Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.87 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG NGÀNH KIỂM SÁT
NHÂN DÂN.
I. Khái quát chung về Ngành kiểm sát nhân dân.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngành kiểm sát nhân dân.
Ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập vào ngày 26/7/1960. Quá trình
hình thành và phát triển của Ngành kiểm sát nhân dân được chia làm 2 thời kì sau:
1.1. Viện kiểm sát nhân dân thời kì từ năm 1960 đến năm 1985.
- Trước khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960), ở nước ta đã có Viện
Công tố. Năm 1946, căn cứ vào Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta, tổ chức Viện
Công tố được thành lập trong hệ thống Toà án từ cấp tỉnh trở lên và trực thuộc Bộ
Tư pháp.
- Năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chuẩn bị bước vào thời kỳ
xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tổ chức cơ quan tư pháp được tách ra
thành 3 hệ thống cơ quan riêng biệt đó là: Tư pháp, Công tố và Toà án từ Trung
ương đến huyện.
- Hệ thống Viện công tố được thành lập theo Nghị quyết ngày 25/1/1958 của
Quốc hội. Theo Nghị quyết này, thì Viện Công tố có nhiệm vụ sau:
+ Điều tra và truy tố những vi phạm về hình sự.
+ Giám sát việc chấp hành pháp luật của Cơ quan điều tra, trong việc xét xử
của Toà án, trong việc giam giữ và cải tạo.
Hệ thống Viện Công tố bao gồm: Viện Công tố Trung ương; Viện Công tố
phúc thẩm ở các khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt Bắc, Khu tự trị
Thái Mèo; Viện Công tố tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện Công tố khu
đặc biệt Hồng Quảng, Viện Công tố khu đặc biệt Vĩnh Linh; Viện Công tố huyện,
thị trấn lớn và tương đương.
- Trước yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày
26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân. Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
đã quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố nhà nước, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”.


Trong những năm đầu mới thành lập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng, hoạt động kiểm sát tập trung phục vụ công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc, bảo vệ quyền
dân chủ của nhân dân, trấn áp bọn phản cách mạng và bọn tội phạm. Khi đế quốc
Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, công tác kiểm sát đã kịp thời chuyển hướng
hoạt động, phục vụ các yêu cầu của thời chiến trên cả mặt trận sản xuất và chiến
đấu. Hoạt động kiểm sát trong thời kỳ này tập trung đấu tranh khắc phục các biểu
hiện buông lỏng kỷ luật thời chiến, vi phạm các quyền dân chủ của nhân dân. Với
mục tiêu hàng đầu là giữ vững an ninh chính trị, xây dựng hậu phương miền Bắc
xã hội chủ nghĩa vững mạnh, kịp thời chi viện cho tiền tuyến, hoạt động kiểm sát
đã góp phần nghiêm trị bọn gián điệp, biệt kích và phản động, đấu tranh chống các
tội phạm gây cản trở việc chi viện cho tiền tuyến và các hành vi xâm phạm chính
sách hậu phương quân đội.
- Năm 1975, đất nước ta được hoàn toàn thống nhất, mở ra thời kỳ cả nước
đi lên Chủ nghĩa xã hội, ngành Kiểm sát được tổ chức và hoạt động trên phạm vi
cả nước. Ở các tỉnh phía Nam, các Viện kiểm sát tuy mới được thành lập, lực
lượng còn non trẻ cũng đã tập trung vào việc bảo vệ quyền dân chủ của công dân,
coi đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu để ổn định tình hình vùng mới giải phóng.
Toàn ngành Kiểm sát đã vận dụng đúng đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước trong việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản phản động, tham gia
giải quyết các tệ nạn của xã hội cũ để lại nhằm giữ vững trật tự trị an, củng cố
chính quyền cách mạng, tích cực phục vụ chủ trương, chính sách thống nhất tiền
tệ, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và thực hiện cách mạng quan hệ sản
xuất ở nông thôn. Quán triệt mục tiêu phục vụ đường lối xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội, toàn ngành Kiểm sát đã tập trung phục vụ các mục tiêu phát
triển sản xuất, giữ vững kỷ luật trong phân phối lưu thông, tăng cường chế độ trách
nhiệm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; trấn áp kiên quyết, mạnh mẽ bọn phản
động, trừng trị nghiêm khắc tội phạm kinh tế và các tội phạm khác, tập trung làm
tốt các khâu công tác kiểm sát, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân.
Hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong giai đoạn này cũng được mở
rộng hơn trước, cả về địa bàn và nội dung công tác. Viện kiểm sát quân sự các cấp
đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống các
tội phạm về kinh tế, tội phạm về chức vụ, nâng cao sức chiến đấu của quân đội.
1.2. Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1986 đến nay.
Từ năm 1986 đến nay, quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng tại các Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và các Nghị quyết khác của
Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, ngành Kiểm sát đã có sự đổi mới về
nhận thức, về tổ chức, cán bộ và thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát. Nhờ thực
hiện chủ trương và biện pháp đổi mới đó, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được
những kết quả tích cực, góp phần vào việc đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong 15 năm đổi mới, ngành Kiểm sát nhân dân đã có những biện pháp
nhằm thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước. Viện kiểm sát các cấp đã quán
triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, tăng cường phối
hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện và xử lý nghiêm minh các loại tội
phạm. Đã tập trung lực lượng điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án lớn, đặc biệt
nghiêm trọng về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội tham nhũng, buôn lậu,
tệ nạn xã hội và một số tội phạm nghiêm trọng khác, có tác dụng giáo dục, phòng
ngừa tốt, được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, phục vụ có hiệu
quả công cuộc đổi mới của đất nước. Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều biện pháp
đổi mới công tác quản lý, xử lý thông tin tội phạm nên số vụ án do Viện kiểm sát
khởi tố và yêu cầu khởi tố ngày càng tăng, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội
phạm. Đã tăng cường hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp, nhờ đó đã kịp thời khắc phục vi phạm của cơ quan và người tiến hành tố

tụng. Công tác kiểm sát điều tra được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án và trong
suốt quá trình điều tra nên số vụ do Viện kiểm sát xử lý và truy tố tăng lên, số vụ
đình chỉ điều tra không đúng đã giảm dần ở nhiều địa phương. Phần lớn các vụ án
được giải quyết trong thời hạn luật định. Những hoạt động tích cực trên đã tạo điều
kiện thúc đẩy số vụ án kết thúc điều tra hàng năm tăng, hạn chế việc khởi tố không
có căn cứ theo quy định của pháp luật sau phải đình chỉ điều tra. Số bản án có vi
phạm pháp luật hoặc áp dụng pháp luật không đúng được Viện kiểm sát các cấp
kháng nghị, yêu cầu xét xử ở cấp cao hơn ngày càng tăng, tỷ lệ kháng nghị của
Viện kiểm sát được chấp nhận ngày càng cao. Trong công tác kiểm sát giam, giữ,
cải tạo, Viện kiểm sát các cấp đã chú trọng kiểm sát thường kỳ và bất thường tại
các nơi giam, giữ, cải tạo, trực tiếp ra quyết định trả tự do cho nhiều trường hợp bị
giam, giữ không có căn cứ và trái pháp luật. Công tác kiểm sát thi hành án được
coi trọng; Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã phối hợp với cơ quan có liên quan
quản lý chặt chẽ đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, nhất là các trường hợp bị phạt tù giam nhưng chưa được bắt thi hành án, góp
phần khắc phục tình trạng chậm trễ trong công tác thi hành án của những năm
trước đây, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Để nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác, ngành Kiểm sát thường xuyên đúc rút kinh nghiệm, phối hợp
cùng Bộ công an, Toà án nhân dân tối cao xây dựng và ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn xử lý các loại tội, nhất là tội tham nhũng, tội về ma túy và nhiều loại tội
nghiêm trọng khác. Công tác phối hợp liên ngành giữa Viện kiểm sát với các cơ
quan bảo vệ pháp luật khác được đẩy mạnh nhằm thống nhất về quan điểm và biện
pháp trong phát hiện và xử lý tội phạm. Những hoạt động đó đã đẩy nhanh tiến độ
giải quyết án, góp phần làm giảm tội phạm ở một số lĩnh vực, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước.
Để nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của công tác kiểm sát, ngành
Kiểm sát đã chú trọng việc thực hiện đổi mới tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ
cán bộ kiểm sát. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát ở cả 3 cấp ngày càng được kiện
toàn và củng cố. Toàn ngành đã từng bước quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động kiểm sát, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo

tập trung thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong xây dựng kế hoạch
công tác kiểm sát đã chú ý hình thành kế hoạch kiểm sát thống nhất nên đã huy
động được cả 3 cấp cùng tiến hành kiểm sát vào một ngành, một lĩnh vực, nhằm
phát hiện các vi phạm pháp luật có tính phổ biến để kháng nghị khắc phục. Qua
thực tiễn hoạt động kiểm sát, chúng ta đã xây dựng và hoàn thiện các quy chế quản
lý và hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Cơ sở vật chất của ngành ngày càng được
tăng cường nhằm đáp ứng nhu cầu công tác. Mạng lưới công nghệ thông tin, cơ
yếu được trang bị theo hướng hiện đại để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ và
công tác quản lý chỉ đạo, điều hành.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành Kiểm sát đã và đang có những biện pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên vững vàng về lập trường chính trị, nắm
vững chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng về phẩm chất đạo đức theo lời dạy của
Bác Hồ: "Mỗi cán bộ kiểm sát phải: Công minh, chính trực, khách quan, thận
trọng, khiêm tốn". Công tác xây dựng ngành đã thường xuyên gắn với công tác
xây dựng Đảng trong từng đơn vị kiểm sát. Lực lượng cán bộ kiểm sát ngày càng
được củng cố về mọi mặt. Phong trào học tập và rèn luyện để đáp ứng với những
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các đơn vị
trong toàn ngành Kiểm sát.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Ngành kiểm sát nhân dân.
Theo điều 1 và điều 2 Luật của Quốc hội số 34/2002/QH10 ngày 02/04/2002
về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng và nhiệm
vụ như sau:
2.1. Chức năng.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính

mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Viện kiểm sát quân sự khu vựcViện kiểm sát nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh
Viện kiểm sát quân sự cấp thứ 2
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức của Ngành kiểm sát nhân dân.
Theo điều 30 và 31 Luật của Quốc hội số 34/2002/QH10 ngày 02/04/2002
về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cơ cấu của Ngành kiểm sát nhân dân và chức
năng của các bộ phận được quy định như sau:
3.1. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
(1). Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(2). Các VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
(3). Các VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
(4). Các Viện kiểm sát quân sự.
3.2. Chức nằng của các bộ phận:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất.
- Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình.
- Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt
Nam để thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định
của pháp luật.
4. Đôi nét về tình hình hoạt động của Ngành kiểm sát nhân dân trong
năm 2009.
Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm
vụ kinh tế, xã hội năm 2009, ngay từ đầu năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã

xác định các nhiệm vụ công tác trọng tâm, đề ra các biện pháp về nghiệp vụ, kiện
toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, đổi mới phương
thức chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành.
Ngay từ đầu năm, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã phối hợp với Ban Cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,
Thường vụ đảng uỷ Công an Trung ương và Uỷ ban Tư pháp, Uỷ ban pháp luật
của Quốc hội để thống nhất chỉ đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
trong đấu tranh phòng, chống vi phạm tội phạm và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Với sự cố gắng phấn đấu của cán bộ, công chức trong toàn Ngành, sự quan
tâm lãnh đạo của các tổ chức Đảng, sự kiểm tra giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền các cấp, năm qua ngành Kiểm sát
đã đạt kết quả tích cực trên các mặt công tác.
4.1. Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự.
Thực hiện chỉ đạo của VKSND tối cao, VKS các địa phương chủ động kiểm
sát trực tiếp và vận dụng các biện pháp kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm của Cơ quan điều tra, góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế
bỏ lọt tội phạm. Qua công tác kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố điều tra
190 vụ án, 209 bị can, trong đó có những vụ án được dư luận quan tâm, đồng tình;
trực tiếp khởi tố yêu cầu điều tra 28 vụ án, 19 bị can. Những đơn vị có kinh
nghiệm trong khâu công tác này là Viện kiểm sát Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải
Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Quảng Bình.
VKS các cấp chủ động kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố và trong suốt
quá trình điều tra, xử lý vụ án. VKS đã chủ động họp bàn hướng điều tra nhiều vụ
án trọng điểm, đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra thu thập đầy đủ chứng
cứ; việc phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra đảm bảo thận trọng, có căn
cứ. Do đó, các vụ án hình sự được giải quyết vẫn giữ tỉ lệ cao, chất lượng điều tra
truy tố được nâng cao hơn. Toàn ngành đã thực hành quyền công và kiểm sát điều
tra 62.685 vụ án/ 109.445 bị can (giảm 409 vụ, tăng 143 bị can so với năm 2008);
đã giải quyết được 60.347 vụ án/ 103.520 bị can, đạt tỉ lệ 96,3% số vụ và 94,6% số

bị can, trong đó, quyết định truy tố 59.486 vụ/ 101.616 bị can, chiếm tỉ lệ 98,6% về
số vụ và 98,2% về số bị can so với số đã giải quyết.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của VKSND tối cao, việc triển khai đồng bộ các
giải pháp nên chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có
chuyển biến mạnh mẽ, đã giảm đáng kể các vụ án oan, sai và việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Năm qua, VKS trả 2.189 hồ sơ vụ án
cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, chiếm tỷ lệ 3,5% số phải xử lý (giảm
1,5% so với năm 2008); Toà án trả 2.692 hồ sơ vụ án cho VKS yêu cầu điều tra bổ
sung, chiếm tỷ lệ 4% số vụ thụ lý (giảm 0.3% so với cùng kỳ năm 2008), đình chỉ
điều tra 104 bị can do không phạm tội (giảm 115 bị can so với năm 2008).
VKS các cấp đã tập trung chỉ đạo, xử lý đối với các vụ án trọng điểm về an
ninh quốc gia, án ma tuý, tham nhũng và các vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác;
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng tìm biện pháp khắc phục những vướng
mắc về chứng cứ để giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm đã được khởi tố điều
tra, như vụ “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy
ra tại Ban quản lý dự án xây dựng Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ; vụ
“Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Cố
ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” xảy ra tại Ban điều hành Đề án Tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước
giai đoạn 2001- 2005 (Đề án 112); vụ “Tham ô tài sản”, “Cố ý làm trái các quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng
công ty vật tư nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; vụ án “Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Dự án Đại lộ Đông
tây và Môi trường nước, Tp. Hồ Chí Minh.
Toàn ngành đã thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 67.155 vụ án
theo thủ tục sơ thẩm (giảm 1.190 vụ so với cùng kỳ năm 2008), 15.673 vụ theo thủ
tục phúc thẩm (tăng 194 vụ so với cùng kì năm 2008) và 276 vụ án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm (tăng 24 vụ so với năm 2008).
4.2. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động, vụ án hành chính.

Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự: Các tranh chấp dân sự
xảy ra ngày càng nhiều, chủ yếu trong lĩnh vực hợp đồng dân sự liên quan đến sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất và tập trung nhiều ở các thành phố lớn, địa bàn kinh tế
trọng điểm.
VKSND tối cao chỉ đạo toàn Ngành bố trí cán bộ, tổ chức tập huấn về
nghiệp vụ, thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát các bản án, quyết định của Toà
án trong giải quyết các vụ, việc dân sự; đồng thời có biện pháp nâng cao trách
nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên trong việc kiểm sát các bản án, quyết định của
Toà án. Số lượng, chất lượng kháng nghị, kiến nghị đều tăng. VKS các cấp ban
hành 1.171 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm về dân sự (tăng 469 kháng nghị so
với năm 2008); Toà án cấp phúc thẩm đã đưa ra xét xử 608 vụ do VKS kháng nghị,
chấp nhận 528 vụ, đạt tỷ lệ 86,8%. Toà án đưa ra xét xử 314 vụ án theo thủ tục
giám đốc thẩm do VKS kháng nghị, chấp nhận 279 kháng nghị, đạt tỉ lệ 88,8%;
trong đó, VKSND tối cao đã kháng nghị 215 vụ án, Toà án đã xét xử 180 vụ, chấp
nhận 175 vụ, đạt tỉ lệ 97,2%.
Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều cố gắng giải quyết đơn đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự nên số việc được giải quyết tăng so với
cùng kỳ năm 2008. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý 4.367 việc, đã giải quyết
1.075 việc, đạt tỷ lệ 24,6%, trong đó ban hành 215 kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, chiếm tỉ lệ 20% so với số vụ đã giải quyết.
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc kinh doanh, thương mại, lao
động, vụ án hành chính: Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh,
thương mại, lao động được tăng cường; chất lượng, hiệu quả có tiến bộ. VKS các
cấp đã phát hiện vi phạm và ban hành 20 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Toà
án đã xét xử 12 vụ, chấp nhận 12 kháng nghị, đạt tỉ lệ 100%. Toà án cấp giám đốc
thẩm đã xét xử 39 vụ án do VKS kháng nghị, đã chấp nhận 26 kháng nghị đạt tỉ lệ
66,6%.
Năm 2009, khởi kiện hành chính tăng về số lượng, tính chất ngày càng phức
tạp; tập trung chủ yếu là những loại việc đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất;
cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. VKS các cấp thụ lý kiểm sát

1.141 vụ án theo thủ tục sơ thẩm; 479 vụ án theo thủ tục phúc thẩm; 74 vụ án theo
thủ tục giám đốc thẩm. VKS đã ban hành 21 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,
trong đó, Toà án đã xét xử 07 vụ, chấp nhận 04 kháng nghị; xét xử 13 vụ án do
VKS kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận 11 kháng nghị, đạt tỉ lệ
84,6%.
4.3. Công tác kiểm sát thi hành án.
Công tác kiểm sát thi hành án dân sự: VKS các cấp chủ động phối hợp với
các ngành hữu quan kiểm sát chặt chẽ số bị án bị phạt tù, án có hiệu lực pháp luật
chưa thi hành để có biện pháp thi hành. Năm 2009, có 72.142 bị án đã có hiệu lực
pháp luật, đã thi hành 65.798 bị án (đạt tỉ lệ 91,2%). Qua kiểm sát việc phân loại,
tổ chức việc thi hành án, VKS các cấp đã ban hành 214 kiến nghị, kháng nghị yêu
cầu Toà án, cơ quan Công an khắc phục vi phạm, như: chậm ra quyết định thi hành
án, hoãn thi hành án không đúng; chậm áp giải, chậm ra lệnh truy nã đối với các bị
án trốn thi hành án. Chú trọng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quản lý, giáo
dục người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ tại UBND cấp xã. Đã ban
hành 926 bản kiến nghị, kháng nghị yêu cầu cơ quan hữu quan khắc phục vi phạm,
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Trên cơ sở
tổng hợp vi phạm, VKSND tối cao kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các
cấp chính quyền khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý và giáo dục người đang
thi hành án tại địa phương.
Công tác kiểm sát thi hành án dân sự: VKS các cấp chú trọng kiểm sát việc
ra quyết định, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, rà soát các bản án, quyết định
của Toà án tuyên không rõ ràng, còn nhận thức khác nhau để tổng hợp kiến nghị
biện pháp giải quyết; yêu cầu cơ quan hữu quan thi hành đúng các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Năm 2009, tổng số việc phải thi hành 719.522 việc,
đã thi hành 346.095 việc, đạt tỉ lệ 48,1% so với số phải thi hành. VKS đã phát hiện
một số quyết định thi hành án không đúng với nội dung bản án, quyết định hoãn thi
hành án, việc cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản không đúng pháp luật. Đã ban
hành 494 kháng nghị, kiến nghị yêu cầu Cơ quan thi hành án khắc phục vi phạm.
4.4. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các hoạt động tư pháp.
Trong năm 2009, số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo tại VKS các cấp
tăng nhưng khiếu nại đông người giảm nhiều so với năm 2008. Toàn ngành đã thụ
lý 12.562 việc, trong đó, nội dung chủ yếu đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám

×