Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI CỦA CÔNG TY PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.45 KB, 32 trang )

CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI CỦA CÔNG TY PHÂN LÂN
NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN
I. MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc
Tổng công ty Hoá chất Việt Nam. Công ty có trụ sở tại đường 70, thị trấn Văn
Điển, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 1960, nhằm phục vụ chiến lược phát triển kinh tế dựa trên sự phát triển
nông nghiệp, nhà máy Phân lân Văn Điển (công ty Phân lân nung chảy Văn
Điển ngày nay) được thành lập với chức năng nhiệm vụ chính là sản xuất phân
lân phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Thiết bị sản xuất phân lân nung chảy của
công ty do Trung Quốc tài trợ, bao gồm hai lò cao có công xuất là 2 vạn
tấn/năm.
Năm 1993, công ty được thành lập lại theo quyết định số 61 QĐ-TCNSĐT ngày
13/5/1993 do bộ trưởng Trần Văn Lum ký và được đổi tên thành công ty Phân
lân nung chảy Văn Điển theo quyết định số 309 QĐ-TCNSĐT ngày 13/5/1993.
Số vốn nhà nước giao cho công ty được hạch toán theo thời điểm này là 3.5 tỷ
đồng.
Đến nay công ty đã từng bước cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm phân lân nung chảy (PLNC). Bên cạnh đó công ty còn sản xuất
thêm một số phân hỗn hợp NPK-Đa yếu tố (NPK-ĐYT). Công ty đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam.
2. Cơ cấu tổ chức của công ty
Trong những năm qua, công ty Phân lân nung chảy Văn Điển đã thực hiện cải
tiến tổ chức, sắp xếp lại sản xuất bố trí lại lao động. Bộ máy của công ty từ 8
phòng ban xuống còn ba; 7 phân xưởng sắp xếp lại thành 4. Tỷ lệ gián tiếp từ
4% giảm xuống còn 4,8%. Áp dụng cơ chế một cấp trưởng ở tất cả các bộ phận .
Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức của Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
1
1
GIÁM ĐỐC


Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất

Phó giám đốc kinh tế thị trường
Phó giám đốc đời sống
Phòng kỹ thuật
Phòng kinh tế
Phòng tổ chức
Phân xưởng nguyên liệu
Phân xưởng lò cao
Phân xưởng sấy nghiền
Phân xưởng thành phẩm
2
2
Nguồn: Phòng kinh tế
Chức năng của các bộ phận trong công ty :
1. Giám đốc: là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước nhà nước về mọi mặt
hoạt động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm về việc làm, đời sống vật
chất tinh thần và mọi quyền lợi của nhân viên trong công ty. Giám đốc có
quyền cao nhất ban hành các quyết định và điều hành chung mọi hoạt động
kinh doanh của công ty, đề ra phương hướng phát triển. Giám đốc trực tiếp
phụ trách việc kinh doanh, tổ chức cán bộ, quyết định phương thức phân phối
thu nhập, mức dự trữ, mức đầu tư, quy mô đầu tư. Ở công ty Phân lân nung
chảy Văn Điển, giám đốc uỷ quyền cho các phó giám đốc, các phòng ban phụ
trách và tham mưu theo chức năng chuyên môn .
2. Phó giám đốc: là người giúp việc cho giám đốc, có trách nhiệm hoàn thành
nhiệm vụ được giám đốc giao và chịu trách nhiệm trước giám đốc về quá
trình chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ đó, có trách nhiệm thay thế giám đốc
(nếu được giao phó) khi giám đốc đi vắng và tham gia với giám đốc trong
công việc quản lý và trong quá trình chỉ đạo đơn vị. Trong công ty có ba phó
giám đốc: phó giám đốc kỹ thuật, phó giám đốc kinh tế thị trường và phó

giám đốc đời sống.
3. Phòng kỹ thuật: chịu trách nhiệm quản lý và tham mưu trong các lĩnh vực: kỹ
thuật sản xuất, công nghệ, an toàn lao động, nghiên cứu khoa học, kiểm tra
chất lượng và điều hành sản xuất.
4. Phòng kinh tế: tham mưu cho giám đốc về việc kinh doanh của công ty, về
chiến lược, chính sách kinh doanh, điều tra nghiên cứu thị trường, quan hệ
quốc tế. Đảm bảo cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, lập kế hoạch
sản xuất cho công ty. Thực hiện các nghiệp vụ kế toán, đề xuất ban hành các
quyết định marketing.
5. Phòng tổ chức hành chính: do phó giám đốc đời sống trực tiếp làm trưởng
phòng, chịu trách nhiệm quản lý và tham gia trong các lĩnh vực: tổ chức cán
bộ, tiền lương, đời sống, văn phòng, bảo vệ…
6. Phân xưởng nguyên liệu: vận tải bốc dỡ nguyên liệu, gia công các loại
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất.
3
3
7. Phân xưởng lò cao: là phân xưởng chính của Công ty, quyết định quá trình
sản xuất phân lân nung chảy.
8. Phân xưởng sấy nghiền: sấy nghiền bán thành phẩm từ phân xưởng lò cao
thành sản phẩm cuối cùng, sản xuất phân tổng hợp NPK-ĐYT, xi măng, quản
lý các kho sản phẩm và bốc xếp sản phẩm.
9. Phân xưởng cơ điện: cung cấp điện nước cho sản xuất, chế tạo phụ tùng, sửa
chữa lắp đặt máy móc thiết bị, xây dựng cơ bản.
3. Tình hình sản xuất kinh doanh của
công ty
3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh
của công ty.
3.1.1 Môi trường văn hoá xã hội.
Việt Nam là một nước phát triển kinh tế dựa trên nền tảng phát triển nông
nghiệp là chủ yếu. Ngành nông nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời. Nó mang

tính chất kế thừa sâu sắc kỹ thuật canh tác gieo trồng từ đời nọ sang đời kia qua
hàng thế kỷ với tính bảo thủ cao và khó thay đổi.
Tục ngữ Việt Nam có câu “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Như vậy,
ông cha ta đã khẳng định vai trò có tính chất quyết định của phân bón đối với
cây trồng. Tuy nhiên, nông dân nước ta mới quen thuộc với các loại phân bón
hữu cơ. Vì thế, để phân bón vô cơ (phân bón hoá học) được bà con nông dân
chấp nhận là rất khó khăn. Điều này còn khó khăn hơn đối với sản phẩm phân
lân nung chảy bởi loại phân bón này có đặc tính là không tan trong nước mà chỉ
tan trong môi trường axit yếu do rễ cây tiết ra. Cây trồng không thể hấp thụ ngay
lập tức mà hấp thụ dần trong quá trình phát triển. Điều này cũng có ưu điểm là
phân lân nung chảy sẽ không bị rửa trôi và cung cấp chất dinh dưỡng cho toàn
bộ quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Nếu cây trồng hấp thụ chưa hết thì
lượng dư thừa vẫn nằm lại trong đất cho vụ sau.
Tuy nhiên, phần lớn bà con nông dân không hiểu rõ. Không thấy được hiệu quả
tức thời của phân lân nung chảy, họ coi đó là loại phân “chậm bốc”, khó tiêu.
Một thời kỳ dài, phân lân nung chảy do công ty sản xuất chỉ chất đầy trong kho.
4
4
Để sản phẩm của công ty được sử dụng rộng rãi như ngày nay là một nỗ lực lớn.
Tuy nhiên, khi người nông dân đã tin dùng sản phẩm của Công ty, họ sẽ trở
thành những khách hàng thường xuyên và trung thành.
3.1.2 Môi trường tự nhiên
Là công ty sản xuất phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp, thị trường chủ lực
của công ty là phân bón cho lúa. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp nói chung
và đối với cây lúa nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và khí
hậu. Sự thay đổi thời tiết hàng năm theo mùa có tác động không nhỏ tới đời
sống nông nghiệp.
Bởi vậy, đặc trưng của sản xuất kinh doanh phân bón là tiêu thụ có tính mùa vụ.
Đối với cây lúa có hai vụ gieo trồng chính là vụ đông xuân từ tháng 12 đến
tháng 4 và vụ hè thu từ tháng 6 đến cuối tháng 10. Thời vụ tiêu thụ phân bón sẽ

bắt đầu sớm hơn một tháng và kết thúc trước khi thu hoạch một tháng. Như vậy
sản phẩm của công ty tiêu thụ mạnh vào các tháng 12,1,2 đối với vụ đông xuân
và các tháng 5,6,7 đối với vụ hè thu. Các tháng còn lại, công ty tổ chức sản xuất
để dự trữ cho thời kỳ mùa vụ.
Những năm gần đây do điều kiện thời tiết khí hậu biến đổi bất thường ảnh
hưởng rất lớn tới kết qủa kinh doanh của công ty. Khu vực đồng bằng sông Cửu
Long vốn là thị trường chính của công ty thời gian qua gặp phải những đợt lũ,
lụt kéo dài. Nông dân Nam Bộ đã chuyển hẳn từ cấy lúa ba vụ sang hai vụ. Bên
cạnh đó một số lượng lớn diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang nuôi
trồng thuỷ sản hoặc phát triển công nghiệp, dịch vụ thương mại dẫn đến nhu cầu
sử dụng phân bón cho lúa từ năm 2001 giảm còn khoảng 35% so với năm 2000.
Một số thời kỳ trong năm có độ ẩm cao, trong khi mặt hàng phân bón rất khó
bảo quản, dễ chảy nước nhất là các loại sản phẩm phân NPK-ĐYT có chứa đạm.
Vì vậy công ty không thể vận hành hết công suất trong thời kỳ không phải mùa
vụ dẫn tới lãng phí lớn. Hơn nữa, nếu sản phẩm của công ty không tiêu thụ được
thì chi phí dự trữ rất lớn. Điều này đòi hỏi công ty phải xây dựng được kế hoạch
sản xuất kinh doanh hợp lý.
Công ty có một thuận lợi là nguồn nguyên liệu chính để sản xuất phân lân là
quặng apatit. Mà loại quặng này ở châu Á chỉ phân bố ở hai nước là Việt Nam
và Trung Quốc. Đây là một lợi thế đối với mặt hàng phân lân nung chảy của
5
5
công ty. Tuy nhiên, loại quặng này chỉ tập trung ở khu vực miền núi phía bắc,
điều kiện vận chuyển khó khăn nên chi phí vận chuyển chiếm tỷ trọng khá lớn
trong giá thành sản phẩm.
6
6
3.1.3 Thị trường và đối thủ cạnh tranh
Thị trường
Khu vực Nam trung bộ và Nam bộ là vùng trồng lúa và cây công nghiệp lớn

nhất nước ta. Vào vụ hè thu, một diện tích lớn đất trồng của khu vực này bị ngập
nước nên bị nhiễm phèn với các mức độ khác nhau. Để khử độ chua của đất cần
bón loại phân bón có tính kiềm như PLNC. Do vậy, khu vực này là thị trường
tiêu thụ lớn cuả công ty.
Tuy nhiên, gần đây, do giá nông sản xuất khẩu giảm dẫn tới nhu cầu PLNC ở
khu vực này giảm mạnh. Công ty từng bước phát triển thị trường tại miền Bắc.
Sản lượng tiệu thụ PLNC của công ty tại thị trường Nam bộ và Nam Trung bộ
vào năm 2001 chỉ còn 46,25% so với năm 2000. Còn ở thị trường miền Bắc,
công ty vẫn giữ được mức sản lượng tiêu thụ ổn định. Đối với sản phẩm phân
tổng hợp NPK-ĐYT (chỉ tiêu thụ ở miền Bắc) cũng vậy. Vì thế thị trường miền
bắc chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và có xu hướng trở thành thị trường chính của
công ty.
Đối thủ cạnh tranh
Do đặc điểm phân bố quặng Apatít ở nước ta tập trung ở vùng miền núi phía Bắc
nên các đơn vị sản xuất PLNC cũng phân bố tập trung ở vùng này. Vì vậy trước
đây nhằm tránh sự cạnh tranh với các đơn vị này, công ty tập trung tiêu thụ ở thị
trường chính là miền Nam. Tuy nhiên, giờ đây sản lượng tiêu thụ ở miền Nam
giảm sút rất lớn khiến công ty phải phát triển thị trường ở miền Bắc. Điều này
dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt hơn trên thị trường này.
Những năm gần đây, sản lượng xuất khẩu gạo của nước ta tăng lên với mức giá
cũng ngày càng tăng do chất lượng gạo được cải thiện. Do vậy, bà con nông dân
đầu tư khá nhiều vào phân bón. Tuy nhiên, gạo là một loại hàng hoá thiết yếu
nhưng nhu cầu tiêu thụ gạo cũng có giới hạn. Thị trường gạo trên thế giới đã bão
hoà. Hơn nữa, mặc dù chất lượng gạo nước ta có tăng lên nhưng khó cạnh tranh
với các sản phẩm chất lượng cao của Thái Lan. Bởi vậy, nhà nước ta đã có chủ
trương đa dạng hoá cơ cấu cây trồng, chuyển trồng lúa từ 3 vụ sang chỉ còn 2 vụ
trong năm. Trước tình hình trên, công ty PLNCVĐ cũng nghiên cứu để đa dạng
hoá danh mục sản phẩm của mình. Ngoài sản phẩm chính là PLNC còn có các
loại phân tổng hợp NPK-ĐYT bón cho nhiều loại cây. Trên thị trường tiêu thụ
7

7
mỗi loại sản phẩm này, công ty có các đối thủ cạnh tranh khác nhau với mức độ
cạnh tranh cũng khác nhau.
 Đối với sản phẩm PLNC.
Trên thị trường miền Bắc, đối thủ cạnh tranh trực tiếp với công ty là công ty
Phân lân Ninh Bình. Thị trường chính của công ty này là khu vực miền bắc.
Công suất mỗi năm của công ty là 18 vạn tấn/năm. Tuy nhiên, chất lượng sản
phẩm PLNC của công ty Phân lân Ninh Bình thấp hơn so với sản phẩm của công
ty nên sức cạnh tranh thấp.
Một đối thủ cạnh tranh lớn của công ty là công ty Supe phốt phát và hoá chất
Lâm Thao. Công ty này sản xuất phân supe lân với công suất 75 vạn tấn/năm.
Phân supe lân cũng là một loại phân bón chứa lân nhưng đươc sản xuất theo quy
trình công nghệ khác với PLNC. Do vậy tính chất của hai loại phân bón này
cũng khác nhau.
Phân lân nung chảy được sản xuất bằng cách nung các loại quặng có chứa lân
(quặng apatít) ở nhiệt độ cao cho tới khi nóng chảy nhằm phá vỡ mạng tinh thể
bền vững khó tan thành mạng tinh thể vô định hình dễ tan mà cây trồng có thể
hấp thụ được. Ngoài thành phần lân, PLNC còn có các yếu tố trung lượng, vi
lượng như canxi, si líc, lưu huỳnh.. cũng rất cần thiết đối với cây trồng.
Phân supe lân cũng được sản xuất từ quặng có chứa lân nhưng được ủ bằng
dung dịch axit đặc để phá vỡ cấu trúc bền vững. Dung dịch axit này cũng làm
mất đi các yếu tố trung lượng, vi lượng. Hơn nữa, một phần axit còn dư trong
supe lân làm cho loại phân này mang tính chua.
Theo nghiên cứu thì 70% đất trồng ở Việt Nam là đất chua nên phù hợp với bón
phân lân nung chảy hơn. Tuy nhiên, phân supe lân dễ tan hơn, được cây hấp thụ
dễ dàng nên tác dụng của việc bón phân được thể hiện ngay. Do vậy, trên thị
trường miền Bắc, sản phẩm phân supe lân được nông dân ưa thích hơn.
Bên cạnh các loại sản phẩm phân bón chứa lân trong nước, còn có rất nhiều loại
nhập khẩu. Từ 01/04/2000, Nhà nước cho phép nhập khẩu phân lân tự do. Một
số lượng lớn supe lân từ Trung Quốc tràn sang chiếm lĩnh thị trường. Các cơ sở

sản xuất phân tổng hợp NPK-ĐYT trước đây đang sử dụng phân lân sản xuất
trong nước nay lại chuyển sang sử dụng supe lân Trung quốc. Qua khảo sát cho
thấy, trình độ công nghệ của Việt nam không lạc hậu nhưng do chính sách giá cả
8
8
của nhà nước Trung quốc nên giá supe lân tại thị trường Việt nam thấp (Trung
quốc thi hành chính sách định giá đầu vào cho sản xuất phân bón, cụ thể là giá
điện và giá nguyên liệu chỉ bằng một nửa của Việt nam).
Trên thị trường Việt nam hiện nay, còn có các loại phân bón nhập khẩu từ
Indonesia, Trung quốc... chứa lân có hàm lượng lân cao (46%) là DAP (diamoni
photphat). Đây là loại phân bón có chất lượng cao được bán với giá rẻ là một
thách thức rất lớn đối với công ty.
 Đối với sản phẩm phân tổng hợp NPK-ĐYT :
Phân tổng hợp NPK-ĐYT là một loại phân bón tổng hợp cung cấp các yếu tố
cần thiết cho cây trồng, bao gồm: đạm (nitơ), lân (phôtphat) và kali. Ba thành
phần này được pha trộn theo tỉ lệ thích hợp với mỗi loại cây và với mỗi thời kỳ
phát triển của cây nhằm cung cấp cân bằng lượng dinh dưỡng cân bằng cho cây.
Do tính chất cạnh tranh trên thị trường sản phẩm, phân bón chứa lân ngày càng
cao. Công ty PLNCVĐ từng bước đa dạng hóa danh mục sản phẩm. Bên cạnh
loại phân tổng hợp NPK-ĐYT 5.10.3 truyền thống (bón cho mọi loại cây), công
ty đã kết hợp với các viện nghiên cứu cây trồng Việt Nam tìm ra các công thức
mới thích hợp với từng loại cây trồng, như phân bón cho ngô, mía, sắn, khoai
tây, chè, cà phê, dâu tằm và cây ăn quả. Tỉ lệ các loại phân tổng hợp NPK-ĐYT
ngày càng cao trong tổng giá trị sản phẩm của công ty.
Hiện nay, trên cả nước có khoảng 13 đơn vị sản xuất phân tổng hợp NPK-ĐYT
với công suất 2,7 triệu tấn/năm. Lượng phân tổng hợp NPK-ĐYT nhập khẩu vào
khoảng 250.000 tấn trong khi nhu cầu của thị trường nội địa chỉ khoảng 1,5 triệu
tấn. Như vậy mức độ cạnh tranh trong thị trường tiêu thụ sản phẩm phân tổng
hợp NPK-ĐYT không nhỏ.
Để có thể tồn tại và phát triển trong thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như

vậy, công ty cần phải đề ra các biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ bảo vệ thị
trường truyền thống và phát triển ra các thị trường mới.
3.1.4 Những nhân tố thuộc nội bộ công ty
Công ty có ưu thế lớn về nguồn vốn kinh doanh. Từ nguồn vốn được giao ban
đầu là 3,5 tỷ đồng, chưa đầy mười năm công ty đã phát triển lên tới 60 tỷ đồng.
Trong mười năm qua công ty luôn tự chủ về mặt tài chính, tự dầu tư cho các dự
án cải tiến, thay thế bổ sung trang thiết bị máy móc của công ty.
9
9
Các cán bộ lãnh đạo của Công ty luôn năng nổ tìm tòi, thiết kế cải tiến trang
thiết bị, máy móc đưa công suất của toàn Công ty tăng lên rất nhanh qua các
năm. Bên cạnh đó việc nghiên cứu tìm kiếm thị trường cho sản phẩm đầu ra
cũng luôn được đưa lên hàng đâù. Công ty còn có một đội ngũ cán bộ công nhân
viên cần cù, có tinh thần trách nhiệm, có tính kỷ luật cao cũng là một nguồn lực
quý giá của công ty.
3.2 Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
Từ công nghệ sản xuất phân lân nung chảy ban đầu gồm hai lò cao với công suất
2 vạn tấn/năm do Trung quốc tài trợ, công ty PLNCVĐ đã đầu tư cải tạo nâng
cấp xây dựng mới. Hiện nay công ty vận hành với 3 lò cao có công suất 30 vạn
tấn/năm, do vậy sản lượng PLNC sản xuất ra trong thời gian qua có bước nhảy
vọt.
Bên cạnh việc đầu tư vào công nghệ, công ty cũng chú trọng tới việc mở rộng
thị trường thông qua việc thực hiện tốt công tác thị trường. Trong hơn 10 năm
qua, công ty đã đầu tư hơn 600 tấn phân bón cho các trương trình thực nghiệm
của 46 tỉnh. Công ty cũng đã tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo khoa học, trong
đó có nhiều cuộc hội thảo đầu bờ hướng dẫn bà con nông dân cách sử dụng phân
bón và giúp họ thấy rõ tác dụng của PLNC. Thay vì ấn tượng về một thứ phân
bón “rắn như thủy tinh” có tác dụng chậm, bà con nông dân đã bắt đầu ưa
chuộng thứ phân bón có hiệu quả tổng hợp nhiều mặt.
Nhờ sự kết hợp đầu tư trên cả phương diện sản xuất và tiêu thụ, trong môi

trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công ty vẫn giữ được mức lợi nhuận tương
đối ổn định mặc dù và doanh thu giảm đáng kể.
Một số chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của công
ty được thể hiện qua bảng sau:
10
10
Bảng 3: một số chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty
Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001
Doanh thu tỷ đồng 142,297 163,616 111,625
Lợi nhuận sau thuế tỷ đồng 10.885 15.002 10.125
ROE (lợi nhuận sau thuế/
vốn chủ sở hữu)
% 21,24 24,95 16,52
Thu nhập bình quân của
CNV
Ngàn đồng 1.472 1.908 1.600
Khả năng thanh toán nhanh
(TSLĐ-dự trữ/nợ ngắn hạn)
Lần 2,02 1,83 1,87
Khả năng thanh toán tức
thời (tiền mặt/ nợ ngắn hạn)
Lần 0,71 0,042 0,92
Hệ số nợ Lần 0,28 0,46 0,28
Kỳ thu tiền bình quân Ngày 102 143 46
Những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty rất phát triển,
mức lương bình quân của công nhân viên khá cao so với mặt bằng Thu nhập ở
Việt Nam. Năm 2000 mặc dù bắt đầu gặp một số yếu tố bất lợi nhưng giá nông
sản xuất khẩu của Việt nam đang ở mức cao, nông dân đầu tư vào phân bón
nhiều. Bên cạnh đó, công ty còn chú trọng đến các giải pháp kỹ thuật để giảm
giá thành sản phẩm nên mức lợi nhuận của công ty tăng đáng kể (tăng 37% so

với năm 1999), lương bình quân của công nhân vào thời gian này đạt mức cao
nhất.
Năm 2001, công ty gặp nhiều khó khăn như giá nông sản giảm, lũ lụt kéo dài ở
Nam và Trung bộ cùng với sự thay đổi cơ cấu cây trồng dẫn tới doanh thu và lợi
nhuận của công ty giảm sút.
Về khả năng thanh toán tức thời, con số này được tính vào thời điểm cuối năm là
lúc công ty đang tăng cường sản xuất để dự trữ cho vụ đông xuân nhưng chưa
thu được tiền bán hàng. Vì vậy, khả năng thanh toán tức thời ở mức thấp. Đây
11
11
cũng là đặc trưng chung của ngành sản xuất và kinh doanh phân bón. Tuy nhiên,
tỉ lệ về khả năng thanh toán tức thời của công ty vào năm 2000 ở mức quá thấp
dẫn đến rủi ro cao.
Hệ số nợ vào thời gian này cũng khá cao do trong cơ cấu nợ của công ty chỉ có
nợ ngắn hạn chủ yếu là nợ nhà cung cấp. Tuy nhiên, công ty cũng đạt được thỏa
thuận với các nhà cung cấp thời hạn mua chịu khá dài (1-2 tháng). Khi đó công
ty cũng đã thu được tiền bán hàng. Như vậy con số này cũng không đáng lo
ngại.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÍN DỤNGTẠI CÔNG TY PHÂN
LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN
1. Sự cần thiết của việc thực hiện chính
sách TDTM đối với Công ty Phân lân
nung chảy Văn Điển
Các cán bộ lãnh đạo của Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển từ lâu đã coi
chính sách TDTM là một điều tất yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty do một số nguyên nhân sau:
1.1 Đặc điểm quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty
Theo thiết kế, công nghệ sản xuất phân lân nung chảy của Công ty đạt công suất
tối đa là 300.000 tấn/năm. Tuy nhiên, trong năm 2001, Công ty mới chỉ sản xuất
được 105.660 tấn tức là mới đạt được 35,22% công suất thiết kế. Như vậy, nếu

Công ty đẩy mạnh tiêu thụ, từ đó tăng hiệu suất của tài sản cố định sẽ giảm giá
thành sản phẩm xuống đáng kể.
Bảng 4:Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001
Tài sản cố định (TSCĐ) Triệu đồng 9.792 8.572 7.084 5.864
Doanh thu Triệu đồng 126.711 142.927 163.616 111.265
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
(doanh thu/TSCĐ)
Lần 12,90 16,67 23,09 18,97
Nguồn: phòng kinh tế
12
12
Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chịu tác động rất lớn bởi yếu tố mùa
vụ. Vào thời kỳ mùa vụ, Công ty mặc dù sản xuất hết công suất nhưng có lúc
vẫn “cháy kho”. Vấn đề này đặt ra yêu cầu đối với Công ty là phải dự trữ một
khối lượng lớn để chuẩn bị cho mùa vụ. Do vậy, chi phí dự trữ bảo quản của
công ty khá lớn.
Đối với sản phẩm PLNC, công ty dự trữ dưới hai dạng: thành phẩm và bán
thành phẩm. Bán thành phẩm có dạng hạt, khi được đưa vào hệ thống máy sấy
khô, nghiền nhỏ thu được thành phẩm PLNC có dạng mịn rồi đóng bao. Trong
thời kỳ mùa vụ, bán thành phẩm được đưa vào trực tiếp vào chế biến thành
phẩm và đem tiêu thụ. Tuy nhiên, vào lúc trái vụ, bán thành phẩm được chứa tại
các bãi ngoài trời, dễ bị cuốn trôi khi có mưa to. Lượng thành phẩm được đóng
bao và bảo quản trong kho. Tuy nhiên do tồn tại ở dạng mịn, nếu gặp nước,
PLNC sẽ bị vón cục làm giảm chất lượng sản phẩm.
Đối với phân bón tổng hợp đa yếu tố NPK, đây là loại phân tổng hợp từ nhiều
yếu tố trong đó có ba thành phần chính là đạm-lân- kali trong đó đạm là thành
phần rất dễ chảy nước, khó bảo quản ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Như vậy, chi phí đầu tư vào hàng dự trữ của Công ty khá lớn. Hơn nữa, Công ty
chỉ có ba kho chứa PLNC có sức chứa tối đa là 10.000 tấn và một kho chứa

phân bón tổng hợp ĐYT- NPK có sức chứa 4.000 tấn. Sức chứa này quá nhỏ so
với nhu cầu dự trữ và công suất của Công ty. Do vậy, để ổn định được sản xuất
và giảm chi phí đầu tư vào hàng dự trữ, công ty cần khuyến khích khách hàng
mua hàng để dự trữ trong đó việc cấp TDTM cho khách hàng là điều hết sức cần
thiết.
1.2 Đặc điểm khách hàng của công ty
Căn cứ vào đặc trưng của từng loại khách hàng, công ty có thể chia khách hàng
thành đối tượng chính là khách hàng là nông dân, mua hàng để phục vụ cho việc
trồng trọt, và khách hàng là các doanh nghiệp, cá nhân mua sản phẩm của công
ty nhằm mục đích sản xuất-kinh doanh. Đối với khách hàng là nông dân, họ có
mức thu nhập rất thấp. Do vậy, để tăng lượng hàng tiêu thụ, Công ty cần thực
hiện việc cấp TDTM cho các đối tượng này. Đối với các khách hàng là doanh
nghiệp và các cá nhân kinh doanh, họ thường ký hợp đồng mua hàng với khối
lượng lớn. Do đó, Công ty cũng chấp nhận cấp TDTM cho các doanh nghiệp
13
13

×