Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.35 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là công cụ kinh tế chủ yếu được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ
mô nền kinh tế và huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Một trong
những yêu cầu quan trọng trong tổ chức thực thi chính sách thuế là phải thu
đúng, thu đủ và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế. Chấp hành
tốt nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, cũng như
đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.
Trong những năm qua, chính sách thuế nhập khẩu, cùng với cơ chế vận
hành đảm bảo công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử và ổn định đã
tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu
tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần huy động nguồn thu cho ngân
sách, bảo hộ sản xuất trong nước… Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì
trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu. Có thê nói tình
trạng thất thu thuế nhập khẩu đã xảy ra trong thời gian dài, số thuế thất thu
không phải nhỏ, làm ảnh hưởng xấu đến cân đối thu chi của ngân sách nhà
nước- một trong những cân đối lớn của nền kinh tế quốc gia và tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ về thuế.
Nguyên nhân của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu có thể do khách
quan như chính sách chế độ thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai họa bất
ngờ…, cũng có thể do nguyên nhân chủ quan như đối tượng nộp thuế cố tình
gian lận, trốn thuế… Vì vậy, cùng với việc tổ chức, triển khai thực hiện chính
sách thuế nhập khẩu thì việc tìm ra giải pháp để chống thất thu thuế nhập
khẩu là một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách
nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả chính sách thuế của nhà nước. Với ý
nghĩa trên, tác giả đã chọn đề tài “ Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập” để nghiên cứu nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của
thực tiễn.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ CHỐNG
THẤT THU THUÊ NHẬP KHẨU
1.1. Một số vấn đề cơ bản về thuế nhập khẩu


1.1.1. Khái quát chung
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu động viên từ người tiêu dùng hàng
nhập khẩu nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo
hộ sản xuất trong nước. Sử dụng tốt chính sách thuế nhập khẩu là phát huy
đầy đủ chức năng, vai trò của thuế, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, thuế nhập khẩu còn là công cụ thể hiện chính sách kinh tế đối ngoại
của quốc gia với các quốc gia khác trong thương mại quốc tế.
Thuế nhập khẩu do các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc
đối tượng chịu thuế phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định của pháp
luật với mức độ và thời hạn cụ thể. Việc sử dụng có hiệu quả thuế nhập khẩu
chính là phát huy đầy đủ các chức năng cơ bản của nó trong lĩnh vực hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh
tế thế giới và khu vực thì thuế nhập khẩu càng thể hiện vai trò và tác dụng
không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà còn là công cụ thể hiện
chính sách đối ngoại giữa các quốc gia với nhau.
1.1.2 Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Đặc thù của thuế nhập khẩu so với các loại thuế khác trong hệ thống
thuế là việc sử dụng thuế nhập khẩu không những tác động đến nền kinh tế
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ ngoại giao và chính sách đối xử với
các quốc gia khác. Để phân biệt thuế nhập khẩu với các loại thuế khác trong
hệ thống thuế, căn cứ vào các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thuế nhập khẩu chỉ thu vào hàng hóa nhập khẩu mà không thu
vào hàng hóa sản xuất trong nước.
- Thuế nhập khẩu gắn với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ.
- Thuế nhập khẩu chi do cơ quan Hải quan quản lý thu nhằm gắn
công tác quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý nhà nước về hải
quan đối với các hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.3 Phân loại thuế nhập khẩu

Tùy thuộc vào tiêu thức và yêu cầu của công việc phân loại, có nhiều
cách phân loại thuế nhập khẩu, đó là:
1.1.3.1. Căn cứ vào mục đích của việc thu thuế
Nếu căn cứ vào mục đích của việc thu thuế thì thuế nhập khẩu được
chia thành các loại sau:
- Loại để tạo nguồn thu: Thuế nhập khẩu được quy định đối với tất
cả các mặt hàng để tạo lập nguồn thu cho chính phủ, không phân biệt khả
năng sản xuất, nhu cầu bảo hộ và chính sách thương mại của quốc gia đó.
- Loại để bảo hộ: Loại này thường được quy định có lựa chọn. Nếu
trong nước có sản xuất có khả năng sản xuất nhưng chưa đủ sức cạnh tranh,
cần sự bảo hộ của nhà nước thì xây dựng mức thuế bảo hộ để hàng sản xuất
trong nước đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
- Loại để trừng phạt: Loại thuế này thường được sử dụng để trả
đũa lại những hành vi phân biệt đối xử của một quốc gia này đối với hàng hóa
của một quốc gia khác.
1.1.3.2. Căn cứ vào phạm vi tác dụng
Nếu căn cứ vào phạm vi tác dụng thì thuế nhập khẩu có các loại sau:
- Thuế nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính độc lập của
một quốc gia ( quy định tùy ý theo mục tiêu của quốc gia mình mà không phụ
thuộc vào bất kỳ một Hiệp định song phương hoặc đa phương nào đã ký kết).
- Thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: là loại thuế thục hiện
theo các cam kết trong các Hiệp định song phương hoặc đa phương đã ký kết.
1.1.3.3. Căn cứ vào cách thức đánh thuế
Nếu căn cứ vào cách thức đánh thuế thì thuế nhập khẩu được phân chia
thành các loại:
- Thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ phần trăm (%): Thuế nhập khẩu
tính thuế theo tỷ lệ phần trăm là hình thức tính thuế được quy định theo tỷ lệ
phần trăm (%) tính trên trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu.
- Thuế kết hợp giữa tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt
đối: Thuế kết hợp giữa tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt đối là sự

kết hợp giữa thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ và thuế nhập khẩu tính theo đơn
vị.
- Thuế nhập khẩu biến thiên: Thuế nhập khẩu biến thiên là thuế
nhập khẩu được đánh trên hàng nhập khẩu, nhưng thuế xuất thay đổi thường
xuyên, thậm chí mỗi ngày. Sắc thuế này thường được ấn định ở một mức
nhằm triệt tiên ưu thế về giá cả của nước xuất khẩu đối với hàng hóa sản xuất
trong nước.
1.1.4 Vai trò của thuế nhập khẩu
Xét về chức năng, vai trò của thuế nhập khẩu đều có nét tương đồng
với các loại thuế gián thu khác. Tuy nhiên, sự xuất hiện của thuế nhập khẩu
lại bắt nguồn từ yêu cầu điều chỉnh sự vận động của hàng hóa giữa các quốc
gia có chủ quyền, nó là một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại của
mỗi nước, nên thuế nhập khẩu cũng có những nét riêng về mặt nội dung, vai
trò, cũng như cách thức hành thu. Thông qua việc quy định mức thuế suất cụ
thể đối với hàng hóa nhập khẩu thể hiện chính sách và mức độ bảo hộ sản
xuất trong nước, cũng như chính sách đối xử giữa các quốc gia, việc áp dụng
xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đảm bảo tính công bằng,
minh bạch sẽ góp phần thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng, cụ
thể như sau:
1.1.4.1 Bảo hộ sản xuất trong nước
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào đầu vào của quá trình sản xuất
thông qua việc đánh thuế trên hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư
liệu sản xuất... Ngoài chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các
loại thuế gián thu khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất
trong nước thông qua việc tác động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu trên
thị trường.
1.1.4.2. Huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Khi thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế và bảo hộ
nền sản xuất trong nước, thuế nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc hình

thành nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao
vừa bảo hộ sản xuất trong nước, vừa đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân
sách Nhà nước. Ngược lại, thu thuế nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập
khẩu, nhìn bên ngoài số thu đóng góp cho ngân sách thấp hoặc không đáng
kể, nhưng xét trong tổng thể quy trình sản xuất xã hội thì thu ngân sách sẽ
tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm thông qua các loại thuế như giá trị gia tăng,
thuế thu nhập doanh nghiệp...
1.1.4.3. Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
Khi mở cửa thị trường, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc
mua bán hàng hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và bất kỳ loại hàng
hóa gì. Có những hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản cho con người, có những
hàng hóa, dich vụ là tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm là động lực trực
tiếp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế... Bên cạnh đó, cũng có những thứ
hàng hóa có thể thâm nhập vào bằng nhiều hình thức làm xâm hại đến chủ
quyền, an ninh quốc gia, đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trên thế giới, nhiều nhà kinh tế học đã chứng minh rằng, có hai loại hàng hóa
có mức lợi nhuận siêu ngạch đó là vũ khí và ma túy. Ngoài ra, còn những vật
phẩm văn hóa đồi trụy cũng có thể xâm nhập vào thị trường nội địa làm
phương hại đến môi trường văn hóa – xã hội của nước nhập khẩu, là mầm
mống của nhiều tệ nạn xã hội có thể phát sinh. Mặc dù, với xu thế tự do hóa,
toàn cầu hóa đòi hỏi phải cắt giảm hàng rào thuế quan, thuế quan hóa các biện
pháp phi thuế quan, nhưng vai trò, vị trí của thuế quan vẫn còn quan trọng.
Chính vì vậy, thông qua việc kiểm tra thu thuế nhập khẩu, để biết được thực
chất hàng hóa, nhập khẩu qua cửa khẩu loại hàng hóa gì, với số lượng là bao
nhiêu, nhập khẩu từ nước nào.v.v... thì Nhà nước mới kiểm soát được tất cả
các loại hàng hóa nhập khẩu. Kết hợp với chính sách kinh tế đối ngoại thích
hợp, Nhà nước cho phép nhập những loại hàng hóa gì, cầm nhập những loại
hàng hóa nào để có biện pháp xử lý kịp thời, không để lọt vào thị trường trong
nước.
1.1.5. Nội dung thất thu thuế nhập khẩu

1.1.5.1 Khái niệm
Thất thu thuế có thể hiểu một cách đơn giản đó là khoản tiền thuế bị đối
tượng nộp thuế chiếm dụng, không nộp đúng, nộp đủ theo quy định của chính
sách thuế. Thất thu thuế nhập khẩu là khoản tiền thuế nhập khẩu bị tổ chức, cá
nhân có hàng hoá nhập khẩu chiếm đoạt, không nộp đúng, nộp đủ theo quy
định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.5.2. Phân loại
- Theo nguyên nhân thất thu thuế:
. Thất thu do nguyên nhân chủ quan:
Đó là các khoản thất thu thuế phát sinh do đối tượng nộp thuế cố tình
trốn tránh nghĩa vụ thuế. Như khai sau chủng loại hàng hóa để được hưởng
thuế suất thấp; kê khai trị giá tính thuế thấp hơn giá trị thực thanh toán; hàng
hóa nhập khẩu để gia công hàng hóa cho nước ngoài; sản xuất hàng xuất khẩu
nhưng kê khai định mức cao hơn định mức tiêu hao thực tế, phần chênh lệch
đem tiêu thụ nội địa không khai báo với cơ quan Hải quan. Làm giả chứng
nhận xuất xứ ( C/O) để được hưởng thuế suất thấp. Lợi dụng chính sách ân
hạn nộp thuế nhập khẩu, sau khi nhập khẩu hàng hóa đã bỏ trốn...
. Thất thu do nguyên nhân khách quan:
Do chịu sự tác động ngoài dự kiến do văn bản quy định không rõ ràng
dẫn tới tranh chấp về mã số thuế, trị giá tính thuế giữa đối tượng nộp thuế với
cơ quan hải quan; đặc biệt đối với những mặt hàng chưa được định danh cụ
thể trong Biểu thuế cho nên dẫn tới phát sinh số thuế phải nộp bổ xung sau
khi hàng hóa được thông quan. Văn bản chính sách ( điều chỉnh tăng thuế)
thay đổi đột ngột sau khi doanh nghiệp đã ký hợp đồng nhập khẩu, mở L/C,
hàng hóa đã bốc lên địa điểm làm thủ tục kiểm tra hải quan, ký hợp đồng
cung cấp cho các đơn vị trong nước dẫn tới phát sinh khoản tiền thuế ngoài
dự kiến...
. Theo tính chất của khoản thuế bị thất thu
Khoản tiền thuế thất thu có khả năng thu hồi: Là các khoản nợ có khả
năng thu hồi cao, do các doanh nghiệp nợ thuế vẫn tiếp tục hoạt động binh

thường hoặc chờ xác định chính xác số thuế phải nộp hoặc số nợ nhỏ của các
doanh nghiệp chây ỳ, có thể giải quyết dứt điểm nếu tổ chức xử lý cương
quyết, doanh nghiệp đã ký biên bản truy thu và cam kết nộp...
Khoản tiên thuế thất thu không có khả năng thu hồi: Là các khoản thuế
phải truy thu mà đối tượng nộp thuế không có khả năng nộp thuế do các
doanh nghiệp nợ thuế không còn nguồn vốn để nộp, doanh nghiệp giải thể,
phá sản hoặc làm ăn thua lỗ; khoản tiền thuế cơ quan hải quan không thể kiểm
soát được do doanh nghiệp mất địa chỉ.
Cách thức phân loại thất thu thuế nhập khẩu cho chúng ta thấy mỗi loại
thất thu và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu là rất khác nhau.
Việc phân loại thất thu thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý và đề ra
các biện pháp quản lý, thu hồi thuế nhập khẩu cho phù hợp.
1.1.5.3 Ảnh hưởng của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu
- Đối với ngân sách nhà nước: Một trong những mục đích cơ bản của
gian lận thuế là trốn thuế. Do đó, gian lận, trốn thuế càng tăng thì thất thu
ngân sách Nhà nước càng lớn. Nhà nước bị thất thu thuế lớn sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình tích lũy vốn để tiến hành cân đối thu chi và đầu tư
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngân sách nhà nước được xác lập dựa trên
cơ sở dự toán nhu cầu chi tiêu và khả năng đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước, trong đó nguồn thu từ thuế nhập khẩu có vai trò rất quan trọng. Nếu
việc nộp thuế bị chậm trễ hoặc doanh nghiệp cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp
thuế, thì việc thực hiện dự toán thu ngân sách sẽ không được bảo đảm. Từ đó
ảnh hưởng tới nhu cầu chi tiêu của nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và
các đơn vị sự nghiệp, cũng như nhu cầu về vốn cho quá trình đầu tư phát triển
kinh tế xã hội...
- Đối với môi trường kinh doanh: Để đảm bảo môi trường kinh doanh
được bình đẳng, đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của nhà nước, trong
đó nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cũng là một tiêu chí quan trọng. Thuế nhập
khẩu ngoài vai trò quan trọng là công cụ để Nhà nước kiểm soát hoạt động

ngoại thương còn là công cụ hữu ích để bảo vệ nền sản xuất trong nước.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới chính sách thuế nhập khẩu
1.2.1 Yếu tố chủ quan
1.2.1.1 Mục tiêu phát triển và bảo hộ sản xuất, khuyến khích xuất
khẩu của mỗi quốc gia
Hoạt động ngoại thương phát triển có thể gây ra tác động tiêu cực đối
với sản xuất nội địa, đặc biệt đối với nền kinh tế. Để khuyến khích xuất khẩu
hàng hóa, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì nhà
nước sẽ đánh thuế thấp đối với hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu đầu vào.
Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn thuế nhập khẩu
khi xuất khẩu và được áp dụng thời hạn nộp thuế dài hơn. Ngoài ra, để
khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất trong nước Nhà nước cho phép miễn
thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định,
đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hóa trong nước đã sản xuất được...
1.2.1.2 Năng lực, trình độ, nhận thức của con người
Con người luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và thực
thi chính sách. Trình độ, năng lực của cán bộ xây dựng và hoạch định chính
sách quyết định hiệu quả của chính sách thuế. Trong thời đại ngày nay, việc
xây dựng chính sách không những phải đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế
mà còn phải phù hợp với điều kiện trong nước. Ngoài ra, cán bộ thu thuế vừa
là người tiếp xúc thực tế với đời sống xã hội, triển khai các nội dung chính
sách, giải quyết trực tiếp các vướng mắc của đối tượng nộp thuế. Đội ngũ cán
bộ nếu không có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao thì mọi
chính sách dù có tốt đến đâu cũng bị vô hiệu hóa và chính sách ban hành sẽ
không phát huy được tác dụng, bị lợi dụng, trốn thuế gây thất thu cho ngân
sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách còn phù thuộc vào
trình độ của đối tượng nộp thuế. Vì suy cho cùng chính sách được ban hành
phải có người thực hiện. Nếu chính sách ban hành không phù hợp với trình độ
của đối tượng nộp thuế thì chính sách không thể đi vào cuộc sống.
1.2.1.3. Yêu cầu cân đối thu ngân sách nhà nước

Khi ngân sách bị thiếu hụt, chính phủ sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào
hàng nhập khẩu đặc biệt là hàng tiêu dung. Hạn chế các trường hợp được ưu
đãi miễn thuế, giảm thuế… Trường hợp ngược lại, Chính phủ có thể giảm
mức thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa nhập khẩu, mở rộng các trường hợp
ưu đãi miễn giảm thuế..
1.2.2. Yếu tố khách quan
1.2.2.1. Xu thế phát triển của thương mại quốc tế
Thuế nhập khẩu điều chỉnh vào hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc
gia. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế trong
từng quốc thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới hàng hóa xuất nhập khẩu của các
quốc gia, nhất là trong xu thế tự do hóa thương mại, mở cửa và hội nhập kinh
tế như hiện nay. Từ đó, các yếu tố quốc gia sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chính
sách thuế nhập khẩu của từng quốc gia. Để đạt được những mục tiêu đặt ra,
đòi hỏi chính sách thuế nhập khẩu phải có tính linh hoạt cao, có sự thay đổi
phù hợp tùy theo sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế.
Ngoài ra, chính sách thuế nhập khẩu còn phải đảm bảo phù hợp với hiệp định,
cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết, tham gia.
1.2.2.2 Những nguyên tắc hội nhập quốc tế chi phối chính sách thuế
nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
- Nguyên tắc không phân biệt đôi xử: Đây là nguyên tắc bao trùm nhất
của WTO, nó cũng được áp dụng như một nguyên tắc cơ bản trong khối mậu
dịch khu vực và các hiệp định thương mại song phương. Nguyên tắc thể hiện
dưới dạng đó là nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
- Nguyên tắc có đi có lại: Nguyên tắc này quy định nếu một quốc gia có
một biện pháp mở cửa thị trường như hạ thấp thuế nhập khẩu, xóa bỏ một
phần hay toàn bộ hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu thì họ có
quyền đòi hỏi các nước thành viên khác có những nhượng bộ tương tự.
Nguyên tắc này đòi hỏi các nước phải luôn cân nhắc khi đưa ra các cam kết
để đảm bảo sự hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong đàm phán thuế song
phương hay đa phương, đồng thời phải tôn trọng việc thực hiện các cam kết

đó.
- Nguyên tắc công khai minh bạch: Đây là một yêu cầu đòi hỏi các
nước thực hiện công khai các chính sách, biện pháp về tự do hóa thương mại
đầu tư, các chính sách đó phải đảm bảo rõ rang để cho các thành viên có thể
hiểu các nội dung đang được thực hiện như thế nào.
- Nguyên tắc thực hiện tự do hóa và các ràng buộc cắt giảm thuế nhập
khẩu:
Mở cửa và tự do hóa từng bước là một trong những nội dung chính của
quá trình hội nhập quốc tế về tài chính của các nước. Thực chất của nội dung
này là việc các nước mở cửa các thị trường của mình cho nước ngoài thâm
nhập và cạnh tranh, đồng thời cũng có nghĩa là các nước sẽ có cơ hội thâm
nhập và cạnh tranh ở thị trường của các nước khác. Yêu cầu này đặt ra đối với
chính sách thuế của các nước là: thuế quan và các biện pháp khác mà các
nước áp dụng để duy trì sự bảo hộ sản xuất trong nước của minh cần được
giảm bớt và trong trường hợp có thể thì sẽ được xóa bỏ thông qua các cuộc
đàm phán giữa các nước thành viên và thuế quan sẽ được giữ nguyên ở mức
giảm như vậy mà không tăng lên nữa.
- Nguyên tắc phòng ngừa bất trắc: Để đảm bảo công bằng và duy trì lợi
ích cho mỗi nước khi thực hiện các ràng buộc đã cam kết, WTO đưa ra một số
quy định về phòng ngừa bất trắc. Những quy định này cho phép nước thành
viên được áp dụng các hành động tự vệ trong một số trường hợp đặc biệt như:
các trường hợp khẩn cấp về bảo hộ cho nền công nghiệp trong nước nếu việc
tăng lượng hàng nhập khẩu có thể đe dọa hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho
sản xuất trong nước, trường hợp có hoạt động bán phá giá, hoặc nước xuất
khẩu áp dụng các biện pháp trợ cấp không được phép.v.v…
- Ưu đãi cho các nước đang phát triển: Do trình độ phát triển và tiềm
năng kinh tế của các nước rất khác nhau trong quá trình hội nhập kinh tế, nên
các tổ chức, diễn đàn tổ chức kinh tế quốc tế quy định cho phép các nước
đang và kém phát triển được hưởng một số ưu đãi nhất định so với quy định.
Các ưu đãi này có thể dưới dạng thời gian áp dụng cam kết dài hơn, hạn chế

lĩnh vực mở cửa, mức độ rủi ro trong cam kết lớn hơn so với các nước đã phát
triển.
- Ràng buộc áp dụng các phương pháp xác định giá tính thuế theo Hiệp
định trị giá tính thuế GATT/WTO:
Hiệp định trị giá tính thuế GATT/WTO xác lập một hệ thống đầy đủ
các phương pháp xác định trị giá tính thuế, đảm bảo xác định được trị giá tính
thuế của hàng hóa gần sát nhất với trị giá tính thuế, đảm bảo xác định được trị
giá tính thuế của hàng hóa gấn sát nhất với trị giá của chính hàng hóa đó trong
giao dịch. Hiệp định này nền tảng cho sự ra đời của WTO, đồng thời ràng
buộc tất cả các thành viên của mình phải tuân thủ đầy đủ các nội dung quy
định của Hiệp định. Trong đó, Hiệp định yêu cầu các nước tham gia phải xây
dựng một hệ thống pháp luật quốc gia chặt chẽ, minh bạch, theo tinh thần tạo
điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển.

×