Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài thu hoạch môn triết nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.99 KB, 17 trang )

1

MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam qua 91 năm xây dựng và trưởng thành đã
giành được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt giai đoạn từ khi đổi mới đến
nay, kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng
và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
được nâng cao.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngồi nước khơng ngừng tấn
công, chống phá ta, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận,
bởi đây là lĩnh vực nhạy cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu
xảo quyệt, các thế lực thù địch liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt động
chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, âm mưu thực hiện “diễn biến hịa
bình"; thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng
ta để đi đến tan rã, như sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
các nước Đông Âu trước đây. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Đổi
mới cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo
thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Từ thực
tiễn trong q trình cơng tác cùng với những tri thức trong mơn Triết học được
nghiên cứu trong chương trình Cao cấp lý luận chính trị em lựa chọn nội dung
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được vận dụng trong thực



2

tiễn cách mạng Việt Nam” để làm chủ đề viết thu hoạch. Nội dung này nằm
trong mục 2 thuộc chuyên đề “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam”.


3

NỘI DỤNG
Ngày nay, triết học là một trong ba bộ phận hợp thành hữu cơ không
thể tách rời của chủ nghĩa Mác-Lênin. Những vấn đề triết học về lý luận nhận
thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng. luôn là cơ sở, là phương hướng,
là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những
cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận
hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ khơng chỉ đơn thuần
là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế
giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo
cho hoạt động. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là
triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính
ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước
ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương
hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp
với hồn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi
song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế,
từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế
giới. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội là minh chứng
xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng

với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta
là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới
hiện nay.
1. Khái niệm Thực tiễn và Lý luận
1.1. Thực tiễn
Hêghen – nhà triệt học duy tâm khách quan điển hình của người Đức
cho rằng, “hoạt động có ý chí của ý niệm”, hoạt động tinh thần thế giới “ha
hóa” thành giới tự nhiên, xã hội, lịch sử con người là thực tiễn – tức hoạt
động tinh thần là hoạt động thực tiễn. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng
tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là thực tiễn. Có nhà triết học
duy vật trước Mác cho hoạt động thực nghiệm khoa học là thực tiễn. Đây là
quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất – cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo
tự nhiên và xã hội. Từ quan niệm này của triết học duy vật biện chứng về
thực tiễn, chúng ta thấy thực tiễn có ba đặc trưng:
Một là, thực tiễn khơng phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ
là những hoạt động vật chất cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người


4

phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối
tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ, hoạt động sản xuất ra của cải
vật chất như xây nhà, làm thủy lợi, đắp đê, cày ruộng…
Hai là, những hoạt động mang tính lịch sử - xã hộ của con người. Do
đó hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội
cụ thể. Đồng thời, thực tiễn cũng trai qua những giai đoạn lịch sử phát triển
cụ thể.
Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên

và xã hội phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính bản năng, tự phát
của động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới, con người bằng và
thông qua hoạt động thực tiễn, chủ động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu
cầu của mình, thích nghị một cách chủ động, tích cực với thế giới.
1.2. Lý luận
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận khoa học là hệ thống những
tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng và được biểu
đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có những đặc trưng:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính logic chặt
chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.
Khơng có tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái qt thành
lý luận. Tuy nhiên, không phải mọi tri thức kinh nghiệm đều có thể khái quát
thành lý luận
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ảnh được bản chất sự vật,
hiện tượng.
2. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
2.1. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn,
xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn
Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát
từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn đó,
nếu khơng lý luận đó sẽ là lý luận sng, lý luận thuần túy sách vở, xa rời
cuộc sống dễ trở thành lý luận ảo tượng, khơng có căn cứ, giáo điều, kinh
viện. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Bởi lẽ, thực tiễn có vai
trị to lớn đối với lý luận. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Hoạt động thực tiễn
của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại



5

của con người. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất vật chất, cải
tạo tự nhiên và xã hội, nghĩa là hoạt động thực tiễn. Như vậy, con người quan
hệ với thế giới xung quanh bắt đầu bằng và thông qua hoạt động thực tiễn.
Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho
chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật của mình. Trên cơ sở đó, con
người mới có hiểu biết về sự vật và dần dần có cơ sở để khái quát những hiểu
biết này thành lý luận. Như vậy, chính thực tiễn đã cung cấp vật liệu cho nhận
thức, cho lý luận. Có thể nói, mọi tri thức của con người xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn. Nói khác đi, thực tiễn là cơ sở của nhận thức, của lý luận.
Thực tiễn còn là cơ sở đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người trong
đời sống của mình phải giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức, lý luận
phát triển. Thực tiễn còn quy định khuynh hướng phát triển của lý luận. Hơn
nữa, thực tiễn luôn vận động biến đổi, phát triển ln địi hỏi phải được khát
qt, tổng kết để làm giàu kinh nghiệm, phát triển lý luận, định hướng cho
hoạt động thực tiễn tiếp theo. Vì thế, thực tiễn luôn thúc đẩy cho sự ra đời của
các ngành khoa học mới, của các lý luận mới.
Thực tiễn đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được rất
nhiều thành tựu nhưng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần tổng kết để bổ sung
lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội XI của Đảng
đã đề ra nhiệm vụ: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm
sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong q trình
đổi mới, khơng ngừng phát triển lý luận”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục đề ra
nhiệm vụ “Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung
cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.

Thực tiễn cịn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người,
làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hồn thiện hơn. Trên cơ sở đó, giúp con
người nhận thức hiệu quả hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua
hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến ln chính bản thân mình, phát
triển năng lực, trí tuệ của mình. Ph. Ăng ghen đã viết: “…Chính việc người ta
biến đổi tự nhiên chứ khơng phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ
con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các cơng cụ, phương tiện,
máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu quả hơn và khái quát lý luận đúng
đắn hơn. Chính nhu cầu chế tạo, cải tiến cơng cụ sản xuất cũng như cơng cụ,
máy móc hỗ trợ con người, nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy, lý luận
và bản thân thực tiễn phát triển.


6

Như vậy, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức,
của lý luận. Nhưng như thế khơng có nghĩa là mỗi người, mỗi thế hệ người
đều phải lặp lại những hoạt động thực tiễn giống như ban đầu để có được
những tri thức giống nhau. Mỗi người, mỗi thế hệ người có thể tiếp thu, kế
thừa những kinh nghiệm và tri thức của các thế hệ trước để bổ sung, phát triển
làm giàu tri thức, lý luận của mình. Nhưng những tri thức, kinh nghiệm được
tiếp thu, kế thừa này, xét đến cùng đều trực tiếp, hoặc gián tiếp bắt nguồn từ
hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của lý luận. Hoạt động nhận thức, lý
luận của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư
cách là người đã bị quy định bởi nhu cầu tồn tại, nhu cầu sống, nhu cầu hoạt
động thực tiễn của mình. Để tồn tại, để sống, con người phải tìm hiểu thế giới
xung quanh để có những hiểu biết nhất định về thế giới, trên cơ sở đó phải

khái quát những hiểu biết của mình thành lý luận để định hướng cho những
nhu cầu này cũng như hoạt động của mình. Như vậy, chính nhu cầu sống, nhu
cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm hiểu,
khám phá, nhận thức thế giới xung quanh. Nghĩa là, nhận thức của con người
ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn
chính là mục đích của nhận thức, của lý luận. Lịch sử phát triển của nhân loại
đã chứng tỏ, khơng có nhận thức vị nhận thức, khơng có lý luận vị lý luận, chỉ
có nhận thức thực tiễn, lý luận vị thực tiễn.
Những tri thức - kết quả của nhận thức, những lý luận – kết quả của
khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý nghĩa đích thực khi
được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, cụ thể là vận dụng vào sản
xuất vật chất, cải tạo chính trị - xã hội, vào thực nghiệm khoa học phục vụ
con người. Nói cách khác đi, thước đo đánh giá giá trị của lý luận, của nhận
thức chính là thực tiễn. Nếu nhận thức, lý luận khơng vì thực tiễn, khơng
nhằm phục vụ, soi đường dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn mà vì chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức thì nhất định sẽ mất phương hướng,
phải trả giá.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận. Tri
thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản
ánh đúng hoặc khơng đúng hiện thực khách quan. Theo triết học Mác-Lênin,
chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số đông. Chân lý cũng không phải
là cái gì đó hiển nhiên. Chân lý cũng khơng phải chỉ là cái có ích, cái có lợi.
Triết học Mác - Lênin cho rằng, chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Như chúng
ta đã biết, dù tồn tại dưới hình thức nào thì thực tiễn đều là những hoạt động
vật chất – cảm tính. Chính bằng và thơng qua những hoạt động vật chất – cảm


7


tính này con người mới có những hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Con người
có được những hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy,
cũng chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn con người mới chứng minh được
những tri thức – sự hiểu biết mà mình có được là chân lý hay là sai lầm. Hơn
nữa, chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn, con người mới “vật chất hóa” tri
thức, “hiện thực hóa được tư tưởng”. Trong q trình ‘vật chất hóa” tri thức,
“hiện thực hóa tư tưởng” đó, con người mới khẳng định được chân lý, bác bỏ
được sai lầm. Cho nên, C.Mác trong Luận cương về Phoiơbắc đã khẳng định:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng
minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh
cãi về tính hiện thực hay tính khơng hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là
một vấn đề kinh viện thuần túy”. Khi đọc Hêghen, V.I.Lênin cũng khẳng định:
“… con người chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đúng đắn khách quan
của những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình, của khoa học của mình”.
Ph.Ăngghen trong Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức cũng khẳng định: “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn
vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác (những quan niệm triết
học sai lầm – tác giả nhấn mạnh), là thực tiễn, chính là thực nghiệm và cơng
nghiệp”. Chính vì vậy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng sai của
lý luận. Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có
nhiều hình thức kiểm tra sự đúng, sai của lý luận khác nhau, chẳng hạn như
bằng thực nghiệm khoa học; bằng việc áp dụng lý luận vào cải biến xã hội...
Vì vậy, việc sử dụng thực tiễn như là phương thức kiểm tra chân lý, bác bỏ sai
lầm cũng phải linh hoạt, mềm dẻo, không được cứng nhắc.
Với tư cách là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa
có tính tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn chân
lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể là tiêu chuẩn

khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Ngoài thực tiễn ra
khơng gì có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối của thực
tiễn với tư cách là tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn ln vận động,
biến đổi, phát triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó cũng khơng
đứng im mà thay đổi. Hơn nữa đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: “Khơng
bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hồn tồn một biểu tượng nào
đó của con người, dủ biểu tượng ấy là thế nào đi chăng nữa”. Vì vậy, khi thực
tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp thực
tiễn mới. Cũng vì vậy, thực tiễn được xem xét trong không gian càng rộng,
trong thời gian càng dài thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Những
người mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thường lấy thực tiễn vụn vặt để chứng


8

minh cho luận điểm của mình. Do đó, thực tiễn ấy khơng mang tính điển hình
và tính phổ biến.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là
phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan điểm thực
tiễn đòi hỏi nhận thức sự vật, nhận thức lý luận phải gắn với nhu cầu thực
tiễn; phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ
trương, đường lối, chính sách; phải tăng cường tổng kết thực tiễn để kiểm tra
lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách và kịp thời bổ sung, điều chỉnh,
phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp với
thực tiễn mới. Phải thấm nhuần lời căn dặn của V.I.Lênin: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức”.
2.2. Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận
khoa học, nếu khơng sẽ là thực tiễn mù qng, mị mẫm
Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa

học, nếu không sẽ là thực tiễn mù qng, mị mẫm, mất phương hướng, khơng
có tính hướng đích. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở:
“Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Bởi lẽ,
lý luận khoa học có vai trò to lớn đối với thực tiễn. Điều này thể hiện ở những
quan điểm sau:
Thứ nhất, lý luận khoa học đóng vai trị soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo
thực tiễn. Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận
khoa học có vai trị hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người.
Lý luận khoa học vạch ra phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực
tiễn, nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo hướng tiến bộ vì lợi ích của
con người. Nếu thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận
khoa học thì thực tiễn đó sẽ rơi vào mò mẫm, vòng vo, mất thời gian, tốn
công sức, tiền của, không hiệu quả.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên,
tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của
đông đảo quần chúng. Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần
chúng trong cuộc sống và trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận khoa
học thâm nhập được vào đông đảo quần chúng sẽ tạo thành khối thống nhất
giữa lý luận và quần chúng để cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự
vật, của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn; giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự
giác hơn.


9

Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa
học về tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức
khoa học đó, con người có thể thơng qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự

nhiên, xã hội và bản thân phục vụ cho mục đích của mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy, nó
có thể thơng qua hoạt động thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm
biến đổi thực tiễn. Lý luận có vai trị tác động tích cực đối với thực tiễn, một
khi nó phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông
đảo quần chúng nhân dân và được con người vận dụng một cách sáng tạo,
linh hoạt, phù hợp điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo
tưởng, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, kinh nghiệm, v.v… sẽ tác động tiêu cực
trở lại đối với thực tiễn.
Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý
luận; mức độ thâm nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào
sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận hay không bởi chủ thể hoạt động thực
tiễn.
Qua đó, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là phải thấy được vai
trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ sở đó mỗi cán bộ, đảng viên khơng
ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận cho bản thân. Phải thấm nhuần lời
dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi”. Tuy nhiên, khi học tập lý luận
không được tuyệt đối hóa lý luận; học tập lý luận thì phải liên hệ với thực tiễn
đất nước và thời đại. Phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Lý luận rất
cần thiết nhưng nếu cách học tập khơng đúng thì sẽ khơng có kết quả. Do đó,
trong lúc học tập lý luận chúng ta cần nhấn mạnh: “Lý luận phải liên hệ với
thực tế”.
3. Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với
việc phát triển lý luận ở Việt Nam
3.1. Ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều:
3.1.1. Bệnh kinh nghiệm
Kinh nghiệm đóng vai trò hết sức to lớn trong nhận thức cũng như
trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng nếu tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, coi thường, hạ thấp lý luận, khơng chiu học tập lý luận thì sẽ mắc

bệnh kinh nghiệm. Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như coi thường lý
luận, coi thường học tập lý luận; cho kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết
định mọi thành công trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; khơng đánh giá
đúng vai trị của đội ngũ trí thức, v.v.. Bệnh kinh nghiệm, về bản chất là
khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm cá biệt, cụ
thể; biến chúng thành những kinh nghiệm phổ biên nhằm áp dụng những kinh


10

nghiệm này cho mọi trường hợp, mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, hạ thấp, coi
thường lý luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường nhân danh đề cao thực
tiễn để hạ thấp lý luận. Trên thực tế, “thực tiễn” mà họ đề cao là là thực tiễn
cục bộ, vụn vặt, chưa chính thể, chưa tồn vẹn, chưa mang tính phổ biến. Về
thực chất, những người mắc bệnh kinh nghiệm không chỉ hạ thấp lý luận mà
hạ thấp cả thực tiễn.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm có nhiều, chẳng hạn như ảnh
hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ; ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến; ảnh hưởng của kinh
nghiệm chiến tranh du kích quá lâu dài, … Nhưng nguyên nhân cơ bản, trực
tiếp là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không hiểu
quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn của cán bộ, đảng viên.
Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả thì phải thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp, như: Thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước để khắc phục ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ; khắc
phục tư tưởng gia trưởng, phong kiến, như tư tưởng coi thường trí thức, tuyệt
đối hóa kinh nghiệm của người cao tuổi, … Đặc biệt, phải quán triệt tốt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng quan hệ biện
chứng giữa lý luận với thực tiễn.
3.1.2. Bệnh giáo điều:

Về bản chất, bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động
tuyệt đối hóa lý luận, coi thường hạ thấp thực tiễn, không đánh giá đúng vai
trò của thực tiễn trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý luận, hoặc
áp dụng lý luận và kinh nghiệm khơng tính tới điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ
thể.
Việt Nam có hai loại bệnh giáo điều. Một là, giáo điều lý luận, thể hiện
ở chỗ vận dụng lý luận không căn cứ vào những điều kiện thực tiễn – cụ thể;
học tập lý luận tách rời thực hiện, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở;
bệnh “tầm chương, trích cú”; bệnh câu chữ, … Hai là, giáo điều kinh nghiệm,
thể hiện ở chỗ, vận dụng kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa
phương khác, nước khác vào mình nhưng khơng tính tới những điều kiện thực
tiễn lịnh sử - cụ thể của mình.
Bệnh giáo điều ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân như: Ảnh hưởng tiêu
cực của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu; ảnh hưởng của tư tưởng
tiêu tư sản, như bệnh thành tích, bệnh hình thức, … Đặc biệt là vi phạm
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và không hiểu quan hệ biện
chứng giữ lý luận và thực tiễn ở một số cán bộ, đảng viên. Đây là nguyên
nhân cơ bản, trực tiếp nhất của căn bệnh giáo điều ở Việt Nam.


11

Để ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả bệnh giáo điều cần thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp, như: Từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình
thức, … Đặc biệt là phải quán triệt tốt trên thực tế nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, hiểu và vận dụng đúng đắn quan hệ biện chứng giữa lý
luận với thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, cả hai căn bệnh kinh nghiệm và giáo điều ở nước ta đều có
một nguyên nhân chung là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn. Do đó, để ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục hai căn bệnh này có hiệu
quả cần quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để quán
triệt tốt nguyên tắc này, cần thực hiện tốt trên thực tế phương châm học đi đôi
với hành; lý luận liên hệ với thực tiễn và đặc biệt tăng cường tổng kết thực
tiễn. Tổng kết thực tiễn đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự phát triển
của lý luận, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục bênh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều. Xét về bản chất, tổng kết thực tiễn là hoạt động trí tuệ của chủ thể tổng
kết thực tiễn; là quá trình chủ thể tổng kết thực tiễn bằng tư duy khoa học với
phương pháp biện chứng duy vật làm cơ sở phân tích, đánh giá, khái quát hoạt
động sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ
xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học nhằm kiểm tra chân lý, kiểm tra sự
đúng sai của lý luận để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những
bài học kinh nghiệm chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp
theo. Trên cơ sở đó, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều có hiệu quả. Tuy nhiên, để tổng kết thực tiễn có hiệu quả thì
cần phải quán triệt quan điểm khách quan; các kết luận rút ra phải mang tính
khái quát cao; mục đích của tổng kết thực tiễn phải đúng đắn.
3.2. Phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
luôn chú trọng việc xây dựng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển lý
luận, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện rõ nét ở những
điểm sau:
Một là, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới do
Đại hội VI của Đảng khởi xướng là thành quả to lớn đầu tiên của quá trình đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Đại hội VII đánh dấu
mốc quan trọng phát triển lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở
tổng kết thực tiễn 5 năm đổi mới, Đại hội VII đã thông qua “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh,
câu hỏi “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” là một xã hội như

thế nào? Lần đầu tiên đã được trả lời một cách hệ thống. Cương lĩnh đã đề cập


12

tới 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Đó là xã hội do
nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân;
các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tổng kết 20 năm đổi mới, tham khảo kinh nghiệm của bạn bè quốc tế,
rút kinh nghiệm từ những bài học của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, đến Đại hội X, Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng quan niệm
về chủ nghĩa xã hội. Nộ hàm của khái niệm xã hội xã hội chủ nghĩa đã được
Đại hội X nêu cụ thể hơn với tám đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; doi nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới”.
Hai là, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh 1991
đề ra bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ

yếu là: Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh cơng – nơng – trí làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương
xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển nông nghiệp toàn diện. Từng bước thiết lập
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nên kinh tế quốc dân; thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Ba là, phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Trước đổi mới, Đảng xác định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là sự “quá độ gián tiếp”, nghĩa là bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh 1991 đã sử dụng cụm từ “bỏ qua chế độ tư


13

bản” và xác định “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp”.
Bốn là, hình thành và phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng xác định nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VII xác định,
đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đồng
thời, cụ thể hóa một bước về chế độ cơng hữu, đó là cơng hữu “về các tư liệu
sản xuất chủ yếu”. Đến Đại hội IX, khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định với quan niệm: “Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng theo pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển”.
Năm là, hình thành và phát triển lý luận về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Tổng kết việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và quá trình
đổi mới, Đảng ta nhận thấy sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý
luận nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Sáu là, Phát triển lý luận về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) lần đầu tiên trong quá
trình đổi mới đã đề ra nhiệm vụ “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”. Đại hội tiếp tục khẳng định vai trị, vị trí của phát triển văn hóa:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII
của Đảng cụ thể hóa hơn nội dung của “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, yêu cầu bảo tồn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa tiên tiến văn hóa nhân loại.


14

KẾT LUẬN
Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn hơn 30 năm đổi mới của
Đảng ta đã góp phần làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Con đường đó phản ánh tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những điều đã rõ vẫn còn nhiều điều cần phải

tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để tìm câu trả lời cho
những vấn đề do cuộc sống đặt ra, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững trong thế kỷ XXI.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của quá trình phát
triển xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra
và đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh
của việc xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội. Hơn lúc nào
hết, lý luận Mác-Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể hiện vai
trị hướng dẫn, chỉ đạo trong cơng việc giải quyết những vấn đề cấp bách và
trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc cơng
nghiệp hố hiện đại hố đất nước hiện nay. Những thành quả mà chúng ta có
được ngày hơm nay là kết quả của sự năng động sáng tạo của Đảng, Nhà nước
trong quá trình vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào
hoàn cảnh lịch sử nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự nghiệp rất mới
mẻ, đa diện và phức tạp; do đó việc nhận thức đúng bản chất, con đường và
bước đi của quá trình này đòi hỏi một sự khái quát lý luận làm cơ sở giúp
Đảng và Nhà nước vạch ra được chủ trương, đường lối để quản lý, điều tiết và
thực hành quá trình đó. Hơn nữa, chúng ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước và q trình này sẽ làm xuất hiện trong xã hội nhiều vấn
đề mới, nhiều nội dung mới. Vì vậy, cần thiết phải có sự nhạy cảm, hiểu biết,
nắm bắt đúng và khái quát sâu sắc thực tiễn mới có thể đưa lại những giải
pháp hữu hiệu, khả thi nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
q trình đó, đồng thời làm thúc đẩy lý luận phát triển. Đó là nội dung cơ bản,
xuyên suốt và đặc biệt quan trọng đối với hoạt động nghiên cứu lý luận hiện
nay ở nước ta. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước vừa qua đã cho chúng
ta những bài học hay, những kinh nghiệm quý, những cách tạo ra diện mạo
mới cho chủ nghĩa xã hội rất linh hoạt, sáng tạo và cần phải được đúc rút,

khái quát thành lý luận và triết lý phát triển của đất nước trong bối cảnh mới
chỉ bằng cách đó, mới tạo ra cơ sở lý luận khoa học cho việc định hướng sự
phát triển của đất nước trong tương lai.


15

Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước chúng ta phải ra sức học tập kinh nghiệm của các nước, nhưng phải
chống bệnh giáo điều, rập khn máy móc.Qn triệt tốt ngun tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn.Phải ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận
cũng như chun mơn nghiệp vụ.Học phải đi đơi với hành.Phải cụ thể hố
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc, từng nơi; thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, có như
vậy nền kinh tế nước ta mới phát triển bền vững.


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị: Triết học Mác-Lênin, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018
2. C.Mác và Ph.Ăng ghen: Tồn tập; Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995,
t.3, tr.9; H.2002
3. V.I.Lênin: Toàn tập; Nxb. Tiến bộ, M.1975
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.1-t.15
5. Giáo trình Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Hệ cao cấp lý luận chính
trị), Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004, chương IV.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb. Sự thật, H. 1987
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2016.
9. Trần Hữu Tiến: Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện đổi mới,
tạp chí Cộng sản, số 7-1990.
10. Trần Văn Phòng: Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ nước ta trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án Phó Tiến sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1994.
11. Phạm Văn Thạch: Bệnh giáo điều ở đội ngủ cán bộ nước ta, Luận án
Phó Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1994.

MỤC LỤC


17

MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DỤNG.......................................................................................................4
1. Khái niệm Thực tiễn và Lý luận.................................................................4
1.1. Thực tiễn..............................................................................................4
1.2. Lý luận.................................................................................................5
2. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn........................5
2.1. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất
phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn.................................5
2.2. Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận
khoa học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm...........................9
3. Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc phát
triển lý luận ở Việt Nam...............................................................................10

3.1. Ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều:...........10
3.1.1. Bệnh kinh nghiệm............................................................................10
3.1.2. Bệnh giáo điều:...............................................................................11
3.2. Phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................12
KẾT LUẬN.....................................................................................................15



×