngày 10 tháng 9 năm 1945 theo sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
2
Nguyên Giáp, thay mặt Chính phủ ký thành lập “Sở thuế quan và thuế
gián thu”. Với mục đích thiết lập chủ quyền thuế quan của nước Việt Nam
độc lập, đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn thu ngân
sách từ hoạt động này.
Ngày 29 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 75-SL của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về tổ chức của Bộ Tài chính, Sở Thuế quan và thuế gián thu được
đổi thành Nha Thuế quan và Thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính.
Ngày 4 tháng 7 năm 1951 Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã
ký Nghị định số 54/NĐ quy định lại tổ chức của Bộ Tài chính và Nha Thuế
quan và Thuế gian thu được đổi thành Cơ quan Thuế XNK.
Ngày 14 tháng 12 năm 1954 Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh
ký Nghị định số 136-BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thay thế cơ quan
thuế XNK thuộc Bộ Công thương.
Ngày 17 tháng 2 năm 1962 để thực hiện Điều lệ Hải quan (ban hành
ngày 27/2/1960) Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Lý Ban ký Quyết định số
490/BNT/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan. Lúc này
Cục Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984 Thực hiện Nghị quyết số 68/HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh chống buôn lậu và thành lập Tổng cục Hải
quan, và Nghị quyết số 547/NQ-HĐNN ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước
phê chuẩn thành lập Tổng Cục Hải quan và ngày 20/10/1984 Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Tô Hữu ký Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức của Tổng cục Hải quan. Tổng cục Hải quan trực
thuộc Chính phủ
Ngày 4 tháng 9 năm 2002 theo Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ Tổng Cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính.
1.1.2. Bộ máy tổ chức, chức năng và nhiệm vụ
1.1.2.1. Bộ máy tổ chức:
-Tổng Cục trưởng Lê Mạnh Hùng
-Phó Tổng Cục trưởng Nguyễn Ngọc Túc
-Phó Tổng Cục trưởng Vũ Ngọc Anh
-Phó Tổng Cục trưởng Hoàng Việt Cường
-Phó Tổng Cục trưởng Nguyễn Văn Cẩn
-Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Dương Thái
BỘ MÁY GIÚP VIỆC TỔNG CỤC TRƯỞNG:
3
1. Vụ Giám sát quản lý về hải quan;
2. Vụ Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu;
3. Vụ Pháp chế;
4. Vụ Hợp tác quốc tế;
5. Vụ Kế hoạch - Tài chính;
6. Vụ Tổ chức cán bộ;
7. Thanh tra;
8. Văn phòng;
9. Cục Điều tra chống buôn lậu;
10. Cục Kiểm tra sau thông quan;
11. Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan;
12. Ban Cải cách hiện đại hóa Hải quan;
13. Công ty cổ phần Nam Hải.
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRỰC THUỘC TỔNG CỤC HẢI
QUAN:
1. Viện Nghiên cứu Hải quan;
2. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền
Bắc;
3. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền

Trung;
4. Trung tâm phân tích, phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu miền
Nam;
5. Trung tâm Đào tạo công chức Hải quan;
6. Báo Hải quan.
CÁC CỤC HẢI QUAN TỈNH, LIÊN TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC
THUỘC TRUNG ƯƠNG.
Các chi cục Hải quan cửa khẩu, đội kiểm soát Hải quan và đơn vị địa
phương trực thuộc cục hải quan địa phương
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của tổng cục Hải quan
* Chức năng:
Tổng cục hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính, giúp Bộ trưởng
bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về hải
quan; thực thi pháp luật hải quan trong phạm vi cả nước.
4
* Nhiệm vụ, quyền hạn:
Tổng cục hải quan thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo qui định của
Luật hải quan, các qui định khác của pháp luật có liên quan và những nhiệm
vụ quyền hạn cụ thể sau đây:
- Trình bộ trưởng bộ tài chính dự thảo các văn bản qui phạm pháp luật
về ngành hải quan; chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển ngành hải
quan và tổ chức thực hiện nghiêm túc sau khi được phê duyệt.
- Chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của ngành hải
quan:
+ Kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
+ Phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biện giới
trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan
+ Thực hiện các biện pháp phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan theo

qui định của Chính phủ
+ Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Tổ chức thực hiện kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu.
+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các chủ trương,
biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về hải quan các nước theo qui định của
pháp luật.
- Tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ,tuyên truyền, phổ biến các tiến bộ khoa học trong ngành hải quan.
- Quản lý, tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo, thực hiện chế độ tiền
lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ
công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Tổng cục.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, chống tham nhũng
và xử lý vi phạm theo qui định của pháp luật.
1.1.2.3. Các đặc điểm trong hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu
5
Theo Chỉ thị 01/TCHQ/CT/KTTT của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan yêu cầu các đơn vị hải quan địa phương tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt
các công việc để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu và chống thất thu
thuế XNK nhằm hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu phấn đấu thu
NSNN.
Công tác quản lý thu và chống thất thu ngân sách cần tập trung chỉ
đạo tổ chức thực hiện hiệu quả các công tác nghiệp vụ Hải quan, đảm bảo
việc thu đúng, thu đủ thuế, chống buôn lậu, chống gian lận thương mại. Về
công tác giá tính thuế toàn ngành tập trung thực hiện theo Hiệp định trị giá
GATT, triển khai thực hiện hệ thống dữ liệu giá GTT22, tiến hành thu thập

và khai thác thông tin dữ liệu giá theo quy chế. Tăng cường công tác kiểm
tra giá tính thuế tại các địa phương.
Về công tác thuế, thực hiện đúng chính sách, chế độ về thuế, nhất là
cần tập trung xác định rõ ràng, rành mạch về thuế suất ở hai khâu: Văn bản
hướng dẫn, kiến nghị sửa đổi biểu thuế và Áp mã chính xác theo mặt hàng
xuất khẩu, nhập khẩu, khắc phục triệt để việc áp thuế suất không thống nhất
cho một mặt hàng, xác định sai thuế suất đối với mặt hàng xuất khẩu, nhập
khẩu. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra để phát hiện, chấn chỉnh
và kịp thời ngăn chặn sai phạm dẫn đến thất thu có thể xảy ra tại các đơn vị
hải quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách.
Về công tác kiểm hóa, cần chú trọng đến việc quyết định tỷ lệ kiểm
tra thực tế hàng hóa. Việc mô tả chủng loại hàng hóa nhập khẩu trên tờ khai
phải rõ ràng, cụ thể và chính xác để đảm bảo xác định đúng mã số, số lượng,
xuất xứ của hàng hóa thực tế xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với những mặt hàng
xuất khẩu, nhập khẩu mới xuất hiện cần kịp thời báo cáo về Tổng cục Hải
quan để tập hợp và chỉ đạo áp mã thống nhất trong toàn ngành.
Về công tác kiểm tra sau thông quan, cần tập trung kiểm tra về giá
tính thuế theo khai báo của chủ hàng, đặc biệt chú trọng các mặt hàng trọng
tâm, trọng điểm dễ gian lận về giá tính thuế. Ngoài ra, tăng cường công tác
kiểm tra đối với các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu nhạy cảm như nhập khẩu
linh kiện được hưởng chính sách nội địa hóa, nhận gia công, đầu tư, nhập
nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Về công tác chống buôn lậu, ngoài những giải pháp thông thường cần
tập trung điều tra xác minh làm rõ những trường hợp nghi ngờ về giá tính
thuế; tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với những mặt hàng nhập khẩu
nhạy cảm, mặt hàng trọng tâm, trọng điểm.
Về công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phải
bảo đảm kết luận chính xác và trả lời đơn vị yêu cầu với thời gian ngắn nhất
6
về mẫu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi phân tích phân loại phục vụ đắc

lực cho việc áp mã và thông quan hàng hóa được nhanh chóng.
Về công tác thu đòi nợ đọng thuế, thường xuyên theo dõi, đôn đốc
nhắc nhở các doanh nghiệp nộp thuế đúng thời hạn, tổ chức các tổ chuyên
trách xử lý dứt điểm nợ xấu tồn đọng lâu nay đồng thời kiên quyết không để
nợ xấu phát sinh mới. Đánh giá kỹ các nguyên nhân để nợ đọng, tập trung
phân tích các nguyên nhân mang tính chủ quan của ngành để có những kiến
nghị và giải pháp phù hợp, làm trong sạch thêm một bước tình hình nợ đọng
thuế.
1.2. Vai trò và nội dung của hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu
trong quản lý nhà nước về hải quan
1.2.1. Đặc điểm của thuế nhập khẩu của Việt nam
1.2.1.1. Tính gián thu
Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế( tức là người bán
hàng hóa nhập khẩu) chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng
hóa chịu, bằng cách cộng số thuế đó vào giá bán của hàng hóa đó. Thuế gián
thu là loại thuế do người tiêu dùng đóng góp; nghĩa vụ tính thuế và thu thuế
đơn giản, thu kịp thời hơn thuế trực thu; thuế gián thu nằm kín trong giá cả
cho nên dễ thu hơn; người chịu thuế khó nhận biết là mình phải nộp thuế nên
ít có phản ứng hơn.
Thuế gián thu mang lại nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn định
cho ngân sách nhà nước vì bất luận trong hoàn cảnh nào nhu cầu tiêu dùng
của con người cũng luôn diễn ra và có xu hướng ngày càng phát triển đa
dạng và phong phú hơn. Đối tượng chịu thuế là hàng hóa nhập khẩu, còn đối
tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, vì vậy
khi hàng hóa được đăng kí với cơ quan hải quan là cơ quan hải quan đã nắm
được số tiền thuế phải nộp, bất luận hàng hóa đó được tiêu thụ như thế
nào.Từ đặc điểm trên, người nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu không
phải là người chịu thuế, mà người chịu thuế chính là người tiêu dùng hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thuế gián thu bảo đảm sự tự lựa chọn của người
chịu thuế đối với các hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm tính

tự nguyện chịu thuế. Nhà nhập khẩu khi bán hàng hóa sẽ thu thuế gián thu
cùng với giá bán hàng ( thu hộ nhà nước) và nộp khoản thuế này cho ngân
sách nhà nước ( nộp thay cho người tiêu dùng). Gọi là thuế gián thu là vì
Nhà nước thu thuế vào người tiêu dùng nhưng lại không thu trực tiếp đối với
người tiêu dùng( tức là người mua hàng hóa để sử dụng) mà lại thu gián tiếp
qua người bán hàng hóa nhập khẩu. Trên ý nghĩa đó, nhà nhập khẩu thu thuế
đối với người tiêu dùng sau khi bán hàng hóa, nếu không nộp đầy đủ số
7
thuế, nợ đọng thuế quá hạn thì coi là hành động tham ô, biển thủ công quĩ
của nhà nước.
Đối với những nước có nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập còn thấp
thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của ngân sách
Nhà nước. Mặt nhược điểm của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó, vì
thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một loại sản phẩm hàng hóa, nên
người giàu và người nghèo nếu tiêu dùng cùng một loại sản phẩm hàng hóa
và với số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất tỷ lệ động
viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn người
nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu trên thu nhập
càng thấp.
1.2.1.2. Tính xung đột
Xuất phát từ những lợi ích khác nhau của các nhà nhập khẩu và các
nhà sản xuất trong nước, khi sử dụng chính sách thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu luôn phát sinh các lợi ích xung đột sau đây:
- Chính sách thuế theo hướng bảo hộ sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các nhà
đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua việc đánh thuế đối
với hàng hóa nhập khẩu, giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ cao hơn vì phải
cộng thêm một khoản thuế vào giá bán của hàng hóa nhập khẩu cho nên đã
tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất trong nước. Vì vậy, với xu
hướng này, các nhà đầu tư sản xuất trong nước thường ủng hộ duy trì hàng
rào thuế quan càng cao, càng lâu dài thì càng tốt.

- Chính sách thuế theo hướng cắt giảm nhằm thúc đẩy tự do hóa
thương mại được các nhà kinh doanh hàng hóa nhập khẩu và người tiêu
dùng hàng hóa nhập khẩu ủng hộ. Bởi vì thuế với hàng hóa nhập khẩu được
xem như là rào cản làm cản trở khả năng thâm nhập thị trường nội địa của
hàng hóa nhập khẩu; khi hàng hóa nhập khẩu phải chịu thuế càng cao thì giá
cả hàng hóa nhập khẩu sẽ bị đẩy lên tương ứng. Trong trường hợp đó, người
tiêu dùng sẽ ít có cơ hội lựa chọn, mua hàng hóa nhập khẩu với giá cao hoặc
mua hàng tương tụ được sản xuất trong nước với giá cả thấp hơn. Vì vậy,
với xu hướng này, các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng thường ủng hộ cắt
giảm thuế quan càng thấp, càng sớm thì càng tốt.
1.2.1.3. Tính rủi ro cao
Nghiệp vụ xác định số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, phải thực
hiện là áp mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế, kiểm tra thực tế và giám định
chất lượng hàng hóa. Mỗi khâu nghiệp vụ đòi hỏi phải có kiến thức chuyên
môn sâu mới có thể xác định chính xác các chỉ tiêu tính toán để xác định số
8
thuế phải nộp. Vì vây, chỉ cần một trong số các chỉ tiêu tính toán chưa chính
xác thì sẽ dẫn đến xác định sai số thuế phải nộp.
Như đã phân tích ở trên, khác với các loại thuế khác, đối tượng chịu
thuế là hàng hóa, đối tượng nộp thuế là tổ chức cá nhân có hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế. Đặc điểm của hoạt động xuất
nhập khẩu, khi hàng hóa được phép thông quan thì chủ sở hữu hàng hóa đó
mới được phép sử dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc đưa vào tiêu
dùng.
Xuất phát từ đặc điểm này cho thấy, nếu tại thời điểm phát sinh
nghiệp vụ nhập khẩu mà chưa xác định được đầy đủ, chính xác nghĩa vụ
thuế, thời hạn nộp thuế để đối tượng nộp thuế chủ động bố trí nguồn tài
chính nộp thuế thì việc thông báo truy thu thuế ở giai đoạn sau sẽ rất khó
khăn. Vì đối tượng nộp thuế cho rằng, các khoản chi phí phát sinh liên quan
đến hàng hóa nhập khẩu, trong đó có thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đã

hạch toán đầy đủ vào chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc vào giá bán cho
người tiêu dùng nên không có nguồn vốn để nộp bổ sung tiền thuế cho nhà
nước. Vì vậy, trước khi thông quan hàng hóa, trách nhiệm của đối tượng nộp
thuế phải kê khai thuế đầy đủ, chính xác và tự mình xác định có thuộc đối
tượng được hưởng ân hạn nộp thuế hay không, hay phải nộp xong số thuế
trước khi nhận hàng; trong quá trình thông quan hàng hóa, cơ quan hải quan
phải kiểm tra đầy đủ, chính xác số thuế thực tế phải nộp trong phạm vi thông
tin đã thu thập được về hàng hóa, về đối tượng nộp thuế. Từ đó, làm rõ
quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, của cơ quan hải quan, nếu để
phát sinh nguyên nhân dẫn đến nợ đọng thuế ở khâu nào thì phải cá thể hóa
trách nhiệm ở khâu đó để xử lý.
1.2.2. Vai trò của hoạt động chống thất thu thuế trong quản lý nhà nước
về hải quan
1.2.2.1. Đối với cân đối ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước là một trong các chỉ tiêu cân đối lớn của
nền kinh tế. Ngân sách nhà nước được xác lập trên cơ sở dự toán nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước, trong đó nguồn thu từ thuế có vai trò quan trọng. Nếu
việc nộp thuế bị chậm trễ hoặc doanh nghiệp cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp
thuế, thì việc thực hiện dự toán thu ngân sách sẽ không được đảm bảo. Như
vậy, việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên đảm bảo cho hoạt động của
bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và các đơn vị sự nghiệp, cũng
như nhu cầu về vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế- xã hội nói chung
được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Vì vậy, việc đảm bảo chi ngân sách cũng như
9
cân đối ngân sách nước sẽ bị tác động trực tiếp từ việc thực hiện kế hoạch
thu ngân sách từ thuế.
1.2.2.22. Đối với môi trường kinh doanh
Để đảm bảo môi trường kinh doanh được bỉnh đẳng, cùng sân chơi,
cùng hưởng lợi, đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia vào quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của

Nhà nước, trong đó nghĩa vụ nộp thuế là một trong những tiêu chí đánh giá
quan trọng nhất. Lý giải vấn đề này cho rằng, cùng hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng việc thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế lại khác nhau: có đối tượng nộp ngay, có đối tượng ân hạn 30 ngày
hoặc 275 ngày, thậm chí còn kéo dài tùy thuộc vào chu kỳ sản xuất, dự trữ
vật tư, nguyên liệu… Sự bất bình đẳng được thể hiện ở chỗ, bên cạnh những
doanh nghiệp làm ăn chân chính thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, thực hiện
tốt chế độ quyết toán thuế, có một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách
để nợ thuế, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế để đưa sản phẩm ra thị trường sẽ có
giá bán rẻ hơn, có lợi thế cạnh tranh hơn và tất yếu sẽ thu lợi nhiều hơn.
Thất thu thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, tạo môi
trường cạnh tranh không công bằng.
1.2.3. Nội dung của hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu trong
quản lý nhà nước về hải quan
1.2.3.1. Phân loại thất thu thuế nhập khẩu
* Phân loại theo nguyên nhân thất thu thuế
• Thất thu thuế do nguyên nhân khách quan:
Khoản nợ thuế của đối tượng nộp thuế có thể phát sinh do chịu sự tác
động ngoài dự kiến do sự thay đổi chính sách thuế nhập khẩu( như thuế suất,
giá tính thuế, tỷ giá tính thuế) sau khi đối tượng nộp thuế đã nộp thuế theo
thông báo thuế chính thức của cơ quan hải quan hoặc do sự tranh chấp về mã
số thuế giữa đối tượng nộp thuế với cơ quan hải quan đối với những mặt
hàng chưa được định danh cụ thể trong Biểu thuế cho nên dẫn đến phát sinh
số thuế phải nộp bổ sung sau khi hàng hóa đã được thông quan. Ví dụ như
ngày 20/03/2006 cơ quan có thẩm quyển ban hành quyết định thay đổi thuế
suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng A từ 5% lên 20%, nhưng hiệu lực
quyết định tính từ ngày 01/03/2006; hoặc khi thông quan hàng hóa đối tượng
nộp thuế và cơ quan hải quan xác định mã số thuế đối với mặt hàng B tương
ứng với thuế suất 5%, nhưng sau khi thông quan, kiểm tra phát hiện có sự
sai sót phải xếp vào mã số khác, tương úng với mức thuế suất 30% thì cơ

quan hải quan phải ra quyết định truy thu số thuế còn thiếu.
10
• Thất thu thuế do nguyên nhân chủ quan:
Đó là các khoản thất thu thuế phát sinh do đối tượng nộp thuế cố tình
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp
đến hạn nộp thuế nhưng doanh nghiệp vẫn cố tình trây ỳ. Nợ đọng thuế phát
sinh do đối tượng nộp thuế không chấp hành nộp thuế đúng thời hạn hoặc
chưa thực hiện quyết toán nguyên liệu, vật tư tiêu hao vào quá trình sản xuất
hàng xuất khẩu để xác định số thuế còn phải nộp và số thuế được hoàn trả do
được hưởng chế độ miễn thuế nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất
hàng hóa xuất khẩu theo qui định. Đối tượng nộp thường sử dụng sai mục
đích để được hưởng ân hạn thuế, sau đó dùng mọi thủ đoạn có thể trốn thuế,
chây ỳ hoặc bỏ trốn. Ví dụ, doanh nghiệp đăng ký với cơ quan hải quan là
nhập khẩu vải để may xuất khẩu, nhưng không đưa vào sản xuất mà đưa ra
tiêu thụ trên thị trường, khi cơ quan hải quan kiểm tra thì đã bỏ trốn.
* Phân loại theo tính chất của khoản thuế bị thất thu
• Khoản tiền thuế thất thu có khả năng thu hồi:
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình ân hạn thuế đối với hàng
hóa nhập khẩu, trong đó nợ có khả năng thu hồi cao, do các doanh nghiệp nợ
thuế vẫn tiếp tục hoạt động bình thường hoặc chờ quyết định chính xác số
thuế phải nộp hoặc số nợ nhỏ của doanh nghiệp chây ỳ, có thể giải quyết dứt
điểm nếu tổ chức xử lý cương quyết.
• Khoản tiền thuế thất thu không có khả năng thu hồi:
Là các khoản nợ phát sinh do đối tượng nộp thuế chưa thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế và khó có khả năng nộp thuế do các doanh nghiệp nợ thuế
không còn nguồn vốn để nộp( doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc làm ăn
thô lỗ) hoặc cũng có thể là số nợ mà cơ quan hải quan không thể kiểm soát
được( nợ của doanh nghiệp mất địa chỉ).
Tóm lại, cách thức phân loại thất thu thuế nhập khẩu cho chúng ta
thấy mỗi loại thất thu và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là rất

khác nhau. Việc phân loại thất thu thuế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
xử lý và đề ra các biện pháp quản lý, thu hồi tiền thuế nhập khẩu cho phù
hợp
1.2.3.2. Nội dung tổ chức hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu
+ Đảm bảo tính rõ ràng, công khai, minh bạch và ổn định của chính
sách
Một trong những biện pháp chống thất thuế nhập khẩu là các chính
sách, qui định phải đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, ổn đinh. Số thuế đối
với hàng hóa nhập khẩu phải nộp được xác định trong chính sách thuế, bao
11
gồm: mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế và tỷ giá tính thuế. Để đối tượng
nộp thuế khai báo, tính thuế và cơ quan hải quan ra thông báo thuế theo qui
định, đòi hỏi các qui định của pháp luật về việc phân loại, áp mã số thuế,
cũng như cơ chế xác định giá tính thuế, tỷ giá tính thuế phải đảm bảo rõ
ràng, minh bạch và chính xác. Mỗi loại hàng hóa chỉ có một mã số thuế
tương ứng với mã số đó là một mức thuế suất; giá tính thuế phải tôn trọng
tính khách quan, đảm bảo tuân thủ các qui định về xác định giá tính thuế; tỷ
giá tính thuế phải đảm bảo vừa tôn trọng yếu tố thị trường, phải đảm bảo
minh bạch trong việc qui đổi đồng tiền ngoại tệ và đồng tiền Việt nam.
Ngoài ra, thời điểm tính thuế cũng ảnh hưởng đến số thuế phải nộp. Bởi lẽ,
mỗi thời điểm tính thuế thì các yếu tố thuế suất, tỷ giá tính thuế, cũng như
giá tính thuế có thể thay đổi phụ thuộc vào việc thay đổi thuế suất( nếu có),
tỷ giá hối đoái trên thị trường. Vì vậy, như phân tích ở trên, để giảm thiểu
tình trạng thất thu thuế nhập khẩu thì các qui định cụ thể về chính sách thuế
phải được đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và ổn định.
+ Kiểm soát chặt chẽ việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế
Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tình hình chấp hành nghĩa vụ nộp thuế
của đối tượng nộp thuế là đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng nộp
thuế. Cùng điều kiện, cùng môi trường kinh doanh, cùng thực hiện tốt nghĩa
vụ nộp thuế thì tính canh tranh trên thị trường mới đảm bảo tính bình đẳng.

Tránh tình trạng, cùng kinh doanh hàng nhập khẩu, nhưng có những doanh
nghiệp có ý thức tuân thủ cao, chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, chi phí kinh
doanh được tính toán đầy đủ; bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ doanh
nghiệp cố tình chây ỳ, trốn thuế, chiếm dụng thuế thì chi phí kinh doanh
được giảm thiểu vì chưa phải tính các khoản thuế phải nộp, hoặc chiếm dụng
tiền thuế để quay vòng vốn nhờ đó sẽ tiết kiệm chi phí phải trả lãi suất tiền
vay. Như vậy, nếu kiểm soát chặt chẽ quá trình chấp hành nghĩa vụ thuế sẽ
giảm thiểu được tình trạng nợ đọng thuế, đồng thời góp phần làm cho môi
trường hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ bình đẳng hơn, tính kỷ
cương của chính sách thuế được thực thi có hiệu quả trên thực tế.
+ Phân công cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền xử lý của cơ quan
hải quan trong công tác phòng, chống nợ đọng thuế:
Việc phân công trách nhiệm cụ thể cho cơ quan hải quan là phù hợp
với thông lệ quốc tế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế,
góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Do tính đặc thù của công tác thuế cần
thiết phải có qui định về phòng chống vi phạm pháp luật thuế nhằm qui định
rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hải quan và điều kiện trang bị kỹ thuật
trong phòng, chống trốn thuế, nợ đọng thuế.
12
Hiện nay, cơ quan Hải quan chưa có chức năng điều tra, khởi tố trốn
thuế như cơ quan hải quan các nước đang áp dụng( Luật hải quan qui định
cơ quan Hải quan chỉ có quyền điều tra, khởi tố buôn lậu qua biên giới) do
đó đã hạn chế việc ngăn chăn kịp thời các trường hợp cố ý trốn thuế với số
lượng lớn hoặc có hành vi làm tổn hại đến số thuế lớn như hành vi mua bán
hóa đơn để thu lợi bất chính, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt
tiền thuế của nhà nước do đó cần bổ sung quyền điều tra tội trốn thuế cho cơ
quan Hải quan và quyền này chỉ thực hiện được khi bổ sung quyền điều tra
cho cơ quan hải quan trong Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, nhiệm vụ phòng,
chống hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế cần qui định cụ thể trách nhiệm cơ
quan hải quan các cấp được thành lập đơn vị chuyên trách để trong trường

hợp nếu có thông tin tài liệu xác định hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan có quyền khởi
tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định
của pháp luật tố tụng hình sự. Hoặc phân rõ trách nhiệm, khi phát hiện hành
vi đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan Hải quan chuyển
hồ sơ đối tượng vi phạm cho cơ quan điều tra tiến hành ngay các thủ tục tố
tụng theo trình tự qui định. Ngoài ra, cần thiết phải bổ sung thẩm quyền của
cơ quan Hải quan trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi trốn
thuế, nợ đọng thuế để nâng cao hiệu quả trong quản lý thuế.
+ Sử dụng có hiệu quả nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan
Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và mở rộng
dịch vụ tư vấn về thuế cho đối tượng nộp thuế, một giải pháp không kém
phần quan trọng là công tác thanh tra, kiểm tra. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành chính sách thuế phải được tiến hành định kỳ, thường
xuyên để ngăn chăn và trừng phạt các đối tượng cố ý lợi dụng cơ chế tự tính,
tự khai, tự nộp để gian lận thuế dưới mọi hình thức. Trong hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, việc kiểm tra, phát hiện các sai sót và các hành vi gian lận
tiền thuế được thực hiện dưới mọi hình thức, trong đó công tác kiểm tra sau
thông quan chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Công tác kiểm tra sau thông
quan không những góp phần đảm bảo việc thực hiện các chính sách pháp
luật Hải quan, ngăn chăn tình trạng thất thu thuế mà còn là công cụ hữu hiệu
trong việc tư vấn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác này hiện nay
thường được hiểu là chỉ được tiến hành khi phát hiện đối tượng có dấu hiệu
vi phạm pháp luật mà chưa được coi là một chức năng của cơ quan Hải quan
nhằm chia sẻ trách nhiệm với các bộ phận có liên quan trong quá trình làm
thủ tục hải quan theo đúng định nghĩa về bản chất của hoạt động này. Việc
lựa chọn đối tượng kiểm tra trong thời gian qua chưa thực sự dựa trên các
tiêu thức lựa chọn khoa học mà chủ yếu tập trung vào các đối tượng có dấu
13
hiệu vi phạm pháp luật, công tác kiểm tra cũng chỉ tập trung vào đối tượng

kê khai hải quan chứ chưa kiểm tra các đối tượng tham gia gián tiếp vào
hoạt động thương mại quốc tế như các cơ quan ngân hàng, bảo hiểm, cơ
quan giám định hàng hóa…
Vì vậy, để thực hiện nghiệp vụ này theo đúng thông lệ quốc tế, trước
hết, cơ quan hải quan và các đối tượng nộp thuế phải có cách nhìn thật đúng
về công tác kiểm tra sau thông quan nhưu một hoạt động nghiệp vụ thường
xuyên của cơ quan Hải quan, thay vì chỉ kiểm tra đối tượng có dấu hiệu vi
phạm pháp luật như hiện nay. Tiếp theo, cơ quan Hải quan phải áp dụng kỹ
thuật quản lý rủi ro trong việc lưa chọn đối tượng kiểm tra để thích ứng với
điều kiện hạn chế về nguồn lực và phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, để việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro đạt
hiệu quả cao, đòi hỏi phải có thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về đối
tượng xuất nhập khẩu như: lịch sử hình thành và phát triển, qui mô, lĩnh vực
hoạt động, quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt
động kinh doanh; các thông tin về hàng hóa như: các mặt hàng nhạy cảm,
nguồn gốc xuất sứ, sự biến động về giá cả thị trường trong và ngoài nước,
tính thời vụ của hàng hóa, lộ trình của hàng hóa như tuyến tường đi, phương
thức vận tải, cửa khẩu đi, đến… Tất cả những thông tin trên sẽ được tổng
hợp, phân tích để xác định mức độ rủi ro về gian lận thương mại nhằm loại
trừ những doanh nghiệp, những hàng hóa ít hoặc không có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Công tác kiểm tra lúc này chỉ tập trung vào các doanh nghiệp, các
loại hàng hóa có mức độ rủi ro về gian lận thương mại cao. Áp dụng quản lý
rủi ro sẽ giúp nghành hải quan có thể dự báo được xu hướng của các hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, phục vụ cho việc phát hiện và ngăn chặn
các gian lận về trị giá hải quan, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra sau
thông quan và có thể sử dụng kết quả này để áp dụng chính sách ân hạn nộp
thuế cho các đối tượng nộp thuế.
+ Tăng cường điều kiện vật chất- kỹ thuật và ứng dụng công nghệ
thông tin
Một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý tốt với những con người

giỏi chuyên môn nghiệp vụ sẽ không thực sự phát huy được nếu thiếu những
trang thiết bị tương ứng. Vì vậy, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại là
một trong những điều kiện cần và đủ để có thể phát huy một cách tốt nhất
những lợi thê về con người, góp phần tạo nên thành công của công tác quản
lý thuế trong điều kiện hiện nay. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuât đó là một
hệ thống vi tính nối mạng toàn ngành có khả năng cung cấp và xử lý các
thông tin về thuế xuất nhập khẩu một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời; có
khả năng đối chiếu, trao đổi và chia sẻ thông tin với hải quan các nước trong
14
khu vực và trên thế giới cũng như với các cơ quan quản lý nhà nước khác
như: cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc, cơ quan ngân hàng, cơ quan bảo
hiểm, cơ quan công an… Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho quản
lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn là hệ thống tàu cao tốc đủ mạnh để trấn áp
được các hoạt động buôn lậu hàng hóa trên biển; hệ thống máy soi công ten
nơ, hệ thống camera để theo dõi và kiểm tra việc xuất, nhập khẩu ở các cửa
khẩu. Tất cả các điều kiện trên nếu được đầu tư và trang bị đầy đủ sẽ là tiền
đề để công tác quan lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiến lên một bước mới,
sánh ngang với các nước trong khu vực.
Cơ chế tự tính, tự nộp thuế xuất nhập khẩu, cùng với việc chuyên môn
hóa công tác quản lý thu thuế từ phía cơ quan hải quan, hiện đại hóa công
tác thu thuế cũng là điều kiện hết sức quan trọng, góp phần tiết kiệm thời
gian, chi phí cho các đối tượng nộp thuế và cho chính cơ quan hải quan. Ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế không chỉ đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế mà còn nhằm đáp ứng yêu cầu cơ bản của xu hướng cải
cách hành chính mà chính phủ đang tiến hành nhằm tạo điều kiện tối đa cho
doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực, việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý thuế xuất nhập khẩu của nước ta còn hết sức hạn chế.
Hạn chế này thể hiện trên hai góc độ: thiếu máy móc thiết bị và thiếu cán bộ
có trình độ sử dụng. Vì vậy, trong thời gian tới, bên cạnh việc đầu tư các
trang thiết bị, phương tiện làm việc theo tiêu chuẩn hiện đại của các Chi cục,

Cục hải quan, cần có các giải pháp để sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị
này. Ngoài ra, việc thiết kế những phần mềm chuyên nghiệp nhưng không
quá phức tạp cũng là một biện pháp để việc ứng dụng công nghệ thông tin
đạt hiệu quả cao nhất trong việc hỗ trợ đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế
tự tính, tự khai, tự nộp. Đồng thời, cần thiết phải có một hệ thống xử phạt
cưỡng chế, thu nợ thuế nghiêm minh cũng là điều kiện hết sức quan trọng
khi thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tụ nộp.
1.3. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về chống thất thu thuế nhập
khẩu
• Inđônêsia:
Số thuế phải nộp đối với hàng hóa nhập khẩu và tiền phạt hành chính
được thanh toán trong vòng 30 ngày, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ nộp thuế.
Trường hợp đặc biệt được tạm hoãn nghĩa vụ nộp thuế do Bộ trưởng Bộ tài
chính hướng dẫn chi tiết. Đồng thời, các khoản nợ thuế mà chưa thanh toán
hoặc mới thanh toán một phần vào ngân sách nhà nước đều phải chịu lãi suất
hai phần trăm mỗi tháng trong một thời hạn tối đa là hai mưoi bốn tháng, kể
từ ngày phải thanh toán các khoản nợ phải trả đó cho đến khi đối tượng nộp
15
thuế thanh toán xong( trong đó một phần của một tháng được tính là một
tháng).
• Philippin:
Thuế quan được cơ quan hải quan trực tiếp tính và thu thông qua các
ngân hàng đại lý được ủy quyền của Ngân hàng Trung ương không quá 30
ngày, kể từ ngày thông quan hàng hóa. Trường hợp không nộp đủ thuế theo
thời hạn qui định định sẽ bị phạt tăng thêm 25% số tiền thiếu đó. Nếu số
thiếu hụt do khai báo hoặc xuất trình không đúng sự thật hoặc gian dối( gian
lận thương mại) có lợi cho doanh nghiệp, thì sẽ phải nộp phạt 50% số tiền
thuế phải nộp.
• Hàn quốc:
Tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu phải chịu thuế quan và các loại

thuế khác, đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế trước khi thông quan hàng
hóa hoặc phải có ký quĩ, bảo lãnh nộp thuế. Việc ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế
đối với hàng hóa nhập khẩu phải có sự chấp thuận của cơ quan hải quan.
Quá thời hạn cho phép ký quỹ, bảo lãnh nộp thuế, nếu tổ chức đứng ra ký
quỹ, bảo lãnh chưa nộp thuế thì phải nộp một khoản tiền phạt nhất định theo
cam kết, cùng với số thuế phải nộp.
Quy trình nộp thuế gồm 4 bước: Cơ quan hải quan ra thông báo và
yêu cầu nộp thuế; thực hiện lệnh thu thuế; bán tài sản bị tịch biên và trả nợ
thuế bằng số tiền thu được từ việc bán tài sản.Quy trình 4 bước có thế tóm
tắt như sau:
Sau 15 ngày kể từ ngày đến ân hạn của số thuế phải nộp cơ quan hải
quan sẽ ra thông báo yêu cầu nộp thuế và chuyển tới đối tượng nộp thuế để
thông báo cho đối tượng nộp thuế biết.
Sau khi thông báo được ban hành, nếu đối tượng nộp thuế không chấp
hành thì cơ quan hải quan sẽ kiểm tra thu nhập và tài sản của đối tượng nợ
thuế thông qua hệ thống quản lý thuế(TIS) là hệ thống thông tin chủ đạo của
cơ quan hải quan. Cấu phần chính của hệ thống này là cơ sở dữ liệu, cho
phép các cán bộ thuộc cơ quan hải quan truy cập các thông tin về bất động
sản, thu nhập từ hoạt động kinh doanh, các tài khoản phải thu của bên thứ ba
( nếu có).
Lệnh thu thuế là việc tịch biện tài sản hợp pháp của đối tượng nộp
thuế để thanh toán trả cho khoản nợ thuế. Nếu thuế không được nộp đầy đủ
sau khi có thông báo thì cơ quan hải quan có thể tịch biên và bán bất kỳ tài
sản cá nhân hoặc bất động sản nào mà đối tượng nộp thuế sở hữu hoặc quan
tâm tới. Bước này cho phép cơ quan hải quan được bán hợp pháp các tài sản
16
tịch biên để tra nợ thuế. Đồng thời tạo áp lực cho đối tượng nợ thuế phải nộp
thuế sóm hơn để tránh việc tài sản tịch biên bị bán với giá tương đối thấp.
Nếu thuế quá hạn không được nộp đầy đủ thậm chí sau khi có thông
bao, cơ quan hải quan chuyển sang bước bán tài sản tịch thu thông qua việc

đăng thông báo về tài sản chờ bán trên báo địa phương hoặc tờ rơi và đợi
một thời gian nhất định trước khi bán. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả, việc
bán tài sản tịch biên này thường do một công ty công cộng chuyên hoạt động
bán các tài sản tịch biên thực hiện. Tại hàn quốc, Công Ty quản lý tài sản
Hàn quốc (KAMCO) đã được ký kết với cơ quan hải quan Hàn Quốc để
thực hiện công việc này.
Sau khi bán tài sản, cơ quan hải quan trước hết sẽ sử dụng số tiền thu
được trả cho các chi phí liên quan đến việc tịch biên và bán tài sản. Số tiền
con lại sẽ được sử dụng để nộp thuế.Nếu số thu được từ việc bán tài sản thấp
hơn tổng số thuế, chi phí của việc tịch biên, bán tài sản thì đối tượng nộp
thuế sẽ tiếp tục phải nộp số thuế còn thiếu. Ngược lại, cơ quan hải quan sẽ ra
thông báo cho đối tượng nộp thuế số tiền còn thừa và hướng dẫn để đối
tượng nộp thuế làm thủ tục xin hoàn thuế. Tuy nhiên, nếu có ai đó như người
cầm cố… có yêu cầu đòi tiền và được ưu tiên trước so với đề nghị của đối
tượng nộp thuế thì cơ quan hải quan sẽ trả khoản tiền nợ, số còn lại sẽ hoàn
cho đối tượng nộp thuế.
• Nhật Bản:
Thuế hải quan và các loại thuế khác đối với hàng hóa nhập khẩu,
người khai hải quan phải nộp trước khi thông quan hàng hóa hoặc phải có ký
quỹ, bảo lãnh về số thuế phải nộp. Do đặc điểm thuế quan của Nhật Bản
chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng thu ngân sách nhà nước( khoảng 1,65% tổng
thu), nên việc chấp hành nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế rất nghiêm.
Trường hợp phát hiện có sự gian lận, trốn thuế thì áp dụng các biện pháp xử
phạt rất nặng kể cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính.
• Trung Quốc:
Người có nghĩa vụ nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu phải nộp đủ
khoản thuế trong vòng 15 ngày, kể từ ngày cơ quan hải quan ra thông báo
thuế, nếu kéo dài trong thời hạn nộp thuế thì cơ quan hải quan phạt chậm
nộp thuế. Người có nghĩa vụ nộp thuế, người bảo lãnh nếu quá thời hạn ba
tháng mà chưa giao nộp tiền thuế sau khi được thủ trưởng cơ quan hải quan

phê duyệt thì có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau:
- Có giấy thông báo cho ngân hàng hoặc cơ quan tín dụng giữ số tiền
còn lại trên tài khoản của chủ hàng để nộp thuế
17
- Bán hóa giá những hàng hóa chưa nộp thuế theo qui định, số tiền thu
được đem nộp thuế.
- Giữ hàng hóa hoặc tài sản khác có giá trị tương đương số tiền thuế
phải nộp để bán đấu giá, số tiền thu được đem nộp thuế.
Khi cơ quan hải quan thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với
những người có nghĩa vụ nộp thuế hoặc người bảo lãnh mà vẫn chưa nộp thì
người có nghĩa vụ nộp thuế phải nộp xong các khoản nợ thuế, nợ tiền phạt
trước khi hàng hóa được thông quan.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên, chúng ta có thể rút ra
bài học cho Việt nam như sau:
Một là, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia, qua
mỗi thời kỳ, qui định về thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có
khác nhau. Việc qui định về thời hạn nộp thuế luôn kèm theo các điều kiện
để đảm bảo thu đủ thuế. Đồng thời, các biện pháp xử phạt rất nghiêm ngặt,
vừa kết hợp biện pháp kinh tế( phạt nộp chậm), vừa áp dụng các biện pháp
hành chính cũng được qui định rõ trong các văn bản pháp luật của nhà nước
như Inđônêsia và Trung Quốc.
Hai là, hầu hết các quốc gia đều sử dụng biện pháp ký quỹ hoặc bảo
lãnh nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trước khi thông quan hàng hóa,
đây được xem là biện pháp kinh tế hữu hiệu, vừa đảm bảo điều kiện ràng
buộc để thu tiền thuế cho ngân sách nhà nước, vừa tạo điều kiện đẩy nhanh
việc thông quan hàng hóa, thúc đẩy phát triển sản xuất- kinh doanh của các
doanh nghiệp như Hàn Quốc, Nhật Bản.
Ba là, chế độ nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu của các nước được
quy định rõ ràng, minh bạch. Mặc dù một số nước cũng cho phép ân hạn
nộp thuế trong một khoảng thời gian ngắn nhất định, nhưng cơ chế thực thi

về thuế luôn đảm bảo nghiêm minh, với bộ máy cưỡng chế thu nợ đọng thuế
hiệu quả. Vì vậy, tình trạng nợ đọng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu hầu
như ít xảy ra như Hàn Quốc, Trung Quốc.
Tóm lại, từ việc phân tích bản chất, chức năng, vai trò và vị trí của
chính sách thuế nhập khẩu trong hệ thống chính sách thuế, cũng như cơ sở lý
luận của việc quy định chính sách ân hạn thuế là cơ sở để đánh giá, phân tích
tình hình nợ đọng thuế và nguyên nhân dẫn đến nợ đọng thuế ở nước ta
trong thời gian qua. Kết quả nghiên cứu của chương này có ý nghĩa thiết
thực trong việc hình thành cơ sở lý luận về chính sách thuế nhập khẩu và các
điều kiện thực hiện. Ngoài ra, việc tham khảo kinh nghiệm và đưa ra những
khuyến nghị bổ ích từ việc nghiên cứu chính sách thuế và vấn đề tổ chức thu
18
nộp thuế của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã rút ra
những bài học quý giá có thể áp dụng cho Việt Nam

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP
KHẨU TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN CỦA TỔNG
CỤC HẢI QUAN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình thu thuế nhập khẩu giai đoạn 1998-2009
Thuế là một khoản thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Số thu
ngân hàng nhà nước luôn chiếm xấp xỉ 20% GDP; Trong đó số thu từ hàng
hóa xuất nhập khẩu chiếm khoảng 25% trong tổng thu ngân sách nhà nước;
Riêng số thu thuế nhập khẩu luôn chiếm khoảng 14% tổng thu ngân sách
nhà nước. Chúng ta xem Bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1: Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu Ngân
sách Nhà nước giai đoạn 1998-2009
Năm
Tổng thu
NSNN so với

GDP
Tỷ trong số thu từ
hàng hóa XNK trong
tổng thu NSNN
Tỷ trọng số thu thuế
nhập khẩu trong
tổng thu NSNN
1998 19.60% 23.10% 19.60%
1999 19.60% 26.50% 16.95%
2000 20.50% 20.90% 12.18%
2001 21.60% 22.10% 14.60%
2002 23.10% 25.50% 16.77%
19
2003 23.20% 23.80% 14.31%
2004 23.40% 21.30% 11.07%
2005 23.70% 26.71% 8.45%
2006 21.20% 30.73% 7.68%
2007 25.20% 29.55% 9.13%
2008 26.10% 28.80% 8.55%
2009 27.20% 27.80% 8.23%
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Nhìn vào Bảng 2.1 trên, chúng ta thấy tổng thu ngân sách nhà nước so
với GDP giai đoạn 1998-2009 luôn chiếm trên 19%, có những năm đạt tới
27.2% (năm 2009) thấp nhất là năm 1998,1999 cũng đạt 19,6%.
23.10%
26.50%
20.90%
22.10%
25.50%
23.80%

21.30%
26.70%
30.70%
29.60%
28.80%
27.80%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
tỷ trọng
Hình 2.1: Tỷ trọng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu trong tổng
thu ngân sách nhà nước
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Từ Hình 2.1 ta có thể nhận thấy số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu
trong tổng thu ngân sách nhà nước liên tục có thay đổi; Thấp nhất là chiếm
20,9% vào năm 2000 và cao nhất lên tới 30.73% vào năm 2006. Dù có
những thay đổi nhưng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu luôn giữ được ổn
định. Đóng góp đáng kể vào số thu chung của ngân sách nhà nước.
20
19.60%
17%
12.20%
14.60%
16.80%

14.30%
11.10%
8.50%
7.70%
9.10%
8.23%
8.55%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
tỷ trọng
Hình 2.2: Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu ngân
sách nhà nước
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
Từ Hình 2.2 trên ta thấy số thu từ thuế nhập khẩu giai đoạn từ năm
1998 đến năm 2002 có năm đạt tỷ lệ trên 16% trong tổng số thu ngân sách
nhà nước. Tính bình quân, số thu từ thuế nhập khẩu giai đoạn này là 16,02%
trong tổng số thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí. [3]
Giai đoạn 2003-2009, với thành tích đạt được về tăng trưởng kinh tế
cao bình quân trên 7%, tỷ lệ huy động nguồn thu về thuế, phí và lệ phí đã
không ngừng tăng lên ( từ 74,444 tỷ đồng năm 1999 lên 287.900 tỷ đồng
trong năm 2007). Mức tăng trưởng thu ngân sách nhà nước bình quân trong
kỳ là 15%. Nét nổi bật trong chính sách kinh tế đối ngoại giai đoạn này là
phải thực hiện cắt giảm thuế theo lộ trình để thực hiện một số cam kết quốc
tế đối với EU, CEPT/AFTA, Hoa Kỳ và cắt giảm thuế đối với nhiều nhóm
mặt hàng là tư liệu sản xuất cũng như việc chuyển dịch điều tiết từ thuê nhập

khẩu sang điều tiết bằng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa nhập khẩu.
Cùng với việc ban hành các luật thuế mới được thực hiện từ ngày 1/1/1999
nhằm thực hiện cải cách cơ bản chính sách thuế phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế nhập khẩu cũng đã được sửa đổi, bổ
sung. Biểu thuế đã được xây dựng lại theo hướng đơn giản mức thuế suất,
chi tiết hơn dòng hàng theo danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu. Biểu thuế
nhập khẩu từ chỗ bao gồm 29 mức thuế suất, với mức thuế suất danh nghĩa
là 16,11% xuống còn 18 mức thuế suất danh nghĩa là 15,3%. Vì vậy, tỷ
trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu ngân sách nhà nước trong giai
đoạn này đã giảm xuống so với trước song bình quân vẫn đạt 10,12%.Tuy
21
nhiên, nếu tính chung cả số thu thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt
đối với hàng nhập khẩu thì tỉ trọng số thuế từ hàng hóa xuất, nhập khẩu vẫn
không ngưng tăng lên, với mức huy động bình quân trong giai đoạn này là
26,41% trong tổng số thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí và lệ phí.
Theo lộ trình cam kết song phương với các đối tác thương mại lớn
như AFTA, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và mức thuế suất trần theo
cam kết khi gia nhập WTO vai trò động viên nguồn thu cho ngân sách nhà
nước của thuế nhập khẩu tuy có giảm về thuế suất do thực hiện các cam kết
cắt giảm thuế, nhưng do kim ngạch nhập khẩu tăng, sự gia tăng về hoạt động
giao dịch thương mại nên vẫn sẽ tiếp tục là nguồn thu quan trọng.
2.2. Thực trạng hoạt động chống thất thu thuế
2.2.1. Tình hình gian lận về thuế nhập khẩu
* Với mục đích trốn thuế nhập khẩu bằng việc khai báo giá trị
hàng hóa thấp các đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi:
- Thông đồng với đối tác bán hàng để lập hóa đơn, hợp đồng hạ thấp
trị giá hàng hóa so với giá trị thực;
- Khai báo thấp về chất lượng hàng hóa hoặc đánh đồng tên hàng
nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn;
- Khai báo mã hàng hóa có thuế suất bằng không, hàng thuộc diện

không phải nộp thuế như hàng cho tặng, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo,
khuyến mại, hàng viện trợ...
- Hiện nay, các tập đoàn kinh tế lớn sẽ tính toán chiến lược để thâm
nhập sản phẩm hàng hóa vào thị trường Việt nam kể cả việc họ chấp nhận
giảm giá thành sản phẩm để tiếp cận sản phẩm của mình với người tiêu dùng
và đương nhiên họ sẽ đưa ra một số điều kiện cho người nhập khẩu như
khuyến mại để chiếm thị phần nên giá khai báo của doanh nghiệp với cơ
quan hải quan có thể là giá thực tế mà người nhập khẩu đã thanh toán, nhưng
vô tình họ đang tiếp tay một cách gián tiếp cho người xuất khẩu trốn thuế
Nhà nước bằng cách bán rẻ hoặc cho thêm hàng khuyến mại mà không phải
nộp thuế cho nhà nước do chính sách ưu đãi của Việt nam.
- Nhà nhập khẩu chỉ định là đại lý độc quyền sản phẩm tại Việt nam
nên người xuất khẩu đã đưa ra các điều kiện làm không thể xác định được trị
giá thật của hàng hóa. Hoặc kết thúc năm tài chính người nhập khẩu sẽ
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho các Tập Đoàn...
- Lợi dụng các quy định để hưởng lãi suất ưu đãi đặc biệt để trốn thuế(
giả mạo C/O form D).
22
Đặc biệt trong loại hình nhập khẩu hàng hóa phi mậu dịch, với đặc thù
loại hình này là hàng hóa không cần hợp đồng mua bán, việc gian lận về giá
diễn ra rất phức tạp, dễ xảy ra móc nối tiêu cực giữa hải quan làm thủ tục và
doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng hình thức này để gom hàng
hóa tại nước ngoài, sau đó tạo Công ty giả để làm hợp đồng, hóa đơn hạ thấp
trị giá hàng hóa.
Thủ đoạn mới phát hiện: Làm hóa đơn, chứng từ, giả chữ ký của công
chức và con dấu của cơ quan Hải quan
Qua công tác kiểm tra trị giá khai báo, cục Hải quan địa phương đã
phát hiện nhiều lô hàng nghi ngờ trị giá khai báo thấp, bất hợp lý đặc biệt là
những lô hàng nhậy cảm có thuế suất cao như: Ô tô, xe gắn máy, ngoài ra
còn có các mặt hàng điện, điện tử, linh kiện, phụ tùng ôtô, xe máy

Thực tế thời gian qua cho thấy, đi đôi với nỗ lực của cơ quan Hải
quan và việc chấp hành tốt nghĩa vụ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu của nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính, thì cũng có không ít doanh
nghiệp tìm đủ mọi cách để chây ỳ nợ thuế, trốn tránh nghĩa vụ thuế để rồi đi
tới xin xóa nợ hoặc bỏ trốn.
Để phân tích tình trạng thất thu thuế nhập khẩu, chứng ta hãy nghiên
cứu sơ qua số liệu về nợ đọng thuế nhập khẩu qua các năm:
Bảng 2.2: Tỷ trọng số thuế nợ đọng trong tống số thu thuế nhập
khẩu
Năm Số thuế nợ đọng
Số thu từ hàng hóa nhập
khẩu
2001 3755 27800
2002 4709 34500
2003 3068 35105
2004 3207 42300
2005 2850 49800
2006 3200 58627
2007 3068 85700
2008 4380 125136
2009 5130 132000

Đơn vị: Tỷ VND
Nguồn: Cục Tin học và Thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế
23
0
20000
40000
60000
80000

100000
120000
140000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
số thuế nợ đọng
số thu từ hàng hóa nhập khẩu
Hình 2.3 So sánh tình hình nợ đọng so với số thu từ thuế đối với
hàng nhập khẩu
Nguồn: Cục Tin Học và Thống kê- Tổng Cục Hải quan, Tổng cục Thuế.
Chi tiết về số nợ thuế nhập khẩu lũy kế tính đến cuối năm 2009 là
4365 tỷ đồng, cụ thể như sau: [8]
-Nợ thuế của các doanh nghiệp thua lỗ là 760 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp giải thể, phá sản là 615 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp mất tích, bỏ trốn là 435 tỷ đồng;
-Nợ thuế do chính sách thay đổi là 875 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chây ỳ là 745 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chờ xóa nợ theo quy định 115 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp chờ giải quyết miễn thuế, xét miễn
thuế là 615 tỷ đồng;
-Nợ thuế của các doanh nghiệp được phép giãn nợ là 45 tỷ đồng.
Theo số liệu thu ngân sách năm 2008, số nợ đọng thuế nhập khẩu
chiếm khoảng 5,24 % số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu. Số nợ đọng đến
cuối năm 2009 tuy có giảm về số tương đối nhưng về số tuyệt đối vẫn không
giảm nhiều, do phần lớn các khoản nợ này nằm trong số nợ khó có khả năng
thu hồi, trong đó số nợ thuế của các doanh nghiệp kinh doanh lắp ráp, sản
xuất xe máy là tương đối lớn.
Thực tế cho thấy, tống số lượt doanh nghiệp nợ thuế có khoảng 8268
lượt doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 24% tổng
số doanh nghiệp nợ và doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác chiếm
24

76%; chiếm khoảng gần 50% số doanh nghiệp thường xuyên tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu.
Theo số liệu thống kê của cơ quan hải quan, kể từ khi thực hiện luật
doanh nghiệp năm 1999, hàng năm số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh không ngưng tăng lên, bình quân mỗi năm tăng lên khoảng 20% so
với năm trước. Trong đó, số doanh nghiệp đăng ký tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng. Trước năm 1999 cả nước mới có
khoảng hơn 2000 doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, thì đến cuối năm
2009 con số này lên đến gần 74000 doanh nghiệp. Trên thực tế chỉ có
khoảng 26.000 doanh nghiệp thương xuyên hoạt động xuất nhập khẩu, số
còn lại chỉ đăng ký để thực hiện chức năng xuất nhập khẩu khi tìm kiếm
được khách hàng hoặc có cơ hội nhập khẩu một lần để rồi nợ thuế, trốn thuế.
Sở dĩ có sự tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu như vậy là do điều kiện được phép kinh doanh xuất nhập khẩu
khá thông thoáng, doanh nghiệp được quyền sản xuất, kinh doanh những
mặt hàng mà nhà nước không cấm.
Sự thông thoáng nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu, tạo cơ hội cho mọi thành phần kinh tế tham gia tiếp
cận, tìm kiếm và mở rộng thị trường, tạo công ăn việc làm, góp phần giải
phóng sức sản xuất... Đó là tiền đề và động lực cho sự phát triển bền vững
của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế đã có sự thiếu phối hợp đồng bộ
trong việc tổ chức quản lý từ khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, đến quá
trình kinh doanh, chấp hành pháp luật, trong đó có pháp luật về thuế. Doanh
nghiệp đăng ký và được phép đi vào hoạt động, còn hoạt động, còn hoạt
động tốt hay xấu như thế nào? hiệu quả ra sao? Quá trình chấp hành pháp
luật của doanh nghiệp... không có theo dõi đánh giá hoặc đánh giá thiếu đầy
đủ; mỗi cơ quan quản lý chỉ chịu trách nhiệm phần việc của mình, ví dụ: cơ
quan kế hoạch- đầu tư cấp phép chỉ biết cấp phép, cơ quan thuế, cơ quan hải
quan chỉ biết thu thuế,... Trong khi đó, có những doanh nghiệp từ khi bắt đầu
thành lập đã có sẵn ý đồ trốn thuế, nợ thuế, bán hóa đơn ra ngoài để thu lợi

hoặc trốn tránh nghĩa vụ thuế khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa. Do vậy,
theo điều tra thì cứ khoảng 100 doanh nghiệp được phép thành lập, đăng ký
kinh doanh thì có đến 35-40 doanh nghiệp thay đổi địa chỉ mà không thông
báo cho cơ quan thuế, cơ quan hải quan biết.
Qua phân tích số liệu thống kê, cho thấy số nợ đọng thuế như các
khoản nợ xấu, gồm nợ thuế do thô lỗ không có khẳ năng thanh toán, nợ thuế
của doanh nghiệp giải thể, nợ thuế của các doanh nghiệp không có địa chỉ
đang có xu hướng gia tăng, hiện chiếm khoảng 19% tổng số nợ thuế, nợ
phạt; nợ có khả năng thu chiếm trên 80%, nhưng phần nhiều lại rơi vào một
25

×