Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Ương nuôi cá chình giống bằng các loại thức ăn khác nhau trong bể composit, giai lưới và ao đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.99 KB, 46 trang )

LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo Võ Đức Nghĩa, người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong thời gian thực tập cho đến khi hồn thành đề tài khố
luận tốt nghiệp này.
Xin cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Thuỷ sản và các thầy cô Trường Đại học
Nông lâm Huế đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
tập tại trường.
Tơi cũng xin được cảm ơn các bác, các chú và các anh, các chị ở Trại sản xuất
giống cá nước ngọt Đại Phương đã truyền thụ nhiều kinh nghiệm và tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi trong thời gian tôi tham gia thực tập tốt nghiệp tại quý trại.
Cuối cùng, tôi muốn cảm ơn các bạn của 2 lớp Nuôi trồng thuỷ sản 39A và
39B đã đồng hành cùng tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 10 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Văn Thị Thuỳ Trang

1


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Sản lượng nuôi cá chình ở một số quốc gia năm 2001
Bảng 2: Lượng thức ăn cho cá chình trong các thí nghiệm
Bảng 3: Thành phần hóa học của các loại thức ăn trong thí nghiệm
Bảng 4: Các yếu tố mơi trường trong giai đoạn thuần dưỡng cá chình
Bảng 5: Thay đổi trọng lượng trung bình của cá chình sau khi thuần dưỡng
Bảng 6: Biến động của các yếu tố môi trường trong các ao ở thí nghiệm 1
Bảng 7: Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tăng trọng cá chình ở thí
nghiệm 1
Bảng 8: Biến động của các yếu tố mơi trường trong các giai ở thí nghiệm 2


Bảng 9: Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tăng trọng cá chình ở thí
nghiệm 2
Bảng 10: Biến động của các yếu tố môi trường trong các bể ở thí nghiệm 3
Bảng 11: Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tăng trọng cá chình ở thí
nghiệm 3

DANH MỤC CÁC HÌNH

2


CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
mm

: milimet

cm

: centimet

m

: met

l

: lít

ml


: mililit

g

: gam

kg

: kilogam

s

: giây

EU

: European Union – Liên minh Châu Âu

CT

: Công thức



: Thức ăn

TL

: Trọng lượng


TP

: Thành phố

3


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng
phát triển mạnh, thu hút được các thành phần kinh tế và nhiều lực lượng tham gia.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống chung của người dân dần
được nâng cao, ngành thuỷ sản cũng đang mở thêm những hướng đi mới, những đối
tượng nuôi mới cho sao cho phù hợp hơn với điều kiện của xã hội.
Chính vì vậy, các đối tượng thuỷ đặc sản đang ngày càng được chú trọng phát
triển, một số loài cá đặc sản nước ngọt điển hình như cá Tầm, cá Anh Vũ, cá Chình,
cá Chiên, cá Lăng, cá Bống Tượng… được nghiên cứu và đưa vào ương, nuôi ở
nhiều địa phương trên cả nước.
Cá chình Hoa (Anguillia marmorata) là một trong những lồi thủy đặc sản có
giá trị kinh tế cao, được sử dụng để chế biến nhiều món ăn ngon, bổ dưỡng, ngồi ra
cịn được dùng như một loại dược liệu quý từ rất lâu đời. Thịt cá chình thơm ngon,
giàu protein, vitamin, acid amin và các acid béo thiết yếu... Hiện nay giá cá chình
Hoa loại 0,5 - 1kg/con khoảng 300 - 320 ngàn đồng/kg, loại 1 - 2 kg/con từ 360 380 ngàn đồng/kg, trên 2 kg/con có thể mua từ 280.000 - 300.000 đồng/kg. Cỡ cá
chình Hoa giống loại 20 - 30 con/kg từ 480 - 500 ngàn đồng/kg.
Hằng năm, một lượng lớn cá chình được tiêu thụ ở Trung Quốc, Nhật Bản, các
nước EU... và lượng tiêu thụ này tăng lên theo từng năm. Ở Việt Nam, song song
với quá trình nâng cao mức sống của người dân, nhu cầu tiêu thụ loài thủy đặc sản
này cũng ngày càng tăng. Đây chính là nguyên nhân của sự phát triển phong trào
ni thương phẩm cá chình ở nước ta trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, nghề nuôi cá chình do khá mới mẻ nên vẫn cịn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là con giống rất hạn chế do sự khai thác một ồ ạt của người dân và

chưa có biện pháp để sản xuất giống nhân tạo, nguồn giống phụ thuộc hoàn toàn
vào khai thác tự nhiên. Trong khi đó con giống được khai thác về ni thì tốc độ
tăng trưởng và tỷ lệ sống rất thấp.
Vấn đề đặt ra là tìm ra được phương pháp ni thích hợp nhất nhằm nâng cao
năng suất và tỷ lệ sống của giai đoạn này, giảm bớt áp lực về con giống cho ni
thương phẩm.
Để làm được điều đó cần phải nghiên cứu, tìm ra các yếu tố thích hợp nhất cho
sự sinh trưởng phát triển của cá chình ở giai đoạn này và một trong những yếu tố

4


đóng vai trị quyết định là dinh dưỡng. Trước mối quan tâm đó, chúng tơi chọn đề
tài: “Ương ni cá chình giống bằng các loại thức ăn khác nhau trong bể
composit, giai lưới và ao đất” với mong muốn góp phần giải quyết hợp lý vấn đề
ương ni cá chình giống trong thời điểm chưa thể tiến hành sinh sản nhân tạo hiện
nay.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
+ Làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nhằm phục vụ cho học tập
và cơng tác sau này.
+ Tìm ra loại thức ăn thích hợp cho sinh trưởng, phát triển của cá chình
giống.
+ Thử nghiệm các mơ hình ương ni cá chình giống khác nhau.
+ Góp phần xây dựng quy trình ương ni cá chình giống.

5


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỀN TỰ NHIÊN TẠI ĐỊA BÀN THỰC TẬP

1.1. Vị trí địa lý
Quảng Bình là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, là nơi giao thoa các điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa hai miền Nam Bắc của đất nước. Phía Bắc giáp với
tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Đơng giáp biển Đơng và phía Tây
giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Nằm trên nhiều đầu mối giao thơng quan trọng nên Quảng Bình có nhiều
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu hợp tác với các Tỉnh, Thành
phố trong cả nước cũng như các quốc gia trong khu vực.

Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Bình
(Nguồn: )
Trại sản xuất giống cá nước ngọt Đại Phương nằm trên địa bàn xã Đại Trạch Bố Trạch - Quảng Bình, chịu sự quản lý của trung tâm giống Thủy sản Quảng Bình.
Được xây dựng vào năm 1979 và hồn thành vào năm 1982, trại có tổng diện
tích là 10 ha, diện tích ao hồ sử dụng là 7 ha, có hệ thống đường và mương dẫn
nước bằng bê tông. Nguồn nước của trại được lấy từ nguồn nước thủy lợi.
1.2. Điều kiện khí hậu thời tiết
Theo số liệu của trạm khí tượng thuỷ văn Quảng Bình, huyện Bố Trạch nằm
trong vùng khí hậu chung của thành phố Đồng Hới, khu vực có khí hậu nhiệt đới
gió mùa với đặc trưng của khí hậu miền Bắc có mùa đơng lạnh, mưa nhiều; mùa hè
nóng, mưa ít, có gió Tây Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7 hằng năm với tốc độ

6


trung bình 20m/s làm cho nhiệt độ trong những tháng này cao nhất, độ ẩm khơng
khí thấp.
+ Nhiệt độ:
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 24,4 0C, nhiệt độ thấp nhất (vào tháng 12,
tháng) khoảng 7,8- 9,40C; nhiệt độ cao nhất (tháng 6, tháng 7) khoảng 38 – 39 0C.
Với nền nhiệt độ cao và ổn định đã đảm bảo cho tổng tích nhiệt của huyện Bố Trạch

đạt tới trị số 8600 – 90000C, biên độ chênh lệch giữa ngày và đêm từ 5 - 80C, số giờ
nắng trung bình trong ngày là 5,9 giờ.
Như vậy, nền nhiệt độ ở đây là cao, nắng nóng nhiều, tạo điều kiện thuận lợi
cho đối tượng nuôi phát triển tốt. Khung nhiệt độ nằm trong khoảng 11,5 - 34,3 0C
nên chưa vượt qua mức độ giới hạn về yêu cầu sinh thái của các loại cây trồng vật
ni hiện có trong vùng.
+ Chế độ mưa
Gió mùa đã gây ra hiện tượng mưa nhiều và phân hố theo khơng gian. Lượng
trung bình hằng năm tồn huyện bình qn từ 1300 - 4000mm, phân bố khơng đều
theo vùng và theo mùa. Mùa khơ nóng có gió Tây Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8,
mưa ít, lượng mưa chiếm 20 - 25% lượng mưa cả năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9
đến tháng 12, mưa nhiều, lượng mưa chiếm 70- 75% lượng mưa cả năm, vì vậy lũ
thường xẩy ra trên diện rộng.
+ Gió bão
Bố Trạch là một huyện trong khu vực có nhiều cơn bão đi qua. Trung bình
hằng năm có 1- 1,8 cơn bão trực tiếp, ảnh hưởng đến các vùng đất ven biển. Bão
thường xuyên xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 11, gây nhiều hậu quả đến sản xuất và
đời sống của người dân.
Chế độ gió (hướng gió thịnh hành) ảnh hưởng tới chế độ nhiệt và có sự phân
bố rõ rệt theo mùa:
- Gió mùa Đơng Bắc: Về mùa đông, do vùng ôn đới lạnh tạo ra nên các khí áp
cao lục địa, các áp lực cao lạnh này dịch xuống phía Nam hoặc Đơng Nam lục địa
Trung Quốc, rìa phía Nam của nó lấn xuống phía Bắc nước ta gây nên gió mùa
Đơng Bắc.

7


Gió mùa Đơng Bắc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến Bố Trạch từ tháng 9
đến tháng 4 năm sau. Gió mùa Đơng Bắc đột ngột làm giảm nhiệt độ từ 4 - 6 0C so

với bình quân nên thường gây hậu quả xấu đến sản xuất nông nghiệp.
- Gió Tây Nam: xuất pháp từ áp thấp từ vịnh Bengan thổi qua Lào trước khi
vào Việt Nam gặp dãy Trường Sơn, tại đây xẩy ra hiện tượng "phơi", nghĩa là phần
nhiều hơi nước được giữ lại ở phía Tây dãy Trường Sơn, khi xuống Đơng Trường
Sơn thì trở nên khơ nóng, nhưng chỉ xuất hiện từng đợt. Bình qn số ngày có gió
Tây Nam ở Bố Trạch là 30 - 40 ngày/ năm, thường bắt đầu từ tháng 3 kết thúc vào
tháng 9, cao điểm vào tháng 7.
2. HỆ THỐNG PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHÌNH HOA
2.1. Hệ thống phân loại
Ngành

: Chordata

Lớp

: Actinopterygii

Bộ

: Anguilliformes

Họ

: Anguillidae

Giống : Anguilla
Loài : A. marmorata (Quoy và Gaimard, 1824)
Tên tiếng Việt: cá chình Hoa, cá chình Bơng
Tên tiếng Anh: Giant mottled eel
2.2. Đặc điểm hình thái

Cá chình Hoa có thân hình thoi dài, hình trụ ở phần trước và dần ép lại dọc
theo đi, có vảy xếp dạng hình chiếc chiếu, nhỏ, dạng trái xoan và vây chạy vùng
quanh ngực. Đầu trịn, mắt bé, miệng hơi chếch, mơi dày, lưỡi tự do khơng dính vào
đáy miệng mút nhọn của mõm và hàm dưới có gờ thịt, răng nhỏ và xếp trên hai hàm
và xương khẩu cái thành các dải răng.
Khi cịn nhỏ, cá có màu xám nhạt hay màu vàng, trên thân có những vết lốm
đốm màu nâu, bên hơng, vây và bụng có màu trắng hoặc xanh tái. Cá trưởng thành
có màu xanh nhạt và tới màu tối đen ở phía sau, ở mặt bụng có màu vàng nhạt hay
trắng. Vây lưng màu sẫm, phần rìa vây lưng, vây hậu mơn và vây đi có màu đen.
Vây lưng xa hậu mơn hơn vây ngực, vây ngực trịn.
Xương sống cá có 110 đốt, xương tia mang 10 - 12, tia vây ngực 16 - 20.

8


Chình Hoa rất dễ phân biệt với các cá chình khác nhờ có những vạch màu và
vây lưng dài bắt đầu từ mang và kéo dài tới hậu mơn.
Cá chình Hoa trưởng thành có chiều dài trung bình 50 - 70cm, nặng 2 2,5kg/con. Con đực có thể dài 1,2m, nặng 7 - 12 kg/con. Con cái có thể dài 2m,
nặng 20kg/con.
Cá chình có thể sống đến 40 năm, tuy nhiên khả năng phục hồi quần đàn rất
thấp, để nhân đôi cần hơn 14 - 40 năm.
2.3. Phân bố
2.3.1. Thế giới
Trên thế giới cá chình Hoa được tìm thấy vùng Indo - Thái Bình Dương (Nhật
Bản, Thái Lan, Indonesias, Philippins, Trung Quốc…) và khu vực Đông Châu Phi.
Ở Châu Phi có thể tìm thấy trong sơng Mozambique và vùng thấp của sơng
Zambezi.
Cá chình Hoa là lồi phân bố rộng nhất so với các lồi khác cùng thuộc giống
Anguilla. Chình Hoa thường được tìm thấy ở vùng nhiệt đới từ 240N đến 330S.
Ở một số nước, cá chình được liệt kê vào danh sách đỏ của những loài đang bị

đe dọa như ở Thái Lan, cá chình Hoa bị săn lùng với mục đích làm dược liệu.

Hình 2: Các vùng phân bố cá chình Hoa trên thế giới (màu đỏ)
(Nguồn: )
2.3.2. Việt Nam
Cá chình Hoa phân bố nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam. Vùng
có nhiều là ở những nơi gần núi đá có nhiều hang hốc, ở vùng thượng lưu các thác
nước, lưu tốc 1- 1,5m/s và ở vùng hạ lưu có bãi nơng, nước chảy mạnh.

9


Cụ thể là:
- Sông Ngàn Phố của Hà Tĩnh.
- Sông Gianh, sơng Rn, sơng Nhật Lệ của Quảng Bình.
- Sơng Thạch Hãn, sơng Hiền Lương, khu ngã ba Ba Lịng - huyện Triệu
Phong, Tà Rụt - huyện Đakrong, Khe Sanh tỉnh Quảng Trị.
- Sông Bồ, sông Hương và đầm Cầu Hai của Thừa Thiên Huế.
- Sông Trà Khúc và vùng Ba Tơ của Quảng Ngãi.
- Sông Con và sông Ba tỉnh Phú Yên.
- Hồ Đắc Uy tỉnh Kon Tum.
- Đầm Châu Trúc tỉnh Bình Định.
2.4. Điệu kiện mơi trường sống
2.4.1. Nhiệt độ
Cá chình là lồi cá có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, chúng chỉ có thể sinh
trưởng và phát triển bình thường khi nhiệt độ nằm trong khoảng 13 – 30 0C. Ngưỡng
nhiệt độ tối đa mà cá chình có thể chịu đựng được là 38 0C, nhiệt độ tối thiểu là 1 –
20C, nhưng ở nhiệt độ 120C cá mới bắt đầu bắt mồi (Nguyễn Đình Trung, 2004).
Nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng lớn đến lượng thức ăn cá chình sử dụng.
Đối với cá chình có trọng lượng từ 100 – 200 g/con, khi nhiệt độ môi trường thấp

hơn 180C, lượng thức ăn mà chúng sử dụng ít hơn 2% trọng lượng cơ thể; từ 18 –
230C lượng ăn vào từ 2 – 2,8%; tại nhiệt độ 23 – 28 0C là 2,8 – 3,2% và trên 280C
lượng ăn giảm xuống còn từ 2 – 2,8% trọng lượng cơ thể.
Nhiệt độ thích hợp nhất cho cá chình sinh trưởng và phát triển là 25 – 27 0C
(Ngô Trọng Lư, 2000).
2.4.2. Hàm lượng oxy hoà tan
Trong thủy vực DO có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cá chình. Khi
hàm lượng oxy hồ tan trong nước ao không đầy đủ cá ăn kém, sinh trưởng chậm.
Tuy nhiên, sự tăng cao quá mức của DO cũng gây ảnh hưởng xấu đến đối tượng
nuôi. Hàm lượng DO ở quá mức bão hoà (vượt quá 12 mg/l) sẽ là nguyên nhân gây
ra bệnh bọt khí (Nguyễn Đình Trung, 2004). Vì vậy hàm lượng oxy hòa tan là yếu
tố cần thiết nhất, thậm chí nó là yếu tố giới hạn đối với sự sống của cá chình và các
lồi thủy sinh vật.

10


Hàm lượng oxy hoà tan tối thiểu trong nước mà cá chình có thể chịu đựng
được trong khoảng từ 0,5 – 2,0 mg/l. Cá càng lớn thì lượng oxy tiêu hao càng nhiều.
Ở nhiệt độ 250C, với trạng thái yên tĩnh, lượng tiêu hao theo kích cỡ cá. Ở nhiệt độ
10 – 300C thì sự tiêu hao oxy tăng theo nhiệt độ tăng, dưới 10 0C và trên 300C lượng
tiêu hao oxy có xu hướng giảm.
Hàm lượng oxy hồ tan thích hợp cho cá chình sinh trưởng, phát triển là từ 5 –
10 mg/l (Atsushi Usui, 1991).
2.4.3. Độ mặn
Cá chình Hoa là loài cá di cư sinh sản, giai đoạn ấu trùng và tiền ấu trùng
chúng sống trong nước mặn và nước lợ. Đến giai đoạn cá chình con, chúng di cư
dần vào các thủy vực nước ngọt. Suốt giai đoạn trưởng thành chúng sống trong
nước ngọt, thường từ 2 – 30 năm trước khi trở lại biển. Khi cá đến tuổi thành thục
chúng di cư ra biển để đẻ và cá mẹ chết sau khi đẻ xong (Atsushi Usui, 1991).

Tuy nhiên do cá chình là lồi rộng muối nên chúng có thể sống và sinh trưởng
ở cả nước mặn và nước ngọt nhờ có khả năng điều tiết áp suất thẩm thấu của cơ thể.
2.4.4. Độ pH
Trong tự nhiên cá chình có thể sống ở mơi trường có giá trị pH từ 4 – 10, pH
thích hợp từ 6,5 – 8,5. Giá trị pH tối ưu cho cá phát triển là từ 7,0 – 8,0 (Boestius,
1980; dẫn theo Chu Văn Công, 2006).
Ở Trung Quốc yêu cầu kỹ thuật của ao ni có giá trị pH từ 7,2 – 8,5; ở Nhật
Bản giá trị pH từ 7,0 – 9,0; pH dưới 7,0 bất lợi cho sinh trưởng của cá chình
(Atsuishi Usui, 1991).
2.4.5. Ánh sáng
Cá chình là lồi sống đáy, chui rúc trong hang đá, hốc cây, vùi mình xuống bùn
cát. Cá chình thích bóng tối, sợ ánh sáng, ban ngày chúng tìm nơi có ánh sáng yếu
để ẩn nấp, ban đêm bơi ra kiếm mồi (Isao Matsui, 1979; dẫn theo Chu Văn Cơng,
2006).
Do đó trong q trình ni phải chú ý điều này tạo điều kiện cho cá sinh
trưởng bằng cách tạo các hang hốc cho cá ẩn nấp, tránh cường độ ánh sáng cao.
2.4.6. Các yếu tố môi trường khác
Hàm lượng Nitơ thích hợp cho cá chình sinh trưởng phát triển là nhỏ hơn
5mg/l (Zhong Lin, 1991; dẫn theo Phạm Thị Hà, 2005).

11


Trong quy trình ni, khí CO2 được quan tâm rất lớn. Khí CO 2 được hình
thành do sự phân giải của các hợp chất hữu cơ, khi hàm lượng CO2 trong nước tăng
cao thể hiện sự mất cân bằng giữ các yếu tố môi trường và kỹ thuật nuôi. Khi thấy
cá nổi đầu bơi xung quanh có nghĩa là hàm lượng oxy không đáp ứng đủ nhu cầu hô
hấp cho cá và CO2 tăng cao, do đó cần phải có biện pháp xử lý ngay.
2.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá chình Hoa là loài cá dữ ăn động vật. Thành phần thức ăn của chúng bao

gồm những lồi trong nhóm động vật như giun ít tơ, thân mềm, chân khớp, lưỡng
cư và một số lồi động vật trên cạn khác.
Cá chình sống trong mơi trường khác nhau có thành phần thức ăn khác nhau.
Cá chình sống trong sơng, suối, ao, hồ ăn cá, cơn trùng và giáp xác là chính. Cá
chình sống trong vùng nhiệt đới và biển thành phần thức ăn chủ yếu là giun đốt và
cua.
Ở giai đoạn phát triển khác nhau thành phần thức ăn của cá chình Hoa thay đổi
khác nhau. Cá chình con mới đi vào vùng cửa sơng trong ruột và dạ dày của chúng
có chứa một lượng đáng kể mùn bã hữu cơ. Ở giai đoạn con giống thức ăn chủ yếu
là động vật phù du, như Neomysis; Alona…, các ấu trùng của côn trùng thủy sinh,
động vật thân mền nhỏ và giun ít tơ.
Ở giai đoạn trưởng thành thức ăn của chúng là cá, tơm, và các động vật đáy.
Chình Hoa có tính ăn dữ do đó nó có thể ăn thịt đồng loại, rình bắt những con có
kích thước nhỏ hơn. Khi kích cỡ đạt dài hơn 20cm khơng nhận thấy có sự sai khác
nhiều về thành phần các sinh vật là thức ăn của chúng, nhưng có sự sai khác nhiều
về kích cỡ của loại thức ăn.
Để phát triển, sinh sản và duy trì các hoạt động sinh lý bình thường, cá chình
Hoa cần phải được cung cấp protein, muối khống, vitamin và các nguồn cung cấp
năng lượng khác. Sự thiếu hụt của một hay một vài chất dinh dưỡng khác nhau sẽ
dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng giảm, cá dễ bị bệnh và có thể bị chết.
Thức ăn của chình Hoa phải đảm bảo protêin là 45%, lipid chiếm 3%,
cellulose 1%, calci 2,5%, phosphor 1.3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin
thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70-75%, tinh bột 20-25% và một ít
vi lượng, vitamin.

12


+ Protein: Nhu cầu protein của cá chình khoảng 450 g protein/1kg thức ăn khô.
Thành phần và tỷ lệ các axit amin của protein trong thức ăn của cá là một trong

những chỉ tiêu về chất lượng thức ăn. Phân tích thành phần axit amin trong các bộ
phận cơ thể của cá cho thấy nhu cầu axit amin ở mỗi loài cá là khác nhau, đặc biệt
là các axit amin khơng thay thế. Tất cả các lồi cá chình trong giống Anguilla là lồi
cá ăn động vật, chúng có tập tính bắt mồi chủ động. Vì vậy, nhu cầu protein của cá
chình cao hơn nhiều so với những lồi cá nước ngọt khác. Từ thực tiễn khoa học và
nghiên cứu sản xuất đều khẳng định rằng thức ăn trong nuôi cá chình phải có hàm
lượng protein lớn hơn 45% (Atsushi Usui, 1991).
+ Lipid: Với vai trò là vật chất cần thiết cấu tạo nên cơ thể và là nguồn cung
cấp năng lượng cho các hoạt động nên lipid được coi là chất dinh dưỡng quan trọng
thứ hai trong thức ăn của cá, đặc biệt đối với các loài cá dữ mà khả năng sử dụng
carbohydrate để cung cấp năng lượng là rất thấp. Ngồi ra lipid cịn có tác dụng như
là nguồn cung cấp các axit béo cần thiết để xây dựng nên cấu trúc cơ thể (EFA).
Chúng còn hoạt động như những vật chất vận chuyển các vitamine hoà tan trong
mỡ.
Tuỳ theo các loài cá khác nhau mà nhu cầu lipid trong thức ăn cũng khác nhau.
Thông thường các lồi cá nhiệt đới do có khả năng sử dụng carbohydrate tốt hơn
nên nhu cầu về lipid thấp hơn so với các lồi cá vùng ơn đới. Hàm lượng lipid trong
thức ăn nuôi cá biến động trong khoảng 2,5 - 15% (Cho C.Y & ctv, 1985; dẫn theo
Nguyễn Thị Quế Phụng, 2006).
+ Vitamine: Vitamine cần thiết đảm bảo cho cơ thể được phát triển bình
thường, sinh sản duy trì nịi giống, tăng cường sức khoẻ và duy trì các hoạt động
trao đổi chất của cơ thể. Sự thiếu hụt bất cứ một loại vitamine nào sẽ dẫn đến khả
năng bị dịch bệnh. Vì vậy, hiện nay thức ăn sử dụng trong ni cá chình ln được
bổ sung một lượng vitamine cần thiết.
Hàm lượng vitamine trong thức ăn ở mỗi khu vực là khác nhau, từ 1% - 10%.
Ngoài ra, hàm lượng vitamine còn thay đổi theo nhiệt độ nước, dưới 18 0C khoảng
5% khối lượng thức ăn, trên 180C khoảng 10% (Atsushi Usui, 1991).
2.6. Đặc điểm sinh trưởng
Tốc độ tăng trưởng của cá chình tùy thuộc vào mồi ăn, nhiệt độ nước và hàm
lượng oxy hòa tan trong nước.


13


Ngồi thiên nhiên, cá chình Hoa bột dài 6 cm, nặng 0,1g/con, sau một năm
mới đạt chiều dài 15 cm, nặng 5g/con; sau 2 năm cá dài 25 cm, nặng 15g; sau 3 năm
cá đạt cỡ 150g/con.
Trong điều kiện nước ấm, nhiệt độ trên 20 0C, nước có dịng chảy nhẹ, nhiều
oxy hịa tan, thức ăn đầy đủ thì từ cá chình bột hình lá liễu 0,1g/con, sau 8 – 10
tháng đạt 100 – 150 g/con, 8 tháng tiếp theo có thể đạt 0,8 – 1,2 kg/con.
Cá sinh trưởng chậm, nhất là cỡ từ 300g trở lên tốc độ sinh trưởng chỉ bằng
1/10 tốc độ sinh trưởng của giai đoạn cá có trọng lượng 70 - 100g.
Khi cịn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn tương đương nhau, nhưng khi
đạt chiều dài hơn 40 cm con đực lớn chậm hơn con cái.
2.7. Đặc điểm sinh sản
2.7.1. Vòng đời của cá chình Hoa

Hình 3: Vịng đời của cá chình
Cá chình là lồi cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu nơi có yếu tố sinh thái phù hợp
với yêu cầu cao của áp suất, độ tối, độ yên tĩnh, độ mặn…Sống ở nước ngọt, tuyến
sinh dục của nó không thể thành thục. Hàng năm đến mùa thu cá bố mẹ kết đàn từ
sơng hồ ra ngồi biển. Trong hành trình này tuyến sinh dục chín dần, cuối cùng đến
bãi đẻ ở ngồi biển sâu thì đẻ trứng. Trứng thụ tinh, phôi phát triển nở thành ấu
trùng dạng lá liễu, sống phù du trong nước biển, theo các dòng hải lưu trơi dạt vào
bờ, biến thành cá chình dạng ống trong suốt, vào cửa sông vùng hạ lưu biến thành
cá chình con. Trải qua nhiều biến thái hình thành cá chình hương màu trắng, cá

14



ngược dòng sắc tố đen tăng dần thành màu đen. Hàng năm vào kỳ cuối đông và đầu
xuân cá con tập trung vào vùng cửa sông di cư vào vùng nước ngọt và sinh trưởng ở
đây.
Các lồi cá chình giống Anguilla chỉ sinh sản một lần trong đời sống. Sau khi
sinh sản, cá chình bố mẹ chết.
2.7.2. Sự thành thục sinh sản
Cá chình cái thành thục sinh sản lúc 4 - 5 tuổi, đạt 2 - 3kg/con, cá đực thành
thục vào năm 3 - 4 tuổi, trọng lượng đạt khoảng 1kg/con. Tuyến sinh dục phát triển
vào tháng 10 - 11, những tháng cuối đơng trong mùa gió Đơng Bắc nhiều bão lụt.
Cá chình bố mẹ thành thục vây ngực, vây lưng, vây bụng có màu đen ánh bạc,
có con bụng màu đỏ hồng nhạt, gốc vây ngực có màu vàng kim. Mổ bụng lật ruột
và bong bóng ra sẽ thấy tuyến sinh dục nằm hai bên cột sống từ vây ngực cho đến
hậu môn.
Cá bố mẹ thành thục sinh dục trên đường di cư ra biển, khi ra đến biển tuyến
sinh dục mới chín hồn tồn và cá kết đơi sinh sản.
2.7.3. Sức sinh sản
Cá chình Hoa cái nặng 1,5 - 2kg có thể đẻ 1.500.000 - 2.000.000 trứng.
Đường kính trứng khoảng 1 - 1,2mm, nhờ có hạt dầu bên trong nên trứng có
thể nổi lơ lững trong nước.
2.7.4. Sự phát triển của cá con
Trứng trôi trên mặt nước nở thành ấu trùng dạng lá liễu. Trong 10 ngày đầu, cá
sống bằng nỗn hồng, lúc này cá có chiều dài khoảng 6 mm, sức đề kháng rất kém.
Nhờ hải lưu và sóng biển ấu trùng lá liễu trơi dạt vào bờ, cá biến thái thành
dạng ấu trùng trong suốt, thường gọi là “cá bạch tử”.
Tiếp theo ấu trùng cá xuất hiện dần các sắc tố, di chuyển bắt đầu chủ động,
đước gọi là “cá hắc tử”.
Sau đó cá biến thái dần thành cá con và di cư vào các cửa sông rồi ngược lên
thượng nguồn.
Thời gian di cư ngược sông của cá con thường từ mùa đông đến mùa xuân.
Nếu nhiệt độ dưới 80C thì cá con nằm lại ở các cửa sông ven biển, ẩn nấp ở các khe

đá, chờ đến khi mơi trường thích hợp cá mới tiếp tục di chuyển ngược dòng.

15


3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ CHÌNH TRÊN THẾ GIỚI
3.1. Nghiên cứu về sinh sản nhân tạo
Việc chủ động giải quyết con giống là việc làm đầu tiên và rất quan trọng. Đối
với hầu hết các loài cá nước ngọt hiện nay có hai biện pháp giải quyết vấn đề con
giống là khai thác từ nguồn lợi tự nhiên và cho sinh sản trong các điều kiện nhân
tạo.
Đầu năm 1934, thí nghiệm về sinh sản nhân tạo cá chình châu Âu (A. anguilla)
đã được tiến hành ở Pháp. Nhật cũng đã nghiên cứu vấn đề này từ năm 1960 trên cá
chình Nhật (A. japonica). Đến cuối năm 1973, hơn 100 ấu trùng của cá chình đã thu
được thơng qua phương pháp thụ tinh nhân tạo nhưng chúng chỉ sống được 6 ngày.
Vào năm 1979, 1 con cá chình cái thí nghiệm đã đẻ được khoảng 4.000 – 5.000
trứng, chúng nở sau 36 giờ ấp. Tất cả 400 – 500 cá thể mới nở này đã duy trì sự sinh
trưởng và dinh dưỡng bình thường trong 18 ngày. Trung Quốc đã bắt đầu thí
nghiệm này vào năm 1973. Vào năm 1974, thông qua phương pháp thụ tinh nhân
tạo đã thu được một số ấu trùng và chúng đã sống được trong 6 ngày. Năm 1975,
hơn 100.000 ấu trùng cá chình được sản xuất ra nhưng chúng đã chết trong ngày thứ
14. Thời gian sống sót của ấu trùng thu được vào năm 1979 là 19 ngày.
Như vậy, đối với cá chình chưa thể sử dụng biện pháp sinh sản nhân tạo để sản
xuất giống và tất cả cá chình giống đều phải phụ thuộc khai thác nguồn lợi tự nhiên
(Atsushi Usui, 1991).
3.2. Tình hình ni cá chình trên thế giới
Trên thế giới hiện nay việc nuôi chủ yếu khai thác nguồn giống tự nhiên tại các
cửa sông vào cuối mùa thu đến mùa đơng khi chúng đang di cư ngược dịng. Ngư
dân tại Nhật Bản thường dùng các cây lau, sậy rỗng bên trong là nơi cho cá chình
vào chú ẩn (dựa vào tập tính sống ưa bóng tối). Theo Quedens (1963), ở các nước

như Austraila, Nam Phi người ta sử dụng mồi câu móc vào trong một hộp gỗ và thả
xuống nước.
Hiện nay cá chình được xem như một sản phẩm thủy sản quan trọng. Cá chình
được đánh giá cao về chất lượng thịt, mùi vị ngon và giàu dinh dưỡng, các nước
Tây Âu và Nhật Bản là thị trường tiêu thụ cá chình mạnh nhất trên thế giới. Trang
trại ni cá chình đầu tiên được xây dựng ở Đài Loan năm 1952 và đặc biệt những
trang trại phát triển ni cá chình lớn cũng được tìm thấy ở vùng này. Xue (1988)

16


thông báo sản lượng hàng năm mang lại 41.000 tấn và giá trị sản lượng là 300 triệu
USD cho khu vực này.
Ni cá chình ở Nhật Bản bắt đầu vào những năm cuối của thế kỷ 19 tại
Tokyo, suốt đầu thế kỷ 20, việc ni cá chình mở rộng đáng kể ở ba trung tâm của
Nhật Bản là Shizuoka, Aichi và Mie. Năm 1942, tổng diện tích ni cá chình trong
các ao đạt đến 2000 ha, sau sự sụt giá suốt chiến tranh thứ 2, việc ni lại chình lại
bắt đầu phát triển trở lại và vượt qua mức độ ban đầu trước chiến tranh thế giới thứ
2 năm 1960. Sản lượng chình đánh bắt hàng năm dao động trong khoảng 200 tấn
mỗi năm, sản lượng cá chình ni đã được tính tốn với các con số cao hơn rất
nhiều, đạt 14.000 tấn năm 1972 và 27.000 tấn năm 1977. Tổng diện tích ni đạt
đến 2.500 ha năm 1977. Nhờ phương pháp ni tiên tiến có thể làm tăng cao sản
lượng và nhu cầu tiêu thụ tăng lên, việc khai thác con giống tự nhiên không đủ nhu
cầu tiêu dùng và kết quả là Nhật Bản phải nhập con giống từ Úc, Philippines, Trung
Quốc, Châu Âu, và Mỹ.
Từ Nhật Bản nghề ni cá chình đã lan rộng sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài
Loan. Những năm 70 của thập kỷ XX, việc ni cá chình được bắt nguồn đầu tiên ở
Nam và Đơng của Trung Quốc với mục đích để xuất khẩu. Sản lượng ban đầu chỉ
giới hạn trong khoảng 3000 đến 4500 kg/ha bởi vì thiếu kỹ thuật, thức ăn và kế
hoạch phát triển. Tuy nhiên từ năm 1980, với việc áp dụng hệ thống nuôi thâm

canh, các trang trại ni chình đã có những bước tiến nhanh chóng và sản lượng
cũng tăng lên nhanh ở vùng đất liền (Yu, 1988). Có hàng trăm trang trại ni chình
mọc lên ở các tỉnh Quảng Đông và Fujian. Năm 1988, tổng diện tích ni cá chình
là 530 ha với sản lượng hàng năm là 8000-10.000 tấn và giá trị sản lượng là 65-80
triệu US. Vào những năm 80-90 của thập kỷ XX, Trung Quốc đã thành cơng về kỹ
thuật ni cá chình trong ao đất, giúp nghề cá chình trong ao đất ở Trung Quốc phát
triển nhanh chóng, giảm giá thành có thể cạnh tranh với nhiều nước.
Đài Loan đã học nghề ni cá chình và ứng dụng vào năm 1952, sau đó mơ
hình ni cá chình thương phẩm với quy mơ nhỏ đã được tổ chức thực hiện vào
năm 1985, nuôi cá chình trong các trang trại với quy mơ lớn được thực hiện vào
năm 1964. Đến năm 1964 tổng diện tích ni cá chình ở Đài Loan xấp xỉ 3000 ha.
Ở Mỹ cũng thực hiện ni cá chình, tuy nhiên do nhu cầu người dân không

17


cao, nguồn lợi tự nhiên khá phong phú và ổn định nên số lượng trang trại nuôi chỉ
khoảng 50 trang trại. Kỹ thuật nuôi được chuyển giao từ Nhật.
Ở New Zealand, cá chình đang được ni thử nghiệm bởi trường Đại học
Victoria, bang Wellington. Mục đích chính của chương trình là làm thế nào để khai
thác ổn định và tối đa nguồn lợi, thúc đẩy nghề ni cá chình phát triển và nghiên
cứu thêm đặc điểm sinh học của các lồi cá chình New Zealand. Cịn ở Úc , hoạt
động ni cá chình vẫn năm trong thử nghiệm và đang thu hút được sự quan tâm
của người ni.
Ni cá chình ở các nước Đông Nam Á và Nam Á vẫn chưa phát triển mạnh,
còn chưa được quan tâm đầu tư do người dân của các nước này còn nghèo, bữa ăn
của họ còn thiếu protein nghiêm trọng, như vậy việc ni cá chình đồng nghĩa với
việc cạnh tranh nguồn thức ăn protein của con người. Hơn nữa do mức sống của
người dân ở nay cịn thấp nên họ khơng có điều kiện để ăn những loại thực phẩm
cao cấp như cá chình. Do nhu cầu ni thực tế ở khu vực này cịn chưa phát triển do

đó những nghiên cứu ứng dụng cho ni ở khu vực này cịn rất ít, chưa thu hút được
quan tâm đúng mức.Vài năm gần nay mới bắt đầu thu hút được một số nhà nghiên
cứu về lĩnh vực này.
Bảng 1: Sản lượng nuôi cá chình ở một số quốc gia năm 2001
(theo thống kê của FAO)
Quốc gia

Sản lượng (tấn/năm)

Trung Quốc

155.800

Đài Loan

34.000

Nhật Bản

23.100

Hàn Quốc

2.600

Malaysia

2.400

Europe


10.200

Trên thế giới hiện nay có 4 nước phát triển nghề ni cá chình mạnh nhất là:
Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Các lồi cá chình được ni chủ yếu

18


là: A. anguilla, A. japonica, A. rostrata, A. cebesensis, A. bicolor pacifica, A.
marmorata.
Trung Quốc là một quốc gia phát triển ni cá chình muộn hơn so với Nhật
Bản, Đài Loan nhưng do có lợi thế về diện tích rộng lớn, nguồn giống phong phú,
phát triển ni cá chình trong ao đất sớm… từ những lý do đó đã khiến Trung Quốc
trở thành quốc gia đứng đầu thế giới vế sản lượng cá chình (155.800 tấn/năm). Sau
Trung Quốc là Đài Loan (34.000 tấn/năm), mặc dù có nghề cá chình phát triển sau
Nhật Bản và Trung Quốc, nhưng với những thuận lợi khơng kém gì Trung Quốc và
một chiến lược sản xuất với trình độ thâm canh cao nên chỉ trong vịng 30 năm đã
phát triển vượt qua Nhật Bản về lĩnh vực này.
Hệ thống ni hiện nay trên thế giới có 2 phương thức ni đó là ni ao nước
tĩnh và nuôi ao nước chảy.
Tại Nhật Bản, do giá trị đặc biệt cao của cá chình nên kỹ thuật ni cá chình
theo phương thức hiện đại ngày càng phát triển. Các ao ni cá chình nước tĩnh đã
từng được sử dụng được thay thế hầu hết bởi các bể trong nhà kính với với hệ thống
nước chảy tuần hồn và cung cấp nhiệt chủ động, thức ăn cung cấp cho cá chình đã
được tính tốn theo cơng thức trước khi cho ăn. Hầu hết các nước Châu Âu cũng
thực hiện nuôi theo phương pháp này.
Trung Quốc thì ni chủ yếu trong ao đất với các hệ thống nuôi đơn, hệ thống
máy quạt nước. Ao ni hình chữ nhật, đáy được làm bằng phẳng và nghiêng về
hướng các ống thốt nước, có lớp cát hoặc sỏi dày từ 3 - 5cm dưới đáy, hai máy

quạt nước được đặt đối diện nhau tại các góc ao.
4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ CHÌNH Ở VIỆT NAM
4.1. Những nghiên cứu về cá chình ở Việt Nam
Do cá chình khơng phải là đối tượng ni truyền thống và nó chỉ được quan
tâm từ một vài năm gần đây nên những nghiên cứu về cá chình cịn rất hạn chế. Nếu
có thì chỉ mang ý nghĩa khoa học như phân loại, tìm hiểu đặc điểm sinh học…, còn
những nghiên cứu cho việc ứng dụng thực tiễn chưa nhiều.
Ở Việt Nam, cá chình đã dược nghiên cứu từ những năm đầu của thập kỷ 30,
nhưng chủ yếu là chỉ dừng lại ở việc cơng bố thành phần lồi, đặc điểm phân loại
của chúng.

19


Năm 1974 Orsi đã xác định được 4 loài ở vùng biển Việt Nam: A. marmorata,
A.japonica, A.bicolor pacifica. Một số nhà nghiên cứu ngư loại khác như Mai Đình
Yên, Nguyễn Hữu Dực đã xác định được ở nước ta hiện nay có 4 lồi cá chình trong
giống Anguilla, đó là: A. marmorata, A. japonica, A. bicolor pacifica, A.
bornessnsis. Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Nhật Phi (1994) trong danh mục các loài
cá biển Việt Nam xác định có 3 lồi: A. celebensis, A. marmorata, A. japonica.
Theo Nguyễn Hữu Phụng (2001), giống Anguilla có 18 lồi trong đó ở Việt
Nam có 5 lồi đó là: A. nebulosa (McClelland,1844), A. japonica (Temminck và
Schlegel, 1984), A. marmorata (Quoy và Gaimard,1824), A. celebensis (Kaup,
1856), A. bicolor pacifica (Schmidt, 1928).
Trong số 5 loài phân bố ở Việt Nam thì chỉ có 2 lồi là: A. japonica (cá chình
Nhật Bản) và A. marmorata (cá chình Hoa) được ni phổ biến do dặc điểm thịt
thơm ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, thị trường tiêu thụ lớn rất được ưa chuộng tại
Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông. Trong hai lồi đó thì hiện nay cá
chình Hoa được ni phổ biến hơn cả do có kích thước lớn nhất, thích ứng rộng và
nó mang lại giá trị kinh tế cao và được coi là lồi cá ni rất có triển vọng trong

tương lai.
Ở Việt Nam hiện nay đàn cá chình đang bị giảm sút nghiêm trọng, đã được
đưa vào danh Sách Đỏ Việt Nam ở mức đe dọa bậc E (Endangered: đang nguy cấp
bị đe dọa diệt chủng). Vì vậy cần có biện pháp bảo vệ tích cực để khôi phục nguồn
lợi quý giá này.
Hiện nay ở Việt Nam cùng với phong trào ni cá chình đang phát triển thì
những nghiên cứu về ni cá chình cũng được quan tâm khơng kém.
4.2. Hiện trạng ni cá chình ở Việt Nam
Nhìn chung nghề ni cá chình ở Việt Nam cịn khá mới mẻ, phong trào ni
cá chình đang được chú trọng trong những năm gần đây. Nghiên cứu thử nghiệm
ni cá chình đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện tại viện nghiên cứu ni II (TP.
Hồ Chí Minh). Tuy nhiên đến nay kết quả vẫn chưa được công bố một cách chính
thức. Năm 1996, ở Bình Định đã thử nghiệm ni cá chình trong bể xi măng, qua 3
tháng ni cá chình con tăng trọng 20-30% và đang dự kiến ni ở lồng kích thước
8 × 4 × 4,4 m, trụ gỗ, khung bằng tre, lưới nilông (mắt lưới nhỏ hơn 5 mm) đáy lồng
có bùn và đá.

20


Năm 2000, Viện nghiên cứu Nuôi Thủy Sản I (Bắc Ninh) thực hiện đề tài
“Nghiên cứu thử nghiệm nuôi cá chình Nhật (A. japonica) ở khu vực miền Bắc Việt
Nam” được triển khai với nguồn giống và thức ăn nhập từ Trung Quốc. Kết quả thử
nghiệm cho thấy cá chình Nhật có thể sống khá tốt trong ao đất, nhưng hệ số sử
dụng thức ăn còn cao.
Năm 2001, người dân Phú n cũng tiến hành ni cá chình trong lồng trên
sơng, thời kỳ cao điểm có trên 200 lồng. Đối tượng cá chình được ni gồm 2 lồi
cá là cá chình Hoa (A. marmorata), cá chình Mun (A.bicolor pacifica). Tuy nhiên
do nắng hạn kéo dài cá bị chết hàng loạt làm thiệt hại lớn về kinh tế nên đến tháng
12 năm 2001 Phú Yên chỉ còn khoảng 20 – 30 lồng nuôi. Ở Huế trại cá Cư Chánh

đã nuôi thử nghiệm trong bể xi măng.
Hiện nay các khu vực nuôi cá chình trọng điểm như Bình Định, Khánh Hịa,
Tiền Giang, Phú n. Người dân ni với các hình thức là nuôi trong bể xi măng và
nuôi trong ao đất. Nếu nuôi trong ao đất, số lượng cá thả lúc đầu là 120.000150.000 con/ha, cỡ từ 10 - 15 g/con. Lượng thức ăn hang ngày bằng 3% trọng lượng
cá trong ao. Nuôi trong ao đất không cần phân cỡ như trong bể xây, năng suất trung
bình là 20 - 25 tấn/ha,với giá thị trường là 250.000 - 320.000 đồng/kg.
Gần đây, người dân cũng áp dụng hình thức ni trong bể xi măng hoặc trong
bể xây bằng gạch với điều kiện: phải có dịng nước chảy trong ao, phải ni bằng
thức ăn cơng nghiệp chế biến riêng cho cá chình, phải được chăm sóc chu đáo, mật
độ 20 - 25 (con/m2), mật độ cao 300 - 350 (con/m2). Đảm bảo được các chỉ tiêu
trên, năng suất có thể đạt được 30 - 35 (tấn/ha ) (tức 3 - 4,5 kg/m2) năng suất cao có
thể đạt được 105 - 120 (tấn/ha ) (tức 10,5 - 12 kg/m2).
Vì sản lượng, năng suất và giá trị sản lượng cao mà cá chình hiện nay đang là
một đối tượng thu hút được sự quan tâm của người nuôi và các nhà nghiên cứu.
5. KHOA HỌC THUẦN DƯỠNG MỘT SỐ LOÀI THỦY SẢN
5.1. Cơ sở khoa học chung của vấn đề thuần hóa thủy sinh vật
5.1.1. Tính mềm dẻo
Trong q trình tiến hóa, tính mềm dẻo của sinh vật được giới hạn bởi chọn
lọc tự nhiên và thu được đặc tính định hướng các phản xạ thích nghi của các hệ
thống tổ chức cao.

21


Mức độ tổ chức của chất sống càng thấp thì tính mềm dẻo của nó càng lớn và
càng có khả năng chịu được những thay đổi của môi trường.
Những cấu trúc mơ và các chất được hình thành trong đó có tính mềm dẻo sinh
lý và sức chịu đựng những tác động của mơi trường bên ngồi lớn hơn so với cơ thể
nguyên vẹn. Hiện nay chúng ta chưa hoàn toàn sử dụng được các khả năng của cơ
thể khi đưa chúng vào những điều kiện mới. Nhiệm vụ đặt ra của chúng ta là phải

tìm những phương pháp tác động vào các q trình sinh lý và các mơ để tăng khả
năng thích ứng của cơ thể với điều kiện sống mới.
Trong q trình tiến hố, sự chọn lọc đã kìm hãm tính mềm dẻo của cá thể và
do đó cơ thể ngun vẹn có tính mềm dẻo thấp hơn so với từng thành phần của nó,
nhưng cơ thể vẫn là vật mang những tính chất của chất sống.
Tính mềm dẻo vẫn mang tính chất di truyền chung của lồi.
Những cá thể của từng lồi có khả năng chịu được những biến đổi của môi
trường sống trong một giới hạn nào đó, và thích nghi với những thay đổi đó. Mức
độ thích nghi của cá thể do tính mềm dẻo tạo ra và bị giới hạn chủ yếu bởi đặc tính
di truyền của lồi, cịn những phản ứng của cá thể bị giới hạn bởi tính mềm dẻo sinh
lý của chúng cũng như bởi tính chất và liều lượng gây phản ứng.
5.1.2. Tính thích nghi của cá thể
Tính thích nghi của cá thể trước tiên phụ thuộc vào nguồn gốc và tính bảo thủ
di truyền của chúng, phụ thuộc vào tính mềm dẻo sinh lý, vào giai đoạn phát triển
và đặc tính của chất gây phản ứng
+ Thích nghi độ muối:
Nhắc đến thuỷ sinh vật nước ngọt người ta thường nghĩ rằng chúng chỉ sống
được trong nước ngọt với độ muối 0 - 0,5 ‰. Trong thực tế, nhiều lồi nước ngọt có
khả năng chịu được sự dao động rất lớn của độ muối: Cá chép chịu được trong giới
hạn 0 - 12‰, ếch trong khoảng 0 - 5‰, lươn đồng chịu được trong giới hạn 0-6‰.
+ Thích nghi nhiệt độ:
Những thích nghi này hết sức rộng rãi và được thể hiện trong sự thay đổi
cường độ diễn biến các quá trình sinh lý, tốc độ các phản ứng tập tính, cũng như
trong sự thay đổi nhiều đặc tính sinh học: tốc độ lớn, tốc độ thành thục, sức sinh sản
và cuối cùng được thể hiện trong sức sống chung của các cá thể.

22


Một số lồi dù hẹp nhiệt đến đâu vẫn có khả năng chịu được những dao động

đáng kể của nhiệt độ môi trường. Các cá thể động vật biến nhiệt có khả năng quen
khí hậu trong những giới hạn rộng lớn của nhiệt độ, nhưng chúng rất nhạy cảm với
những biến đổi nhiệt đột ngột. Đặc biệt nguy hiểm là sự tăng đột ngột của nhiệt độ
trong môi trường sống.
+ Phản ứng của cá thể đối với liều lượng và phương thức tác động của tác
nhân gây phản ứng:
Tác động trực tiếp của các thành phần và các tác nhân của môi trường gây lên
sự trả lời trực tiếp - phản ứng của cơ thể. Phản ứng phụ thuộc vào tính mềm dẻo của
cá thể, vào liều lượng của tác nhân gây phản ứng, vào tính đột ngột và thời gian tác
động. Ví dụ những thay đổi quá đột ngột trong mơi trường sống có thể gây nên phản
ứng tiêu cực của cơ thể, và thậm chí làm cho cơ thể bị chết, trong khi đó sự thay
đổi chậm và từ từ về liều lượng của các tác nhân gây phản ứng cho phép cơ thể làm
quen dần và sống được một thời gian trong những điều kiệm tới hạn.
+ Thích nghi của cá thể với những giá trị cực đoan của các thành phần và các
tác nhân của môi trường:
Khi chuyển thực vật và động vật đến những điều kiện khí hậu mới và miền
mới rất có thể xảy ra trường hợp các giá trị cực đoan của các yếu tố môi trường:
nhiệt độ, độ muối, pH. . . sẽ cản trở sự sống còn của sinh vật.
5.2. Thực tiễn thuần dưỡng một số đối tương thuỷ sản
5.2.1. Cá Chình
Cá chình giống Anguilla là đối tượng rất được quan tâm ở Nhật Bản; Trung
Quốc, Đài Loan... Nhưng ở Việt Nam thì đây là một đối tượng cịn khá mới mẻ.
Năm 1935 đã có những nghiên cứu đầu tiên về cá chình khi thấy sự có mặt của
chúng ở Sơng Hồng. Một vài năm gần đây bắt đầu có nhiều nghiên cứu về thuần
dưỡng, ni và sinh sản cá chình, tuy nhiên kết quả cũng không đạt được nhiều
Theo kết quả báo cáo của Nguyễn Phi Nam (2001), cá chình khai thác tự nhiên
trước khi đưa vào nuôi và sử dụng thức ăn chế biến phải trải qua thời gian tập luyện
để chuyển dần tập tính bắt mồi, từ bắt mồi động sang bắt mồi tĩnh từ thức ăn là ăn
tơm cá tươi sang thức ăn cơng nghiệp. Cá có kích thước càng nhỏ thì càng dễ thuần
hố.


23


5.2.2. Cá lóc
Cá lóc vốn là lồi thích ăn mồi sống nên thức ăn thường dùng là cá tạp, cá con
hoặc nuôi cá rô phi sinh sản trong ao nuôi cá lóc để tạo thức ăn. Vì vậy nếu muốn
cho cá ăn thức ăn chế biến phải có thời gian thuần dưỡng.
Thức ăn chế biến phải đảm bảo đạm 30 - 35%, thường gồm cá tạp xay nhuyễn
78%, cám gạo 15% và rau xanh 8%. Rau xanh và cám nấu chín làm nhuyễn trộn với
cá tạp tạo thành viên. Phải tiến hành luyện cho cá có phản xạ đớp mồi. Thời gian
đầu, nên thả từ từ thức ăn để cá có phản xạ đớp mồi, ngày cho ăn 4-5 lần, tới khi cá
đã quen thì cho ăn 2 lần/ngày .
5.2.3. Cá Bống Tượng.
Cá Bống Tượng có tập tính ăn động vật là chủ yếu. Sau khi hết nỗn hồng, cá
chuyển sang ăn sinh vật phù du, ngày thứ 10 bắt đầu ăn giáp xác cỡ nhỏ: Monia,
Daphia, ấu trùng Artemia... từ ngày 20 bắt đầu ăn trùn chỉ.
Trong giai đoạn ương từ cá hương lên cá giống phải tập cho cá con chuyển
dần từ ăn trùn chỉ sang ăn cá tạp.
Tháng đầu: cá xay 30%, trùn chỉ 70%, cho ăn bằng 10% trọng lượng thân.
Tháng thứ hai: cá xay 50%, trùn chỉ 50%, cho ăn 8-9% trọng lượng thân.
Tháng thứ ba: 6-7% trọng lượng thân trong đó cá xay 70%, trùn chỉ 30%.
Tháng thứ tư: 5% trọng lượng thân trong đó cá xay 85%, trùn chỉ 15%.
Từ tháng thứ năm cho ăn hoàn toàn bằng cá. Và muốn cho cá ăn thức ăn chế
biến thì phải tiếp tục luyện tập cho cá.

24


PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tên khoa học: Anguilla marmorata (Quoy và Gaimard, 1824)
Tên tiếng Việt: cá chình Hoa, cá chình Bơng
Tên tiếng Anh: Giant mottled eel
2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Từ 10 tháng 01 năm 2009 đến 12 tháng 5 năm 2009
- Địa điểm nghiên cứu: Trại sản xuất giống cá nước ngọt Đại Phương - Đại
Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Thuần dưỡng cá trước khi đưa vào ương nuôi.
- Theo dõi các yếu tố môi trường nước trong các hình thức ương khác nhau (ao
đất, giai lưới và bể composite)
- Theo dõi tốc độ tăng trưởng của cá chình ở các loại thức ăn khác nhau.
- Đánh giá tỷ lệ sống của cá chình giống trong các lơ thí nghiệm.
- Đánh giá hiệu quả của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm
- Theo dõi một số bệnh gặp phải trong quá trình ương ni cá chình giống
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp thuần dưỡng cá chình trước khi ương ni
Cá chình khai thác tự nhiên trước khi đưa vào ương nuôi và sử dụng thức ăn
chế biến cần trải qua thời gian tập luyện để chuyển dần tập tính bắt mồi, từ bắt mồi
động sang bắt mồi tĩnh, từ thức ăn là ăn tôm cá tươi sang thức ăn công nghiệp hay
chế biến.
Vì vậy trước khi tiến hành thí nghiệm ương ni, cá chình giống được thuần
dưỡng 15 ngày trong bể composite. Dựa trên cơ sở khoa học của việc thuần hóa các
đối tượng thủy sản, tiến trình thuần dưỡng được đưa ra như sau:

25



×