Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165 KB, 16 trang )

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC
Những
1.1. Những căn cứ để tăng cường công tác quản lý chi NSNN cho đào tạo
đại học.
1.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Đào tạo đại học nói riêng và GDĐT nói chung ở nước ta đang phát triển
trong bối cảnh kinh tế xã hội mới là : Năm 2005 là năm cuối cùng của kế hoạch 5
năm 2001-2005 vì thế trong năm này các cấp các ngành đang gấp rút hoàn thành
các nhiệm vụ của mình, để có thể đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra.Trong
năm nay chỉ tiêu phát triển GDP là 8,5%,đây là một nhiệm vụ tương đối nặng nề
đối với các cấp các ngành liên quan; Chúng ta đang nỗ lực để đựoc gia nhập WTO
trong năm 2005 này; Bên cạnh đó nền kinh tế của chúng ta đang trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế và bước sang nền kinh tế tri thức.Vì thế vai trò của giáo
dục đại học là vô cùng quan trong để đào tạo ra nguồn lao động có kỹ năng, có
trình độ cao; Luật giáo dục 1998 đang được các nhà làm luật nghiên cứu để sửa đổi
và bổ sung; …Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian này
có ảnh hưởng tới sự phát triển của đào tạo đại học và vì thế cung ảnh hưởng đến
các chính sách nhằm tăng cường quản lý chi NSNN cho đào tạo đại học .
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển GDĐH giai đoạn
2001-2010.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 –2010) của nước ta đã
nêu lên rõ các quan điểm phát triển chung là:
 Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
 Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho
một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
 Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và huy động mọi nguồn
lực.
Theo quan điểm này, phát triển GDĐH ở nước ta trong giai đoạn trước mắt
phải coi trọng vần đề chất lượng và hiệu quả. Vì vậy, phải thu hút mạnh mẽ các


nguồn vốn đầu tư. Mặt khác trong tương lai chúng ta sẽ có những bước nhảy vọt về
kinh tế và công nghệ, do đó phải đặc biệt chú trọng vốn đầu tư cho việc đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học – công nghệ.
Trong quá trình xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH phải chú trọng đến kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội, trong đó có GDĐH để góp phần phát triển mạnh nguồn lực con người với yêu
cầu ngày càng cao. Việc phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp các
nguồn lực trong nước và ngoài nước để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói
chung, phát triển GDĐH nói riêng là tất yếu khách quan phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh đất nước.
GDĐH cần phát triển nhiều loại hình đào tạo, chú trọng phát triển loại hình
giáo dục ngoài công lập, đồng thời tăng cường vai trò chủ đạo của hệ thống giáo
dục công lập. Việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút mạnh mẽ và sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nước đầu tư cho GDĐH là rất quan trọng.
Bên cạnh quan điểm trên, một số quan điểm chỉ đạo đối với phát triển
GDĐH cũng được chỉ ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đó là:
Thứ nhất, phát triển giáo dục-đào tạo nói chung và phát triển GDĐH nói
riêng là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH, là
điều kiện cần thiết để phát huy nguồn nhân lực – yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thực hiện quan điểm này, trong những năm trước mắt cần ưu tiên đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đào tạo lực lượng
lao động có trình độ đại học với cơ cấu ngành nghề thích hợp đáp ứng yêu cầu cải
biến cơ cấu lao động và cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ hai, tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo theo nhịp độ phát triển kinh
tế.
Ngân sách Nhà nước được coi là nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho giáo dục đào
tạo, đặc biệt là đối với giáo dục phổ thông. Đối với GDĐH, Nhà nước sẽ tập trung
đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho xây dựng lại các đại học quốc gia, các trường đại
học trọng điểm. Mặt khác, các trường đại học, cao đằng phải tự thân vận động,

tăng cường mở rộng các nguồn vốn đầu tư bằng nhiều hoạt động hướng tới đa dạng
hoá các kênh tạo nguồn.
Thứ ba, thực hiện công bằng trong GDĐH và tạo điều kiện phát triển tài
năng.
Trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, GDĐH
Việt Nam cần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này thể hiện chủ
yếu trong hai mặt: Thứ nhất, GDĐH có mục tiêu, giáo dục những con người có lý
tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội; Thứ hai, GDĐH phải tạo ra sự bình đẳng
về cơ hội học tập đại học cho mọi người. Chống lại khuynh hướng thương mại
trong GDĐH.
Có thể có nhiều cách thức để thực hiện công bằng xã hội trong GDĐH. Một
trong số đó là thực hiệu chính sách học phí kết hợp với chính sách hỗ trợ sinh viên
đặc biệt là những sinh viên nghèo hoặc sinh viên thuộc diện chính sách xã hội
thông qua các chương trình cho vay, học bổng, trợ cấp.
Đa dạng hoá các hình thức, phương thức đào tạo đại học nhằm vừa mở rộng
GDĐH, vừa tạo cơ hội cho mọi người lựa chọn con đường thích hợp nhất cho riêng
mình để có học vấn cao phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng là biện pháp để
thực hiện công bằng. Đi đôi với việc đa dạng hoá cần thống nhất quản lý GDĐH
theo tiêu chuẩn để đảm bảo chất lượng đạo tạo. Những người giỏi và tài năng được
xã hội và nhà trường khuyến khích học cao hơn, những cơ sở đào tạo đại học có
chất lượng cao, có uy tín và mạnh về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giảng
viên được giao nhiệm vụ thực hiện những chức năng đầu tầu trong hệ thống
GDĐH.
Thứ tư, thực hiện xã hội hoá giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào
tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng.
Cần tiếp tục phát triển các đại học dân lập phù hợp với định hướng của hệ
thống GDĐH, đồng thời phải đảm bảo cơ sở vật chất, chất lượng giáo viên…
Trong thời đại ngày nay, công nghệ, kỹ thuật thường làm biến đổi rất mau lẹ,
người lao dộng muốn làm việc tốt cần phải thường xuyên cập nhật tri thức mới. Hệ
thống các trường đại học, cao đẳng phải quan tâm thích đáng đến nhiệm vụ giáo

dục thường xuyên. Trường đại học giữ vai trò là trung tâm văn hoá, khoa học của
các vùng, địa phương, góp phần hình thành một xã hội học tập.
Thứ năm, phát triển GDĐH phải coi trọng cả ba mặt: quy mô, chất lượng và
hiệu qủa. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Mối quan tâm hàng đầu đối với việc phát triển GDĐH trong những năm tới
là phải nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Nhân tố quyết định chất lượng đào tạo
là đội ngũ giáo viên. Do vậy, cần triển khai nhanh các biện pháp cấp bách xây
dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đại học, xác lập cơ chế tạo điều kiện cho
những người có trình độ cao ở bên ngoài trường đại học (Viện nghiên cứu, các nhà
khoa học là người Việt Nam định cư nước ngoài, chuyên gia, giáo sư quốc tế…)
tham gia giảng dạy ở các trường đại học ở Việt Nam nhằm bồi dưỡng thêm trình
độ cho đội ngũ giáo viên trẻ.
1.2. Các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi NSNN cho đào tạo
đại học .
Giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng đựơc Đảng và Nhà
nước ta xác định là quốc sách hàng đầu, vì thế trong những năm qua đã có những
chính sách ưu tiên về đầu tư cho giáo dục. Công tác quản lý chi NSNN cho đào tạo
đại học trong thời gian qua đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đào
tạo đại học, vì thế sự nghiệp đào tạo đại học đã đạt dược những kết quả khả quan
như trên. Tuy nhiên mô hình quản lý hiện nay của chúng ta vẫn còn nhiều thiếu sót
như đã đề cập ở chương II. Mặt khác, do nguồn kinh phí NS còn hạn hẹp, trong khi
đó nhu cầu phát triển giáo dục đại học đòi hỏi vừa phải tăng qui mô vừa phải nâng
cao chất lượng đào tạo.Vì thế việc khắc phục những thiếu sót, hạn chế và tìm ra
giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng NS cho đào tạo đại học là vấn đề
cấp bách hiện nay.
1.2.1. Thay đổi phương thức cấp phát NSNN cho đào tạo đại học
Hiện nay, Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho các trường đại học công lập
theo phương thức dựa vào yếu tố đầu vào của các trường đại học (chỉ tiêu tuyển
sinh hàng năm) và mức chi phí chuẩn theo đầu sinh viên tuyển vào đối với từng

ngành. Cách phân bổ ngân sách như vậy còn rất nhiều bất cập: đó là khó có thể xác
định chính xác định mức chi cho từng ngành sao cho hợp lý nhất, mặt khác nếu lấy
chỉ tiêu sinh viên tuyển sinh hàng năm để làm căn cứ cho việc cấp Ngân sách Nhà
nước cho các trường đại học công lập là chưa đủ căn cứ bởi vì số lượng sinh viên
được tuyển là do quy định của Bộ GD&ĐT. Hơn nữa, cách cấp vốn này tỏ ra kém
hiệu quả trong việc khuyến khích nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh chất lượng đào
tạo của các trường đại học. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thì chúng ta nên
chuyển sang phương thức cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước cho các trường đại
học dựa vào đầu ra, tức là dựa trên số lượng sinh viên ra trường, có thể nói sử dụng
chất lượng đầu ra làm thước đo để cấp vốn sẽ đem lại hiệu quả cao hơn, hợp lý hơn
cho các trường đại học trong việc nhận nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước.
Cách cấp vốn Ngân sách Nhà nước dựa trên chất lượng đầu ra sẽ khắc phục được
yếu điểm hiện nay ở các trường đại học là chỉ chạy theo chỉ tiêu số lượng, kiểm
soát chặt đầu vào song nới lỏng đầu ra, một hình thức làm giảm nhẹ đi hiệu quả
đào tạo.
Đồng thời, cần nhanh chóng đổi mới nội dung, phương pháp và kế hoạch
đào tạo đại học, phải tiến hành cải tiến cơ chế phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh và cung
cấp tài chính trong GDĐH hiện nay. Việc sử dụng hai loại chỉ tiêu trong phần giao
kế hoạch bị chi phối bởi cơ chế phân bổ Ngân sách cho các trường đại học hiện
nay là một trong những lý do làm mất hiệu lực của công cụ kế hoạch hoá. Cơ chế
phân bổ Ngân sách Nhà nước theo mức chi tính trên đầu sinh viên cần thiết phải
được thay đổi để hướng tới việc thực hiện mục tiêu phân cấp quản lý trong hệ
thống giáo dục đại học, tăng cường tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của
nhà trường cũng chính là nội dung của cơ chế tự chủ tài chính áp dụng cho các đơn
vị sự nghiệp có thu.
1.2.2. Xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn cho giáo dục đại học
Trong thời gian qua, dự toán chi NSNN nói chung và chi NSNN cho đào tạo
đại học nói riêng được lập cho từng năm một. Do đó chi NSNN chỉ mới tính đến
khả năng của NS trong từng năm riêng rẽ chứ chưa tính đến cả một thời kỳ. Cách
quản lý này làm cho quá trình chi NSNN thiếu tính chiến lược, làm quá trình đầu

tư cho đào tạo đại học thiếu trọng điểm, không liền mạch. Để khắc phục tình trạng
này, chúng ta nên chuyển từ lập kế hoạch ngân sách theo từng năm sang lập kế
hoạch ngân sách trong một giai đoạn 3 năm. Theo đó kế hoạch chi tiêu của sự
nghiệp đào tạo đại học sẽ được lập cho cả một giai đoạn 3 năm.

×