Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.74 KB, 7 trang )

Về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Nguồn: fpe.hnue.edu.vn
Cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường
đòi hỏi không chỉ cải cách kinh tế mà cả cải cách chính trị. Cũng vì thế mà cải cách
chính sách Nhà nước trở thành vấn đề cấp thiết ở tất cả các nước đang thực hiện sự
chuyển đổi thể chế kinh tế. Mục đích của cải cách là xây dựng một thể chế nhằm đảm
bảo những lĩnh vực cần thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước cũng như những lĩnh
vực có thể hạn chế sự can thiệp đó. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích
một số lĩnh vực quan trọng, không thể không có sự điều tiết của Nhà nước trong quá
trình xây dựng thể chế kinh tế mới.
Thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc đua tranh giữa hai hệ thống kinh tế, nói đúng hơn là
hai giải pháp vĩ mô đối lập nhau: nền kinh tế chỉ huy dựa trên sự kiểm soát tập trung của
Nhà nước và nền kinh tế thị trường dựa vào thành phần kinh tế tư nhân. Thế nhưng, chỉ
đến cuối thế kỷ XX thì câu trả lời cho sự phân tranh nói trên mới trở nên rõ ràng: mô hình
của nền kinh tế chỉ huy đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng, trong việc tạo ra sự
phồn vinh và thậm chí cả trong việc nâng cao đời sống nhân dân. Trong khi đó, nền kinh
tế thị trường lại tỏ ra thành công ở nhiều nước từ Tây Âu đến Bắc Mỹ và cả Châu Á nữa.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế thị trường vẫn là cái gì đó chưa thuyết phục và chưa được
mọi nước chấp nhận một cách dễ dàng.
Vấn đề đặt ra là, nếu thị trường và hệ thống thị trường là hiệu quả thì sao Nhà nước
vẫn phải can thiệp vào các hoạt động của nó? Tại sao không thực hiện một chính sách để
tư nhân được hoàn toàn tự do kinh doanh? Trả lời vấn đề này, có thể khẳng định rằng,
Nhà nước không thể thay thế cho thị trường nhưng nó có thể tác động một cách có hiệu
quả đến mọi hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không
thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền
kinh tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đờn có thể hoạt
động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền
kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà
nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường.
Trong các nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là:


can thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song sự
điều tiết của Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Theo
đó, thị trường tự do với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ trong các lý thuyết
kinh tế.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng
cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không
phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có
một vai .trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của
Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào
những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo
tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn định
kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung
cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và
nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp,
định hướng cạnh tranh một cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền…
1. Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất, tiêu dùng các
hàng hoá công cộng.
Quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước. Điều đó
được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác hẳn với các loại
hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó
như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho
một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ
các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.
Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một
doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ
và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc
phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh
quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá
công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể

cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều
hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà
nước có được thông qua thuế.
Hàng hoá công cộng có ba đặc tính: tính không kình địch trong tiêu dùng, tính
không loại trừ (nonexcluđability) và tính không thể không tiêu dùng mà tựu trung lại, tất
cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hoá công cộng như nhau. Có
nhiều ví dụ về hàng hoá công cộng, từ các biện pháp chống lũ lụt cho đến việc phòng
chống vũ khí nguyên tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ vai trò của Nhà nước một cách
trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thật vậy, một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở
hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà
các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước, Nhà nước
bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá
công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng
hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn và nó
có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn
định đó trên tầm vĩ mô.
2. Vai trò của Nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngoài gây nên
cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự
khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, các chi phí hoặc lợi
ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi) lại không được tính đến trong hệ thống giá
cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông
và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này
gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc
những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô
nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía thứ ba không được đền bù cho
những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ
thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ mưu toan sử dụng tối đa những
phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và nhưng chi phí hay lợi ích ngoại vi sẽ không

được phản ánh trong giá cả của các đồ vật. Ví dụ, trường hợp một nhà máy có thể làm ra
một loại sản phẩm rất rẻ nhưng lại làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự giảm sút về phúc
lợi cho nhưng người khác. Và do vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều chỉnh lại sự
bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, Nhà nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Tuy nhiên, Nhà nước không dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là bao nhiêu,
vì không thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ô nhiễm ấy có thể gây ra cho
xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm bảo chi phí giảm ô nhiễm không
được cao hơn so với chi phí mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Nếu không các nguồn lực sẽ
không được phân bố hiệu qua.
Nhà nước có thể sử đụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt,
thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ô nhiễm. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng cả
chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên, người sử dụng nguồn tài nguyên
này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản thuế hay biện
pháp trợ cấp tối ưu đều được coi là phương thức để Nhà nước xứ lý những yếu tố ngoại
vi. Do chỗ toàn bộ chi phí xã hội là cái quan trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một
cách có hiệu quả, còn những chi phí tư nhân quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà
nước là tạo ra sự thăng bằng giữa cá nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất
thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần phải có sự
quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực một sán phẩm nào đó có
thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem xét vấn đề trợ cấp tối ưu để khuyến
khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi
được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp cửa Nhà nước là cần
thiết, vì trong khi chi phí ngoại vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại
vi lại có thể dẫn đến sản xuất thiếu.
3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo dựng bộ khung xã hội và luật pháp
Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị trường đòi
hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để chống lại bạo lực và
gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá

sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân
hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm
ngặt…
Thật vậy, trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra
bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ,
chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả
người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận
nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan hệ giữa người
chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ
chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với
chủ sử dụng lao động. Nếu như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là
không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể
thực hiện.
Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải thiết lập và bảo vệ quyền sở
hữu tư nhân, cung như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng
quyền sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro
nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi
thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập đoàn khác.
Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng đối với
đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác. Thế nhưng, sự
bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách,
bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình
phần mềm... Đây là một sự can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản
quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học,
các nghệ sĩ, khuyến khích việc phát huy khả năng trí tuệ của họ.
4. Vai trò của Nhà nước trong chính sách cạnh tranh
Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Nhà nước nhằm cổ vũ cạnh
tranh giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình
trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao gồm: kiểm soát bằng các biện
pháp điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sát nhập

công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các
hành vi chống cạnh tranh.
Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp. Thông thường,
trong các nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi một ngành công nghiệp
bị chi phối bởi một số rất ít các Công ty lớn. Các công ty này có thể cấu kết với nhau
thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi
nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các Công ty nhỏ hơn đang
cạnh tranh với họ. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh
lành mạnh một cách có hiệu quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường, kể cả Mỹ, đều thông
qua đạo luật chống độc quyền.
Song, thật đáng tiếc, nhiều khi sự kiểm soát của chính phủ và chính sách chống độc
quyền trên thực tế lại dẫn đến giảm cạnh tranh chứ không phải là khuyến khích cạnh
tranh. Các chính sách này bao gồm: giấy phép độc quyền sản xuất một loại hàng hoá và
dịch vụ nào đó, thuế, côta... Tất cả những cái đó đã hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá và
địch vụ từ nước ngoài. Do vậy, chính sách của Nhà nước về vấn đề cạnh tranh không
phải không có điều bất cập. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận rằng, cái giá tiềm
tàng cho phép các Công ty lớn (hoặc một nhóm các Công ty cấu kết với nhau) giành được
vị trí độc quyền trong các ngành công nghiệp chủ chốt là rất cao. Giá đó đủ lớn đề thừa
nhận vai trò nhất định của Nhà nước trong việc điều tiết để duy trì cạnh tranh thông qua
một hệ thống đạo luật không ngừng được củng cố.
5. Vai trò của Nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn chế,
trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Nguồn thu nhập đó có thể do thừa
hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự thành đạt trong kinh doanh hay trong các quan
hệ chính trị, xã hội... Do vậy, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu được trong việc
phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho phép, có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu
- nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính phủ đều luôn thực hiện điều đó thông qua
chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối.
Ở đây có hai ý kiến trái ngược. Một là, ý kiến ủng hộ vai trò của Nhà nước trong
việc hạn chế sự tập trung tài sản và duy trì sự lan toả các năng lực kinh tế giữa cá chủ sở

hữu. Hai là, ý kiến ngược lại cho rằng, chương trình phân phối lại của Nhà nước thông
qua thuế thu nhập sẽ làm cho người lao động giảm động cơ làm việc để tăng thu nhập,
giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó sẽ gây nên tổn hại lớn tới cả một nền kinh tế.
Tuy nhiên, ý kiến đầu tiên đã giành được nhiều sự ủng hộ hơn của xã hội. Trong
hầu hết các nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y
tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần đến sự quan tâm của Nhà
nước. Rõ ràng, điều bàn cãi không còn là ở chỗ Nhà nước có nên tạo ra quỹ phúc lợi hay
không, có nên thực hiện phân phối lại thông qua thuế thu nhập hay không... mà là mức độ
thực hiện ra sao để vẫn có thể khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra
của cải và tiết kiệm trong việc chi dùng những của cải ấy.
6. Vai trò của Nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ

×