Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ - từ góc nhìn quản lý di sản văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.25 KB, 9 trang )

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

NGHỀ LÀM TRANH DÂN GIAN ĐƠNG HỒ TỪ GĨC NHÌN QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HĨA


NGUYỄN THỊ HẠNH*

Tóm tắt
Trên thế giới hiện có một số quan điểm khác nhau về bảo tồn di sản văn hóa. Dựa trên những phân
tích, đánh giá thực trạng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, bài viết chỉ ra rằng, định hướng phù hợp
hiện nay là vừa bảo tồn kế thừa, vừa bảo tồn phát triển, trong đó, Nhà nước khơng chỉ trao quyền tự
chủ cho cộng đồng, mà cịn có sự hỗ trợ tối đa bằng các thể chế, chính sách thiết thực. Hai mơ hình
quản lý di sản được đề xuất, bao gồm mơ hình đồng quản lý của Nhà nước và cộng đồng, doanh
nghiệp và mơ hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp, là những gợi
mở thiết thực giúp cho địa phương trong việc quản lý di sản, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của nghề làm tranh dân gian Đơng Hồ.
Từ khóa: Di sản văn hóa, bảo tồn, phát huy, quản lý di sản, tranh dân gian Đông Hồ, nghề thủ công
truyền thống
Abstract
There are some different perspectives around the world on preserving cultural heritage. Based
on the analysis and assessment of the real situation of Dong Ho folk painting craft, the article shows
that the current orientation is to both inheritance conservation and development conservation, in
which, the State not only gives autonomy to the community, but also makes the maximum support by
institutions and practical policies. The two proposed heritage management models, including the comanagement model of the State and the community, enterprises and the combined model (interwoven)
of management between the community, the State and enterprises, are practical suggestions to help
the locality in managing heritage, preserving and promoting the cultural values of Dong Ho folk
painting craft.
Keywords: Cultural heritage, conservation, promotion, heritage management, Dong Ho folk
paintings, traditional crafts


Đ

ông Hồ được biết đến là một trung
tâm sản xuất tranh dân gian, tranh
nghệ thuật từ lâu đời ở Việt Nam.
Làng tranh dân gian Đông Hồ thuộc xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách
trung tâm Hà Nội khoảng 35 km về phía Đơng.
Tranh Đơng Hồ nổi tiếng với loại hình nghệ
thuật tranh khắc gỗ và in ván nét, ván màu,
xuất hiện cách ngày nay khoảng hơn 5 thế kỷ
và đã tồn tại thực sự trong đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân ta. Nghề làm tranh
* ThS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam

10

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

dân gian Đông Hồ là một nghề thủ công đặc
biệt, không chỉ là lao động chân tay đơn thuần
mà còn là lao động nghệ thuật. Trải qua nhiều
giai đoạn lịch sử, nghề làm tranh ở Đơng Hồ
có nhiều biến động thăng trầm. Trước đây
nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng,
tất cả đều làm tranh. Do thị trường và công
nghệ phát triển nhanh, tranh dân gian Đông
Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước.
Đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng
nghề làm mã1. Hiện nay, chỉ cịn hai dịng họ

với hai đại gia đình vẫn theo nghề làm tranh là:
gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và gia


DI SẢN VĂN HĨA

đình cố nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam cùng các
con, cháu. Nghề tranh dân gian Đông Hồ đang
gặp nhiều khó khăn, thách thức về đầu ra cho
sản phẩm cũng như việc nối nghiệp, truyền
nghề cho thế hệ sau. Việc bảo tồn, duy trì và
phát triển nghề cổ truyền trước nguy cơ biến
mất là việc làm quan trọng, cấp thiết để góp
phần phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền
thống của cha ơng trong bối cảnh hiện nay.
1. Một số quan điểm bảo tồn, phát huy,
quản lý di sản
* Quan điểm về bảo tồn di sản
Trong lĩnh vực quản lý di sản hiện nay, học
giả Ashworth đã tổng kết từ thực tế bảo tồn di
sản ở nhiều nước trên thế giới thành 3 quan
điểm và tương ứng với nó là định hướng bảo
tồn di sản: quan điểm bảo tồn nguyên trạng,
quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa và quan
điểm bảo tồn phát triển [8, tr.79-82].
Quan điểm bảo tồn nguyên trạng: Dựa trên
quan điểm bảo tồn văn hóa vật thể của các
nhà bảo tàng học, quan điểm này cho rằng,
các sản phẩm của quá khứ nên được bảo tồn
nguyên vẹn như nó vốn có để tránh tình trạng

thế hệ hiện tại làm méo mó, biến dạng di sản.
Mỗi di sản chứa đựng những giá trị văn hóa xã hội nhất định mà khơng phải lúc nào thế hệ
hiện tại cũng có thể hiểu biết một cách cụ thể
để có thể phát huy những giá trị ấy một cách
thích hợp.
Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa: Bảo
tồn trên cơ sở kế thừa những giá trị độc đáo
của quá khứ là một quan điểm khá phổ biến
trong giới học giả hiện nay khi bàn đến di sản
nói chung, quản lý di sản nói riêng. Quan điểm
lý thuyết này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải
thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời
gian và không gian cụ thể. Khi tồn tại ở không
gian và thời gian hiện tại, di sản ấy cần được
phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù hợp với xã
hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì khơng
phù hợp với xã hội ấy.
Quan điểm bảo tồn - phát triển: Đây là quan
điểm hiện đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới
học thuật cũng như giới quản lý văn hóa ở
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

nhiều nước phát triển trên thế giới. Quan điểm
này không bận tâm với việc di sản nên bảo tồn
y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ
quá khứ mà đặt trọng tâm vào việc làm thế
nào để di sản sống và phát huy được tác dụng
trong đời sống đương đại. Hạt nhân của quan
điểm lý thuyết này là khái niệm “tính xác thực”
(hay “tính chân thực”) của di sản (Authenticity

of Heritage). Chân thực hay không chân thực
không phải là một giá trị khách quan mà nó
được tính bằng những trải nghiệm.
* Quan điểm về mơ hình quản lý di sản
Hiện nay, cũng có nhiều quan điểm về mơ
hình quản lý di sản2. Ở mỗi cách nhìn, các học
giả đều chủ động đưa ra các biện luận và giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy3 giá trị di sản
hiện hữu. Có thể tổng hợp 3 quan điểm về mơ
hình quản lý di sản như sau:
Mơ hình kết hợp giữa phát triển du lịch và
quản lý di sản (hay là sự hỗ trợ của di sản cho
phát triển du lịch bền vững). Tác giả John Fletcher
(2005) [5, tr.28-48] đã đưa ra một cách tiếp
cận về mối quan hệ giữa quản lý di sản và
phát triển du lịch. Mục đích là để xem xét vai
trò hợp tác và quản lý của các bên liên quan
về phát triển du lịch và di sản; sự phụ thuộc
lẫn nhau của mối quan hệ bảo tồn di sản và
du lịch; đồng thời, thúc đẩy sự hợp tác giữa
bảo tồn di sản và du lịch thông qua sự tham
gia của các bên liên quan. Quan điểm của các
tác giả Nicholas, L. N; Thapa, B; Ko Y (2009)4 đã
chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hỗ trợ của
cộng đồng cư dân địa phương đối với lĩnh vực
quản lý di sản thế giới và đối với phát triển du
lịch bền vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
sự gắn kết cộng đồng ảnh hưởng tích cực đến
các hành vi hỗ trợ của họ thông qua nhận thức
về di sản thế giới. Đồng quan điểm này cịn có

tác giả B McKercher và H Du Cros (2002)5, đã
xem xét mối quan hệ giữa các bên liên quan
đến dòng tiền của hoạt động du lịch văn hóa.
Trong khi các chuyên gia du lịch đánh giá tài
sản văn hóa có lợi cho tiềm năng lợi nhuận của
họ, thì các chuyên gia di sản văn hóa lại đánh
giá cao giá trị nội tại của chúng ví như các tài

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

11


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

sản tương tự. Du lịch văn hóa bền vững chỉ có
thể xảy ra khi hai bên hợp tác thực sự.
Mơ hình đồng quản lý, kết hợp quản lý văn
hóa bản địa với lĩnh vực mơi trường: Quan điểm
này được đưa ra bởi học giả Melissa NurseyBray và Phillip Rist (2009) [6, tr.118-127]. Các
tác giả đưa ra khái niệm “đồng quản lý” để giải
thích cho việc tập hợp động lực như một cơ
chế để kết hợp những giá trị văn hóa bản địa
trong các lĩnh vực quản lý mơi trường. Mỗi quy
trình quản lý có phương pháp riêng của nó; khi
hai mơ hình giao nhau, chúng đưa ra một số
thách thức đối với kết quả quản lý chung.
Mơ hình sử dụng các phương tiện truyền

thông mới để phục vụ quản lý di sản văn hóa
(là di sản ảo hoặc kỹ thuật số)6. Quan điểm
nàyđã đề cập đến việc sử dụng các phương tiện
truyền thông mới để phục vụ cho việc quản
lý di sản văn hóa. Trong đó, di sản ảo hoặc kỹ
thuật số là một lĩnh vực phát triển nhanh, được
biết đến nhiều hơn cả. “Di sản mới”, dưới quan
điểm này, để giải quyết sự phức tạp của di sản
văn hóa như: các vấn đề xung quanh việc giải
thích di sản cho công chúng và các nỗ lực để
nắm bắt bản chất của cả di sản văn hóa hữu
hình (như tịa nhà, di tích) và di sản văn hóa vơ
hình - di sản văn hóa phi vật thể (như phong
tục, nghi lễ).
Như vậy, 3 quan điểm về mơ hình quản lý di
sản nêu trên là những gợi mở đưa ra trong việc
xây dựng những kịch bản được lên kế hoạch
có sự đồng thuận của các bên liên quan nhằm
quản lý, vận hành di sản hiệu quả, đặc biệt là
trong việc phát huy di sản một cách bền vững.
2. Hiện trạng nghề làm tranh dân gian Đông
Hồ
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hiện
nay vẫn đang được kế thừa từ truyền thống. Kỹ
thuật làm tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ có
nhiều điểm đặc sắc riêng và vẫn có sự kế thừa,
chắt lọc từ quá khứ. Trước đây, những nghệ
nhân giỏi ở Đơng Hồ có thể tự mình đảm nhận
tất cả các khâu từ vẽ mẫu, khắc ván, in tranh.
Đến nay, do sự phát triển của làng nghề và khả

năng của các nghệ nhân trẻ nên ba khâu đó
tách ra như một yêu cầu cao về chuyên môn
12

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

hóa. Hoạt động sản xuất tranh Đơng Hồ hiện
nay vẫn tiếp tục duy trì theo phương pháp kỹ
thuật làm tranh dân gian truyền thống. Các
quy trình kỹ thuật trong các bước sản xuất vẫn
tuân thủ chặt chẽ quy tắc nghề cổ truyền. Bên
cạnh đó, các hộ gia đình đã tìm tịi, học hỏi để
mở rộng thị trường tiêu thụ tranh. Đồng thời,
các nghệ nhân cũng đã sáng tạo ra nhiều sản
phẩm đặc trưng của nghề tranh và phù hợp
với nhu cầu của thị trường.
Hiện nay, hai dòng họ làm tranh dân gian
ở Đông Hồ vẫn đang truyền nghề cho các thế
hệ con, cháu tại các hộ gia đình, cho thấy nghề
làm tranh vẫn tiếp tục tồn tại. Từ năm 2016, các
gia đình nghệ nhân đã chủ động hơn trong
việc tiếp cận thị trường đầu ra cho sản phẩm
từ việc tham gia một số triển lãm tranh trong
nước và quốc tế, đơi lúc đã có sự hỗ trợ của
nhà nước, như: gia đình nghệ nhân Nguyễn
Đăng Chế tham gia triển lãm tranh ở Tp. Hồ Chí
Minh, gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam,
Nguyễn Hữu Hoa gửi sản phẩm đi triển lãm
tranh ở Mỹ, Nhật Bản...
Có thể nhận thấy, bản sắc văn hóa đặc

trưng của nghề làm tranh Đơng Hồ là các ván
khắc gỗ (ván khắc gỗ để in nét và ván khắc gỗ
để in màu trên giấy điệp). Hiện nay, các bản
khắc gỗ đang được lưu giữ ở các hộ gia đình
làm tranh gồm có ván khắc in tranh bộ, ván in
chữ, ván in tranh điệp, ván in tranh vuông, ván
in bưu thiếp. Theo thống kê của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh (năm 2013)
[7], ván khắc gỗ trong gia đình cố nghệ nhân
Nguyễn Hữu Sam là 377 ván, gia đình nghệ
nhân Nguyễn Đăng Chế là 557 ván, gia đình cố
nghệ nhân Trần Nhật Tấn là 108 ván, gia đình
nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả là 312 ván, gia
đình nghệ nhân Trần Nhật Sở là 254 ván. Như
vậy, tổng số ván khắc của nghề tranh Đông Hồ
lên đến hàng nghìn bản.
Ở làng tranh Đơng Hồ đã bắt đầu có sự
sáng tạo, làm mới các chủ đề với các bản
khắc có nội dung đương đại. Ngồi các bản
khắc gỗ do cha ông từ xưa để lại, nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế đã tự khắc lại một số bản


DI SẢN VĂN HÓA

khắc, hay phục chế lại các bản khắc bị mất...
Đồng thời, làng tranh Đông Hồ cũng bắt đầu
có xu hướng du nhập các loại tranh khác, như
trưng bày tranh làng Sình, tranh Kim Hồng,
và đặc biệt là tranh Hàng Trống, do được nhiều

du khách yêu thích. Điều đó cho thấy sự thích
ứng, nhanh nhạy của làng nghề trong việc đáp
ứng thị hiếu, nhu cầu của du khách, đồng thời
chứng tỏ các dịng tranh đang có sự giao thoa
trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay, Trung tâm bảo tồn tranh dân gian
Đông Hồ đang được xây dựng. Các hạng mục
chính của Trung tâm đã được phê duyệt gồm
có: Nhà trưng bày kiến trúc nhà gỗ truyền
thống 7 gian, một tầng, mái đao; nhà giới thiệu
quy trình làm tranh và nhà dịch vụ kiến trúc nhà
gỗ truyền thống 5 gian, hai mái bít đốc; hành
lang, hồ nước...; các cơng trình phụ trợ, khôi
phục chợ tranh dân gian Đông Hồ. Đây là một
thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa nghề làm tranh.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, tác giả nhận
thấy nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đã và
đang tồn tại một số khó khăn, thách thức:
Đại đa số người làm nghề cho rằng, khó
khăn lớn nhất là tìm đầu ra cho sản phẩm.
Tranh làm ra nhiều nhưng khơng có nhiều đầu
ra tiêu thụ, thị trường tranh dân gian truyền
thống khơng khả quan. Các gia đình nghệ
nhân phải tự chủ động tham gia các cuộc triển
lãm tranh ở trong và ngồi nước để tìm kiếm
nguồn khách hàng. Nhà nước chưa chú ý đầu
tư và hỗ trợ nguồn kinh phí đáng kể nào cho
hoạt động này của làng tranh Đông Hồ.
Một số loại ngun liệu đang có nguy cơ

khó tìm kiếm, hoặc giá thành cao như: nguồn
giấy dó được nhập về chủ yếu từ làng Đống
Cao (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), nhưng
hiện nay cả làng Đống Cao cũng chỉ còn một,
hai hộ gia đình cầm cự với nghề này bởi sản
lượng đầu ra thấp, thu nhập bấp bênh và
nguồn cây dó hiếm dần. Nguồn điệp ở các
vùng biển Quảng Ninh, Hải Phịng cũng trở
nên khan hiếm, vì nguồn ngun liệu điệp hóa
thạch đã bị khai thác cạn kiệt.
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Việc truyền dạy nghề trong cộng đồng
đang có nhiều bất cập. Thế hệ trẻ là con, cháu
trong các gia đình nghệ nhân có xu hướng
chuyển đổi sang nghề nghiệp khác; số người
ngoài làng đến làm nghề, học nghề tranh rất ít
ỏi, dẫn đến việc tìm người kế thừa nghề ngày
càng khó khăn. Hoạt động của nghề tranh
Đơng Hồ mang tính chất cá nhân, mạnh ai
người nấy làm. Giữa các hộ gia đình làm tranh
chưa có sự gắn bó, đoàn kết, tương trợ nhau
để cùng phát triển. Sự hỗ trợ của chính quyền,
các nhà quản lý các cấp chưa thực sự đồng bộ
và hiệu quả.
Hiện trạng đó cho thấy nghề làm tranh dân
gian Đông Hồ cần được bảo tồn và phát triển
bền vững trong tương lai. Từ góc nhìn quản
lý di sản văn hóa, để bảo tồn và phát huy hơn
nữa nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, cần

thiết phải đưa ra mơ hình quản lý thiết thực,
hiệu quả.
3. Mơ hình bảo tồn và phát huy nghề làm
tranh dân gian Đơng Hồ
Từ góc nhìn quản lý di sản, bài viết đưa ra
một vài gợi ý, nhằm tham vấn cho các nhà
quản lý địa phương có thể áp dụng, lựa chọn
1 trong 2 mơ hình sau: (1) Mơ hình đồng quản
lý của nhà nước và cộng đồng, doanh nghiệp;
(2) Mô hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng
đồng, nhà nước và doanh nghiệp.
3.1. Mơ hình đồng quản lý của Nhà nước
và cộng đồng, doanh nghiệp
Mơ hình này đề cập đến khả năng tham gia
đồng thời của ba bên trong bộ máy quản lý
Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ
cũng như việc thống nhất các quy tắc, phương
châm hoạt động để vận hành bộ máy đó. Cụ
thể là, sự tham gia của Nhà nước với vai trò
quản lý vĩ mô, các cơ quan chuyên trách sẽ
đề ra những chủ trương, chính sách, văn bản
pháp luật ở tầm vĩ mô. Doanh nghiệp là đơn
vị hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách, đồng thời kết
nối với cộng đồng các nghệ nhân làm tranh để
thúc đẩy, triển khai các hoạt động trong thực
tiễn nhằm bảo tồn, phát huy di sản nghề làm

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


13


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Sơ đồ 1. Mơ hình đồng quản lý của Nhà nước
và cộng đồng, doanh nghiệp

tranh Đông Hồ. Cộng đồng giữ vai trò trung
tâm, là chủ thể nắm giữ, thực hành di sản, trực
tiếp tham gia giữ gìn, bảo vệ, phát huy giá trị
di sản theo kế hoạch của mình, làm sao để
thống nhất phương hướng, hành động chung
với cơ quan nhà nước và doanh nghiệp (Sơ đồ
1). Bộ máy quản lý phải đảm bảo hoạt động
nhịp nhàng, cùng quản lý dựa trên nguyên tắc
tôn trọng quyền lợi, trách nhiệm của ba bên.
Các công cụ quản lý được thiết lập với sự phân
cơng vai trị trách nhiệm của các bên liên quan
ngang bằng nhau, phân chia lợi ích trong việc
vận hành các dịch vụ phụ trợ (trông xe, biển
báo, biển tên...).

với cộng đồng người làm nghề (Sơ đồ 2). Nhân
sự của Ban quản lý Trung tâm có thể gồm:
1 trưởng ban (là đại diện của UBND huyện
Thuận Thành hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Bắc Ninh); 4 phó ban (gồm: 1 đại diện

của chính quyền cấp xã, 2 đại diện cho cộng
đồng làm nghề tức đại diện của 2 hộ gia đình
làm tranh, 1 đại diện cho doanh nghiệp và 1
trưởng thơn); ngồi ra, cịn có bộ phận chuyên
trách (5 người, gồm nhân viên an ninh và quản
lý dịch vụ; bộ phận hành chính, tài vụ; bộ phận
hướng dẫn viên du lịch, lễ tân...).
3.2. Mơ hình kết hợp (đan xen) quản lý
giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp
Mơ hình này đề cập đến khả năng tham gia
chủ yếu là của cộng đồng hoặc doanh nghiệp
tự đứng ra điều hành, bên cạnh đó có sự kết
hợp, đan xen chỉ đạo của nhà nước trong bộ
máy quản lý Trung tâm bảo tồn tranh dân
gian Đông Hồ. Do đó, việc đưa ra các quy tắc,
phương hướng hoạt động để vận hành bộ
máy đó mang tính độc lập, khơng phụ thuộc
vào sự quản lý trực tiếp của nhà nước (Sơ đồ 3).
Trong mơ hình này, cộng đồng cử đại diện
đứng ra làm quản lý, bên cạnh đó, có đại diện
của doanh nghiệp, các hộ gia đình và cơ quan
chuyên mơn nhà nước cùng đứng vai trị phối
hợp, hỗ trợ, tư vấn, giám sát. Cụ thể là, trưởng
ban điều hành do cộng đồng bầu ra, phải là

Trên cơ sở đó, cần thành lập Ban quản lý,
Ban điều hành Trung tâm bảo tồn tranh dân
gian Đông Hồ. Ban quản lý Trung tâm có thể
là đơn vị sự nghiệp
nhà nước trực thuộc

UBND huyện Thuận
Thành, hoặc trực
thuộc Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
tỉnh Bắc Ninh. Trong
đó, Ban quản lý sẽ
phân cơng nhiệm
vụ, công việc liên
quan giữa các bộ
phận, cán bộ, nhân
sự trong Ban quản lý
Trung tâm; đảm bảo
phối hợp hài hòa lợi
Sơ đồ 2. Minh họa mơ hình đồng quản lý
ích giữa Trung tâm
của Ban quản lý Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ
14

Số 31 (Tháng 3 - 2020)


DI SẢN VĂN HĨA

Sơ đồ 3. Mơ hình kết hợp (đan xen) quản lý
giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp

Trên cơ sở đó, Ban quản lý, Ban điều hành
của Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông
Hồ sẽ là tổ chức độc lập, hoạt động dưới sự bàn
bạc, thống nhất của các thành viên trong cộng

đồng. Ban quản lý Trung tâm là một tổ chức
bao gồm các đại diện của cộng đồng, doanh
nghiệp, cơ quan nhà nước. Trong đó, Ban quản
lý sẽ phân công nhiệm vụ, công việc liên quan
giữa các bộ phận, cán bộ, nhân sự trong Ban
quản lý Trung tâm; đảm bảo phối hợp hài hịa
lợi ích giữa Trung tâm với cộng đồng người
làm nghề (Sơ đồ 4). Nhân sự của Ban quản lý
Trung tâm có thể gồm: 1 trưởng ban (đại diện
do cộng đồng bầu ra); 4 phó ban (gồm: 3 đại
diện cộng đồng, doanh nghiệp, hộ gia đình
bầu ra và 1 đại diện của UBND huyện hoặc
phịng VHTT huyện cử ra); ngồi ra, cịn có bộ
phận chuyên trách (gồm có nhân viên an ninh
và quản lý dịch vụ; bộ phận hành chính, tài vụ;
bộ phận hướng dẫn viên du lịch, lễ tân...).

người có uy tín trong nghề làm tranh, có khả
năng lãnh đạo, tổ chức quản lý, điều hành công
việc cũng như phải nắm bắt nhanh nhạy các chủ
trương, chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó,
Như vậy, hai mơ hình quản lý di sản văn
các phó ban cũng là người đại diện của doanh
hóa được đặt ra trong bối cảnh Trung tâm bảo
nghiệp, người làm nghề và cơ quan chuyên môn
tồn tranh dân gian Đông Hồ đang được xây
của nhà nước cùng hỗ trợ, phối hợp và tham gia
dựng. Đây sẽ là những gợi mở thiết thực giúp
vào hoạt động điều hành chung trong Ban quản
cho các nhà lãnh đạo địa phương lựa chọn

lý Trung tâm. Ngoài ra, tổ chuyên trách cũng là
được phương án tối ưu, đảm bảo quyền lợi và
các đại diện của cộng đồng, là người có uy tín,
trách nhiệm của các bên liên quan nhằm vận
chun mơn, có trách nhiệm với công việc, phụ
hành hiệu quả Trung tâm bảo tồn tranh dân
trách các nhiệm vụ được giao. Bộ máy quản lý
gian Đông Hồ khi đi vào hoạt động. Trước khi
chỉ hoạt động hiệu quả khi đảm bảo sự kết hợp
áp dụng lâu dài, cần thời gian để thử nghiệm
hài hòa quyền lợi, trách nhiệm giữa các bên,
trong đó, cộng đồng
giữ vai trị trung tâm,
điều hành các cơng
việc của tổ chức. Mặc
dù đề cao vai trò của
cộng đồng, tuy nhiên,
cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp vẫn
giữ vị trí quan trọng
trong cơng tác tư vấn,
giám sát và điều phối,
định hướng các hoạt
động của Trung tâm
bảo tồn tranh dân
Sơ đồ 4. Minh họa mơ hình kết hợp (đan xen) quản lý
gian Đơng Hồ.
của Ban quản lý Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đơng Hồ
Số 31 (Tháng 3 - 2020)


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

15


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

mơ hình nào hợp lý hơn để lựa chọn. Để giúp
cho việc tổ chức, vận hành bộ máy quản lý
được hiệu quả hơn, Ban quản lý cần thông qua
một số hoạt động cụ thể để góp phần bảo tồn,
phát huy nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.

+ Đa dạng hóa mẫu mã, chủng loại, sáng
tạo, làm mới các sản phẩm tranh Đơng Hồ hiện
có như: tranh bộ, tranh lịch, tranh tờ, tranh vẽ
thủy mặc, tranh khắc dương bản, tranh in màu,
sổ viết bằng giấy dó, tranh thiếp...

3.3. Các hoạt động để bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa nghề làm tranh Đông Hồ

- Hệ sản phẩm của làng nghề và Trung tâm
bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ:

Dựa trên các quan điểm lý luận về bảo tồn
di sản và mơ hình quản lý di sản đã trình bày
trên, vận dụng vào thực tiễn lựa chọn mơ hình

quản lý di sản nghề làm tranh dân gian Đông
Hồ (mục 3.1 và 3.2), có thể đưa ra hai hoạt
động quản lý di sản mà Ban quản lý Trung tâm
bảo tồn tranh dân gian Đơng Hồ cần thực hiện
như sau:

+ Duy trì, phát huy lợi thế của làng nghề
Đông Hồ với loại hình du lịch trải nghiệm (thực
hành in tranh Đơng Hồ bằng ván in nét và ván
in màu), thu hút du khách trong và ngồi nước
tới địa điểm làng tranh Đơng Hồ tham quan,
trải nghiệm bằng các tour du lịch trong nước...

3.3.1. Hoạt động quản lý, bảo tồn kế thừa các
ván khắc gỗ
- Chọn lọc, thống kê, phân loại và chú thích
các ván khắc gỗ theo niên đại để lưu giữ được
tính chân thực và kế thừa của di sản nghề làm
tranh Đơng Hồ.
- Bảo quản, gìn giữ các bản khắc gỗ để
tránh khỏi các điều kiện thời tiết, mối mọt làm
biến dạng hay hủy hoại, làm biến mất di sản.
Vấn đề bảo quản tốt các bản khắc gỗ nhằm kế
thừa, phát huy có hiệu quả các giá trị của nó
trong sản xuất in tranh, cũng là bảo vệ tính xác
thực của di sản.
Như vậy, bảo tồn kế thừa sẽ giúp nghề tranh
dân gian Đông Hồ không bị triệt tiêu. Tuy
nhiên, điều đó là chưa đủ nếu muốn tiếp tục
duy trì và phát triển nghề làm tranh dân gian

truyền thống này.
3.3.2. Hoạt động quản lý, phát huy di sản
nghề tranh dân gian Đông Hồ thông qua khai
thác tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch
* Xây dựng hệ sản phẩm du lịch
- Hệ sản phẩm về tranh:
+ Cần sắp xếp, phân loại và hệ thống hóa
các ván khắc tranh cổ, các ngun liệu, cơng cụ
làm nghề...; làm chú thích và xây dựng thành
các nhóm, chia khu vực theo chủ đề, nội dung
để du khách dễ dàng tham quan, tìm hiểu lịch
sử, kỹ thuật, quy trình tạo ra sản phẩm tranh
Đơng Hồ...
16

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

+ Phát huy lợi thế của các cách thức mua
bán trao đổi tranh dân gian trực tiếp (tranh
giấy dó, tranh dương bản); đồng thời, khuyến
khích việc trao đổi, mua bán tranh Đông Hồ
gián tiếp qua quảng bá sản phẩm trên nhiều
kênh thông tin như: các gian hàng giới thiệu
sản phẩm ở các thành phố lớn (như Hà Nội,
Tp Hồ Chí Minh,…); hay các hệ thống phân
phối, bán hàng trên mạng xã hội, trang web
bán hàng trực tuyến, qua các cuộc triển lãm,
giao lưu, hội thảo...
+ Mở rộng loại hình dịch vụ phục vụ du lịch
gần khu vực làng nghề và tại trung tâm bảo

tồn nghề như: dịch vụ nghỉ trưa, ăn uống (đặc
sản gà Hồ), ngắm cảnh và du thuyền trên sơng
Đuống...
+ Mở rộng loại hình du lịch tham quan
nghề làm mã tại khu vực làng Đơng Hồ, vừa
góp phần tìm hiểu lịch sử, văn hóa nghề
truyền thống của làng vừa cho thấy sự phát
triển nghề tranh trong tương quan với nghề
mã hiện nay. Điều này sẽ gây hiệu ứng tị mị,
thích thú cho du khách...
+ Trưng bày các chủ đề về sản phẩm tranh
Đông Hồ đa dạng, phong phú hơn, kể cả
những sản phẩm tranh Đông Hồ trên chất
liệu hiện đại khác (như tranh Đông Hồ in trên
gốm, trên đồng, trên gỗ hay trên vỏ hộp của
cốc cà phê Highland....), cũng cần được đưa
vào bộ sưu tập trong nhà trưng bày của Trung
tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ như một
sự tái hiện sống động, đầy đủ nhất bức tranh


DI SẢN VĂN HÓA

nghề truyền thống đang biến đổi và thích ứng
với thời cuộc.

hành, hoạt động của Trung tâm bảo tồn tranh
dân gian Đông Hồ sau khi được khánh thành).

Như vậy, khả năng xây dựng mơ hình du

lịch tổng hợp, kết hợp du lịch trải nghiệm tại
cộng đồng và du lịch tham quan, vãn cảnh,
nghỉ ngắn (nửa ngày),… có thể thực hiện được
tại làng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.

Kết luận

* Phương án tổ chức thực hiện
- Mở rộng khơng gian trình diễn nghề (ví
dụ như ở các hộ gia đình đã mai một nghề làm
tranh, nay có nhu cầu quay trở lại làm nghề;
hay phát huy hết công năng về không gian của
Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đơng Hồ...).
- Cấp kinh phí cho các nghệ nhân làm tranh
đi học tập các kỹ năng về thực hành du lịch
(như: kỹ năng giới thiệu, thuyết minh du lịch,
kỹ thuật trình diễn nghề, kỹ thuật hướng dẫn
du khách trải nghiệm...); khuyến khích các nghệ
nhân, người làm nghề vào làm việc tại Trung
tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ theo chế
độ hợp đồng dài hạn hoặc theo hợp đồng thời
vụ; hỗ trợ các nghệ nhân trẻ có tay nghề về kỹ
năng bán hàng, kỹ năng ngoại giao và lập đề
án, thuyết minh dự án xin tài trợ hoặc các hợp
đồng thương mại bán tranh Đông Hồ khác...
Như vậy, từ góc nhìn quản lý di sản văn hóa,
việc thiết kế mơ hình quản lý di sản được đặt ra
với nghề làm tranh dân gian Đông Hồ không
chỉ nhằm mục tiêu khuyến khích và thúc đẩy
bảo tồn và phát triển di sản nghề truyền thống

về mặt vĩ mơ (đó là mơ hình quản lý và chính
sách của Nhà nước). Tác giả bài viết còn gợi
mở thiết kế một số hoạt động bảo tồn cụ thể
cho nghề tranh Đông Hồ theo hướng vừa kế
thừa di sản, vừa phát triển du lịch. Đó sẽ là sự
tham khảo hữu ích cho nhà quản lý và chính
quyền địa phương trong việc đưa ra một mơ
hình quản lý hiệu quả, nhằm hiện thực hóa
khả năng biến di sản văn hóa tranh Đơng Hồ
trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương (cần lựa chọn và quyết định
giao quyền, trách nhiệm quản lý cho chủ thể là
cơ quan nhà nước và cộng đồng làng Đông Hồ
- bao gồm các nghệ nhân - vào bộ máy điều
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Để bảo tồn và phát huy nghề làm tranh dân
gian Đông Hồ, cần thực hiện theo định hướng
vừa bảo tồn kế thừa, vừa bảo tồn phát triển.
Trong thực tế, bảo tồn và phát huy nghề làm
tranh dân gian Đông Hồ không phải là công
việc một sớm một chiều có thể làm xong. Để
phát huy hơn nữa vai trò của cộng đồng và
nghệ nhân, trong tương lai, Nhà nước và chính
quyền địa phương cần sớm hiện thực hóa mơ
hình quản lý di sản nghề làm tranh dân gian
Đơng Hồ theo hai hướng chính: Một là mơ
hình đồng quản lý của Nhà nước và cộng đồng,
doanh nghiệp; hai là mơ hình kết hợp (đan xen)
quản lý giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh

nghiệp. Đồng thời, kết hợp thực hiện hai hoạt
động quản lý di sản bao gồm: hoạt động quản
lý, bảo tồn kế thừa các ván khắc gỗ và hoạt động
quản lý, phát huy di sản nghề tranh dân gian
Đông Hồ thông qua khai thác tiềm năng, lợi thế
phát triển du lịch. Trong đó, Nhà nước không
chỉ trao quyền tự chủ cho cộng đồng để bảo
vệ di sản, mà cịn phải có sự chung tay, hỗ trợ
tối đa bằng các thể chế, chính sách thiết thực
để giúp cho nghề làm tranh Đơng Hồ duy trì
và phát triển. Từ đó, nghề làm tranh Đơng
Hồ sẽ khẳng định hơn nữa sức sống và giá trị
của mình như một “thương hiệu di sản” nghề
truyền thống độc đáo không thể bắt chước
hay thay thế.
N.T.H
Chú thích
1
Nghề mã ở Đơng Hồ xuất hiện từ sớm, cùng
với nghề làm tranh, tạo nên nét văn hóa đặc
trưng của làng. Nghề mã Đơng Hồ là một nghề
thủ công làm trên giấy màu, trải qua các công
đoạn ra mẫu, chạm trổ, cắt, gấp, đan, dán, in,…
để tạo ra các sản phẩm mã đa dạng, tinh xảo
bằng giấy giống hình thật như: tiền mã, vàng
thoi, đơi dép, ngơi nhà, xoong, siêu, nồi, chảo,
quần áo, mũ, nón, ngựa... Đồ mã của người Việt
thể hiện quan niệm về linh hồn, về thế giới tâm

VĂN HÓA

NGHIÊN CỨU

17


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

linh. Nghi thức hóa vàng mã để tưởng nhớ người
đã mất “trần sao âm vậy”, có nghĩa là người sống
cần có gì, người âm cũng cần cái đó. Nghề mã
cũng trải qua nhiều thăng trầm, biến thiên theo
lịch sử, chịu tác động lớn từ chính sách của nhà
nước. Hiện nay, Đông Hồ là một trung tâm sản
xuất, phân phối hàng mã lớn nhất cả nước.
Theo chúng tôi, mô hình quản lý di sản được
hiểu một cách rộng rãi là những kịch bản được lên
kế hoạch có sự đồng thuận của các bên liên quan
nhằm quản lý, vận hành di sản hiệu quả.
2

Theo Công ước của UNESCO năm 2003 về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể thì khái niệm
“bảo vệ” (safeguarding) có nghĩa rộng hơn “bảo
tồn” (preservation). Mục 3, Điều 2 của Công ước
2003 ghi rõ: “Bảo vệ là các biện pháp có mục tiêu
đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa
phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa,
nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố,
chuyển giao, đặc biệt là thơng qua hình thức giáo

dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như
việc phục hồi các phương diện khác nhau của
loại hình di sản này”. Như vậy, khái niệm “bảo vệ”
theo quan niệm của UNESCO rộng hơn “bảo tồn”
và đã phần nào bao gồm cả nghĩa của từ “phát
huy” [9, tr.18].
3

Thuật ngữ “phát huy” là một cách diễn đạt bổ
sung khái niệm “bảo vệ”. Phát huy các giá trị di sản
văn hóa khơng đồng nghĩa với bảo tồn mà nghĩa
là mở rộng, làm giàu thêm bản sắc văn hóa, tăng
cường giao lưu văn hóa và làm thăng hoa giá trị
văn hóa trong bối cảnh đương đại [9, tr.19].
Trong bài “Residents’ perspectives of a world
heritage site: the Pitons Management Area, St.
Lucia” (Quan điểm của người dân về một địa
điểm di sản thế giới: Khu vực quản lý Pitons,
thánh địa Lucia). Đảo quốc Saint Lucia nằm ở
quần đảo Tiểu Antilles, thuộc khu vực Trung Mỹ;
ở phía Nam đảo Martinique của Pháp. Đảo này
trở thành công viên thiên nhiên từ năm 1979 [5,
tr.28-48].
4

Trong cuốn sách Cultural tourism: The
partnership between tourism and cultural heritage
management (Du lịch văn hóa: Sự hợp tác giữa
du lịch và quản lý di sản văn hóa).
5


Quan niệm của ba tác giả Yehuda Kalay,
Thomas Kvan, Janice Affleck (2007), trong cuốn
sách New heritage: New media and cultural
heritage (Di sản mới: Truyền thơng mới và di sản
văn hóa).
6

18

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Tài liệu tham khảo
1. Ashworth, G.J (1997), “Elements of Planning
and Managing Heritage Sites”, in Nuryanti, W.
Tourism and Heritage Management, Gadjah Mada
University Press, pp. 165-191.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012),
Quyết định số 5079/QĐ-BVHTTDL ngày 27 tháng
12 năm 2012 về việc cơng bố Danh mục Di sản văn
hóa phi vật thể Quốc gia.
3. Nguyễn Thị Hạnh (2019), Tư liệu phỏng vấn
sâu, điền dã tháng 6/2019.
4. Đoàn Thị Mỹ Hương (2014), “Tranh dân
gian Đông Hồ cần được bảo vệ khẩn cấp theo
Công ước 2003”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc tế 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể của UNESCO: Bài học kinh
nghiệm và định hướng tương lai, Nxb. Khoa học và
kỹ thuật, Hà Nội.

5. John Fletcher (2005), “Stakeholder
collaboration and heritage management (Hợp
tác các bên liên quan và quản lý di sản)”, Tạp chí
Biên niên sử nghiên cứu du lịch, tập 32, số 1.
6. Melissa Nursey-Bray, Phillip Rist (2009), “Comanagement and protected area management:
Achieving effective management of a contested
site, lessons from the Great Barrier Reef World
Heritage Area (GBRWHA)” (Đồng quản lý và quản lý
khu vực được bảo vệ: Đạt được sự quản lý hiệu quả
của một địa điểm bị tranh cãi, bài học từ Khu vực
Di sản Thế giới Rạn san hơ Great Barrier (GBRWHA),
Tạp chí Chính sách hàng hải, tập 33, số 1.
7. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh
(2013), Bảo tồn di sản văn hóa làng tranh dân gian
Đơng Hồ, Bắc Ninh.
8. Bùi Hồi Sơn (2008), “Thuật ngữ Di sản
(quản lý)”, in trong 30 thuật ngữ nghiên cứu văn
hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Đỗ Thị Thanh Thủy (2016), Văn hóa ven biển
Nam Trung Bộ - Bảo vệ và phát huy giá trị, Báo cáo
tổng hợp đề tài NCKH&CN cấp Bộ.
Ngày nhận bài: 02 - 01 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 18 - 02 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020



×