Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hợp tác thư viện, cơ quan lưu trữ, bảo tàng trong quản lý và khai thác di sản văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.93 KB, 9 trang )

TRAO ĐỔI

HỢP TÁC THƯ VIỆN, CƠ QUAN LƯU TRỮ, BẢO TÀNG
TRONG QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA
NGUYỄN THỊ NGỌC MAI

Tóm tắt
Đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan thư viện, lưu trữ và bảo tàng nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý và khai thác di sản văn hóa đã trở thành một xu hướng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Bài viết bàn
luận về đặc điểm tổ chức thông tin trong thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng, hệ thống hóa các vấn
đề lý luận, thực tiễn hợp tác thư viện, cơ quan lưu trữ, bảo tàng và tổng kết kinh nghiệm để triển khai
hợp tác có hiệu quả.
Từ khóa: Thư viện, cơ quan lưu trữ, bảo tàng, LAM
Abstract
IPromoting cooperation among libraries, archives and museums to improve the efficiency of
managing and exploiting cultural heritage has become a modern trend in many countries around
the world. The article discusses the characteristics of organizing information in libraries, archiving
institutions and museums, systematizing theoretical and reality issues of cooperation in libraries,
archiving institutions, museums and assessing to learn from experience to implement effective
cooperations..
Keywords: Library, archives, museums, LAM
Đặt vấn đề

T

ừ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân
loại, thông tin đã được thu thập, tổ
chức và sử dụng trong nhiều cơ quan,
tổ chức khác nhau. Thư viện, cơ quan lưu trữ
và bảo tàng chính là những cơ quan có truyền
thống lâu đời trong tổ chức, quản lý và khai


thác các di sản văn hóa. Ở những chừng mực
nhất định, mỗi cơ quan thực hiện việc tổ chức
thông tin theo cách thức của riêng mình,
nhưng tựu chung lại, dù dưới hình thức và
phương thức nào thì thư viện, cơ quan lưu trữ
và bảo tàng đều hướng tới mục tiêu phục vụ
nhu cầu tiếp cận, khai thác thông tin từ các di
sản văn hóa của con người. Trên nền nhận định
đó, những ý tưởng về việc hợp tác giữa ba cơ
quan nói trên, gọi tắt là hợp tác LAM (Libraries
- Archives - Museums: Thư viện - Cơ quan lưu
trữ - Bảo tàng) để nâng cao hiệu quả quản lý và
khai thác di sản văn hóa của nhân loại đã được
khởi xướng và triển khai ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Việc nghiên cứu lý luận và tìm hiểu
thực tiễn mơ hình hợp tác LAM chính là tiền
đề quan trọng để triển khai mơ hình này trong
Số 26 - Tháng 12 - 2018

giai đoạn các cơ quan thơng tin, cơ quan văn
hóa tại Việt Nam đang nỗ lực thích ứng với nhu
cầu của người sử dụng “hiện đại” trong xã hội
hiện đại, xã hội thông tin trước ngưỡng cửa
Cách mạng công nghệ 4.0.
1. Tổ chức thông tin trong thư viện, cơ quan
lưu trữ và bảo tàng
Thư viện
“Thư viện là bộ sưu tập các tài liệu thuộc
nhiều loại hình khác nhau được tổ chức nhằm
cung cấp truy cập vật lý, thư mục và trí tuệ cho

một nhóm đối tượng mục tiêu, có nhân viên
chun mơn cung cấp các dịch vụ và chương
trình liên quan đến nhu cầu thơng tin của nhóm
đối tượng mục tiêu đó.” (6)
Cơ quan có lịch sử lâu dài nhất trong tổ
chức thông tin phục vụ việc khai thác, sử dụng
và lưu giữ cho các thế hệ sau chính là thư viện.
Kể từ những thư viện đầu tiên xuất hiện trong
lịch sử, vào thiên niên kỷ thứ ba trước Công
nguyên, sứ mệnh của thư viện trong một thời
kỳ dài là tàng trữ sách vở tài liệu. Chức năng
luân chuyển và sử dụng tài liệu trong thư viện

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

99


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

bắt đầu được chú ý và có vị trí ngày càng quan
trọng bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Hiện nay, thư viện được xem là nơi tàng trữ
và sử dụng tài liệu có tính chất tập thể và xã
hội phục vụ các mục đích văn hóa, nghiên cứu
khoa học, giáo dục, giải trí của con người.
Trong thư viện, tài nguyên thông tin rất đa
dạng về hình thức và nội dung được tổ chức

thành các bộ sưu tập do thư viện thu thập từ
nhiều nguồn, bằng nhiều phương thức khác
nhau (mua từ các nhà xuất bản, nhà cung cấp,
nhận biếu tặng,…). Việc tổ chức thông tin
chính là cơ sở để thư viện triển khai hàng loạt
dịch vụ đáp ứng nhu cầu truy cập, khai thác
thông tin của người sử dụng.
Tài nguyên thông tin đưa vào bộ sưu tập
thư viện được sắp xếp theo những cách thức
nhất định: thứ tự chữ cái và/hoặc phân loại.
Thông qua quá trình biên mục, thư viện thực
hiện được hai nhiệm vụ quan trọng: sắp xếp
các bộ sưu tập và tạo lập, duy trì mục lục cho
phép truy cập tới các bộ sưu tập đó. Nhiều loại
mục lục khác nhau đã ra đời và đồng hành với
thư viện trong các giai đoạn lịch sử: mục lục
dạng phiếu, mục lục dạng vi phim phản ánh
các bộ sưu tập tài liệu khác nhau (sách, báo
tạp chí, tranh ảnh, bản đồ, băng ghi âm, băng
ghi hình, tài nguyên Internet,…) thuộc từng
thư viện độc lập cho tới các cơ sở dữ liệu, các
mục lục trực tuyến của thư viện và liên kết giữa
nhiều thư viện rất phổ biến hiện nay (2), (10).
Cơ quan lưu trữ
“Cơ quan lưu trữ là tổ chức có nhiệm vụ lựa
chọn, bảo quản và cung cấp truy cập tới các hồ
sơ không hiện hành được tạo ra hoặc thu thập
trong quá trình hoạt động của một chính phủ,
một cơ quan chính phủ, một cơ quan tổ chức
hoặc các đơn vị khác” (5).

Thư viện và cơ quan lưu trữ xuất hiện gần
như cùng một thời điểm trong lịch sử văn minh
nhân loại. Những cơ quan lưu trữ đầu tiên là
nơi tập trung chủ yếu các tài liệu của nhà nước
đương thời, các tài liệu này được sử dụng như
những hồ sơ, tài liệu lịch sử để tra cứu trong
quá trình nhà nước trị vì (3).
100

Số 26 - Tháng 12 - 2018

Ngày nay, các cơ quan lưu trữ thu thập
những dữ liệu, tài liệu, hồ sơ gốc có giá trị lâu
dài được tích lũy từ các hoạt động của cơ quan
tổ chức (báo cáo, thư từ, hồ sơ nhân sự,…)
hoặc cá nhân (thư từ, ghi chép, sổ tay, bản
thảo, giấy tờ cá nhân, kỷ vật, sổ lưu niệm,…)
với nhiều dạng thức tài liệu khác nhau từ văn
bản, hình ảnh cho đến âm thanh, video, hồ sơ
máy tính,… phản ánh q trình hình thành và
phát triển của tổ chức, cá nhân đó. Tài liệu lưu
trữ được giữ lại để làm bằng chứng về một sự
kiện đã diễn ra hoặc để tra cứu khi cần.
Khác với thư viện, tài nguyên thông tin của
cơ quan lưu trữ khó có sự trùng lặp giữa cơ
quan lưu trữ này với cơ quan lưu trữ khác. Các
tài liệu lưu trữ thường được đựng trong các
hộp riêng biệt, lưu trong kho đóng, chỉ nhân
viên lưu trữ mới được phép tiếp cận. Tài liệu
lưu trữ được sắp xếp và mô tả theo nhóm và

tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau, trong
đó phổ biến nhất là quan điểm “respect des
fonds” (tuân thủ theo phơng) - nhóm các bộ
sưu tập hồ sơ lưu trữ theo phông, tức là tài liệu
được tạo ra, thu thập hoặc cung cấp bởi đơn
vị hoặc cá nhân nào sẽ được tập hợp thành
một phông theo đúng trật tự ban đầu của bộ
sưu tập tài liệu mà cơ quan lưu trữ nhận được.
Trong trường hợp bộ sưu tập tài liệu không giữ
được trật tự sắp xếp ban đầu, hoặc đơn vị hay
cá nhân tạo ra bộ sưu tập chưa từng tổ chức tài
liệu theo cách thức cụ thể nào, nhân viên lưu
trữ sẽ tạo ra một trật tự logic cho bộ sưu tập.
Việc mô tả các tài liệu lưu trữ được thực hiện
theo nhiều hình thức: hồ sơ đăng ký tóm tắt lai
lịch của bộ sưu tập, mơ tả khái quát các dữ liệu
vật lý và nội dung của bộ sưu tập; biểu ghi tìm
kiếm chứa thơng tin chi tiết về bối cảnh lịch
sử và tổ chức của bộ sưu tập, mô tả nội dung,
thống kê sơ bộ về từng hộp tài liệu lưu trữ, các
đề mục chủ đề, điểm truy cập có kiểm sốt và
một số thơng tin vật lý khác. Các biểu ghi này
là cách thức duy nhất giúp xác định tài liệu nào
đang được lưu giữ trong bộ sưu tập nào của cơ
quan lưu trữ (2).
Bảo tàng
“Bảo tàng là một tổ chức phi lợi nhuận, tồn
tại lâu dài để phục vụ xã hội và sự phát triển của



TRAO ĐỔI

xã hội, mở cửa cho công chúng. Bảo tàng thu
thập, bảo quản, nghiên cứu, truyền thông và
trưng bày di sản vật thể và phi vật thể của nhân
loại và mơi trường của bảo tàng nhằm mục đích
giáo dục, học tập và thưởng thức” (5).
Dù ra đời sau thư viện và cơ quan lưu trữ
nhưng bảo tàng cũng xuất hiện từ thời kỳ cổ
đại. Ở thời điểm ban đầu, các bảo tàng chính
là khơng gian trưng bày ngồi trời tại những
ngôi đền vĩ đại tại Rome hay các không gian
tọa đàm tại nhà thi đấu Hy Lạp cổ (2).
Bộ sưu tập của bảo tàng phần lớn bao gồm
các đồ tạo tác và hiện vật văn hóa hai chiều
hoặc ba chiều. Những gì cơng chúng được
tiếp cận trong khơng gian trưng bày chỉ là một
phần của bộ sưu tập bảo tàng. Vì vậy, khác với
thư viện và cơ quan lưu trữ, bộ sưu tập của bảo
tàng được tổ chức không nhằm mục đích phục
vụ số đơng mà chủ yếu để sử dụng nội bộ, hỗ
trợ tìm kiếm cho nhân viên bảo tàng chịu trách
nhiệm trưng bày hiện vật hoặc cho các nhà
nghiên cứu trong giới hạn nhất định (4). Ngoài
các hiện vật, ở nhiều bảo tàng cịn có bộ phận
lưu trữ, thư viện của riêng mình, nơi lưu giữ các
tài liệu về quá trình hoạt động của bảo tàng,
các tài liệu về bảo tàng,…
Sau khi thu thập, thông thường, hiện vật
được vào sổ đăng ký kiểm kê, một quy trình

có khá nhiều nét tương đồng với khâu biên
mục trong thư viện. Sổ đăng ký kiểm kê chính
là một loại mục lục giúp quản lý mọi hiện vật
trong bảo tàng. Thông tin được đưa vào sổ
đăng ký bao gồm: số đăng ký, lai lịch, hiện
trạng vật lý của hiện vật, chất liệu, kỹ thuật tạo
thành, lịch sử trưng bày, lưu giữ, giá trị đã thẩm
định, hình ảnh đại diện của hiện vật,… So với
biên mục tài liệu thư viện, điểm khác biệt lớn
nhất khi lập hồ sơ đăng ký hiện vật bảo tàng
là thông tin về hiện vật thường không đầy đủ
ở thời điểm đăng ký và các thông tin này qua
thời gian ngày càng được lũy tiến thêm. Phân
tích chủ đề cho hiện vật bảo tàng cũng là một
việc làm phức tạp vì khơng thể chỉ căn cứ vào
quan sát hiện vật hay nhan đề của tác phẩm.
Do đó, việc mơ tả hiện vật phụ thuộc rất nhiều
vào nhân viên chuyên môn của bảo tàng.
Số 26 - Tháng 12 - 2018

Thêm vào đó, tương tự như cơ quan lưu trữ,
hiện vật được lưu giữ trong bảo tàng thường
là duy nhất nên mỗi bảo tàng lại có thuật ngữ
riêng, cách thức riêng trong tổ chức thơng tin
(2). Vì vậy, việc chia sẻ dữ liệu dùng chung hay
thiết lập mục lục hợp tác giữa các bảo tàng
thường gặp nhiều khó khăn và mới chỉ bắt đầu
được quan tâm trong thời gian gần đây.
Thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng là
những bộ phận quan trọng của nền văn minh

nhân loại, gắn kết chặt chẽ với đời sống lao
động, sáng tạo của con người và với bản sắc
của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Ở bình diện
khái qt nhất, tài ngun thơng tin trong
thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng chính là
những di sản văn hóa của nhân loại. Thực tiễn
tổ chức thông tin trong thư viện, cơ quan lưu
trữ và bảo tàng cho thấy những điểm tương
đồng trong phương thức thực hiện và mục
tiêu hoạt động của ba cơ quan văn hóa này:
Cơ quan nào trong q trình hoạt động cũng
tìm cách để tổ chức thơng tin nhằm quản lý,
truy cập và khai thác được khối di sản mình
đang lưu giữ với mục tiêu trung tâm là phục vụ
đông đảo công chúng. Thông tin về bộ sưu tập
đang nắm giữ (mục lục của thư viện, hồ sơ của
cơ quan lưu trữ, hồ sơ đăng ký của bảo tàng)
chính là cơ sở để các cơ quan này thực hiện
được mục tiêu đó.
2. Hợp tác thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo
tàng - từ ý tưởng đến thực tiễn
Đều là sản phẩm của những nền văn hóa
phát triển, thơng tin được thu thập, xử lý, lưu
trữ trong thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng
với sứ mệnh phục vụ cộng đồng, hỗ trợ và tạo
điều kiện cho việc học tập suốt đời, bảo tồn di
sản văn hóa và cho phép người sử dụng truy
cập tới các thông tin được lưu giữ. Mối liên hệ
mật thiết giữa thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo
tàng cùng với vai trò đặc biệt của chúng đã

được ghi nhận từ rất sớm và càng ngày càng
được khẳng định.
Từ thời cổ đại, thư viện nổi tiếng Alexandria
Ai Cập vừa là một thư viện nhưng cũng vừa là
một bảo tàng trưng bày các tác phẩm nghệ
thuật. Thế kỷ XVI ở châu Âu và thế kỷ XIX ở

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

101


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Hoa Kỳ, một số tổ chức và cá nhân đã đặt
những “căn phịng của trí tị mị” (cabinet of
curiosities) trong nhà hoặc sảnh của các tòa
nhà lớn dùng làm nơi cất giữ và trưng bày
nhiều hiện vật như sách, bản thảo, tiền xu, tác
phẩm nghệ thuật, mẫu vật tự nhiên, máy móc
cơ khí,… Vào thời kỳ đó, trưng bày những bộ
sưu tập như vậy trong nhà là cách để chủ nhân
thể hiện sự hiểu biết sâu rộng của mình, cịn
đối với cộng đồng, chúng được xem là một
trong những thước đo trình độ văn minh. Điều
đặc biệt đáng chú ý là những căn phòng này
còn được tạo ra với mục đích khai trí cho “tầng
lớp bình dân” trong xã hội. Vào cuối thế kỷ XIX,

các lĩnh vực khoa học phát triển và phân chia
sâu sắc, các ngành nghề trong đó có nghề thư
viện được chun mơn hóa, số lượng sách
trong các bộ sưu tập nói trên ngày càng chiếm
ưu thế và dần được tách riêng với các hiện vật
khác. Đến thế kỷ XX, chức năng của thư viện,
cơ quan lưu trữ và bảo tàng được phân định rõ
rệt và hạ tầng, dịch vụ, bộ sưu tập của chúng
cũng được quản lý độc lập (3), (10).
Trong những năm gần đây, với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, vấn
đề kết nối, hợp tác giữa ba cơ quan thư viện,
lưu trữ và bảo tàng - hợp tác LAM - được khởi
xướng và đặc biệt quan tâm, nhằm tập hợp các
nguồn di sản tri thức của nhân loại, giúp người
sử dụng tiếp cận, khai thác nhanh chóng và
thuận lợi hơn. Marcum đã nhận định: “Theo
nghĩa nào đó, máy tính của chúng ta chính là
những “căn phịng của trí tị mị”. Nhờ các nút tìm
kiếm được kết nối Internet trên máy tính, chúng
ta có thể trả lời những câu hỏi cá nhân của mình
bằng nhiều loại thơng tin từ nhiều nguồn khác
nhau. Sự tăng cường hợp tác trong thời đại của
chúng ta khiến cho điều đó trở nên khả thi hơn
(…) cơng nghệ thơng tin ngày nay mở ra những
có hội chưa từng có để chúng ta có thể khiến di
sản văn hóa của thế giới có thể truy cập được, sử
dụng được và có giá trị” (8).
Hiện nay, cơng nghệ hiện đại cho phép số
hóa các bộ sưu tập di sản văn hóa tại thư viện,

cơ quan lưu trữ và bảo tàng. Các cơ quan này
cũng tận dụng các phương tiện truyền thông
102

Số 26 - Tháng 12 - 2018

xã hội như mạng xã hội và các thiết bị di động
để tăng cường khả năng kết nối với người sử
dụng. Người sử dụng thư viện, cơ quan lưu
trữ và bảo tàng khơng cịn bận tâm nhiều đến
việc thơng tin họ cần đang lưu giữ ở đâu mà
quan trọng là làm thế nào để tìm kiếm và tiếp
cận các bộ sưu tập di sản văn hóa thơng qua
một địa chỉ tìm kiếm tập trung dễ dàng, thuận
tiện như cách họ đang sử dụng máy tìm tin
Google (10). Mặc dù vậy, cần phải nhấn mạnh
rằng hợp tác LAM khơng có nghĩa là hợp nhất
ba cơ quan thư viện, lưu trữ và bảo tàng thành
một tổ chức, vì mỗi cơ quan riêng biệt có chức
năng và vai trị khơng thể trộn lẫn.
Mục tiêu của hợp tác LAM là nâng cao hiệu
quả tổ chức, quản lý, khai thác thông tin trong
và giữa các cơ quan này để phục vụ người sử
dụng và bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa một cách tối ưu nhất. Yarrow, Clubb
và Draper nhấn mạnh: hợp tác LAM giúp các
thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng “khẳng
định vai trò đối với xã hội, tăng cường hiệu quả
các chương trình và dịch vụ của mình và đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của người học thuộc

nhiều tầng lớp hơn, trên quy mô rộng lớn hơn,
đặc biệt là những người khơng có nhiều cơ hội
học tập” (1).
Trên thực tế, nhiều hội thảo, diễn đàn, và
các hoạt động chuyên môn quốc tế lớn trong
lĩnh vực thư viện, lưu trữ và bảo tàng đã tập
trung vào chủ đề hợp tác LAM. Trong đó, tiêu
biểu là Đại hội Thư viện và Thơng tin Thế giới
(2003) của Liên đồn thư viện quốc tế IFLA về
Hợp tác giữa các cơ quan lưu trữ, thư viện và bảo
tàng, Hội nghị Nhà quản trị thế kỷ 21 (2004)
do Bảo tàng Anh và Thư viện công cộng New
York tổ chức, Diễn đàn Thư viện, Cơ quan lưu
trữ và Bảo tàng - rạp 3 sân khấu - một màn biểu
diễn lớn (2005) của Nhóm Thư viện Nghiên
cứu RLG, Hội thảo Thư viện, cơ quan lưu trữ và
bảo tàng trong thế kỷ XXI: những sứ mệnh giao
nhau, tương lai hội tụ của Hiệp hội Thư viện đại
học và nghiên cứu Hoa Kỳ ACRL (2006), các hội
thảo về dự án hợp tác LAM (2007) của RLG, Hội
thảo Nhu cầu thông tin chia sẻ và những thách
thức của thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng


TRAO ĐỔI

trong kỷ nguyên thông tin của các chuyên gia
thông tin về di sản văn hóa tại Hoa Kỳ (2008),
các cuộc thảo luận tại hội nghị thường niên
trong nhiều năm của Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ

ALA, Hiệp hội Bảo tàng Hoa Kỳ AAM, Hiệp hội
các nhà lưu trữ Hoa Kỳ SAA,… (8). Các hội nghị,
hội thảo, diễn đàn học thuật này đã tập trung
làm rõ nhiều vấn đề quan trọng để thúc đẩy
hợp tác LAM trong kỷ nguyên thông tin như
sau:
- Nhu cầu thông tin bên trong và bên ngoài
thư viện, cơ quan lưu trữ và bảo tàng;
- Vai trị và trách nhiệm của các chun gia
thơng tin trong thư viện, cơ quan lưu trữ và
bảo tàng;
- Các chương trình đào tạo nhân lực chun
gia thơng tin đáp ứng nhu cầu của thư viện, cơ
quan lưu trữ, bảo tàng và người sử dụng tại các
cơ quan này;
- Các chương trình và dự án nhằm xóa bỏ
sự khác biệt trong biên mục dữ liệu giữa các
cơ quan này (9);
- Những thuận lợi và khó khăn, các nguyên
tắc trong hợp tác LAM;…
Không dừng lại ở hội nghị, hội thảo và diễn
đàn trao đổi học thuật, các hoạt động hợp tác
LAM đã được triển khai ở nhiều nước trên thế
giới. Hơn 50 chương trình, dự án hợp tác LAM
được IFLA tập hợp trong báo cáo Thư viện công
cộng, cơ quan lưu trữ và bảo tàng: Các xu hướng
hợp tác và cộng tác năm 2008. Những sáng
kiến hợp tác này rất đa dạng: từ các chương
trình di sản và cộng đồng (ở Canada, Hoa Kỳ
và Anh), các chương trình phối hợp thư viện

và bảo tàng (ở Canada và Hoa Kỳ), các dự án
hợp tác tài ngun số quy mơ tồn cầu (Thư
viện số thế giới - The World Digital Library),
quy mô châu lục (Calimera và Light ở châu Âu)
và quy mô quốc gia (ở Canada, Hoa Kỳ, Đức,
Anh, Đan Mạch, Nga, Na Uy, Thụy Điển, Ý, Tây
Ban Nha, Nam Phi và Australia), cho tới những
sáng kiến liên kết sử dụng cơ sở vật chất của
các cơ quan LAM (ở Canada, Hoa Kỳ và New
Zealand) (1). Trong đó, nhiều chương trình hợp
tác LAM thành cơng được IFLA đánh giá cao vì
Số 26 - Tháng 12 - 2018

những đóng góp lớn cho sự phát triển xã hội
trên nhiều bình diện:
- Phục vụ học tập suốt đời, gắn kết và phát
triển cộng đồng;
- Tiết kiệm chi phí, đa dạng hóa và tối ưu
hóa dịch vụ;
- Cho phép truy cập toàn cầu tới các nguồn
di sản văn hóa thơng qua một địa chỉ truy cập
tập trung;
- Nâng cao hiệu quả marketing, mở rộng
đối tượng khách hàng trong cộng đồng cho
các cơ quan LAM;
- Phát triển chuyên môn cho đội ngũ
chuyên gia thông tin tại các cơ quan LAM;
- Giải quyết nhu cầu bảo quản di sản văn
hóa (1).
3. Kinh nghiệm hợp tác LAM

Song song với những lợi ích có thể đạt
được, thực tiễn hợp tác LAM trên thế giới cũng
chỉ ra những nguy cơ tiềm ẩn trong quá trình
thực hiện hợp tác mà các thư viện, cơ quan lưu
trữ và bảo tàng cần chú trọng:
- Nguy cơ về năng lực: Các bên tham gia
không thể thực hiện được nhiệm vụ đã thỏa
thuận do những khó khăn về ngân sách, thời
gian, quản lý, kỹ thuật, hạ tầng, thái độ và nhận
thức chưa đầy đủ,…;
- Nguy cơ về chiến lược: Dự án hợp tác không
đạt được mục tiêu như dự định do thiếu cơ
chế triển khai, giám sát, hoặc có cơ chế nhưng
khơng phù hợp;
- Nguy cơ về cam kết: Các bên tham gia, vì
nhiều ngun nhân, khơng cam kết chặt chẽ
để hoàn thành dự án;
- Nguy cơ về khả năng tương thích: các cơ
quan LAM có nhiều điểm tương đồng nhưng
cũng có nhiều khác biệt về văn hóa tổ chức,
các tiêu chuẩn siêu dữ liệu, thuật ngữ chuyên
môn, quy trình nghiệp vụ, nguồn lực và chính
sách (1).
Để quản lý những nguy cơ này, các cơ quan
LAM cần xác định rõ mục đích, mục tiêu hợp
tác, phân cơng nhiệm vụ với tiến độ thực hiện
cụ thể, xây dựng cơ chế trao đổi thơng tin

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU


103


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

thuận lợi giữa các bên và tham khảo ý kiến của
các chuyên gia khi xây dựng dự án và đưa ra
các quyết định. Tổng kết từ thực tiễn, IFLA đã
đề xuất 5 bước cần tham khảo khi thư viện, cơ
quan lưu trữ và bảo tàng xây dựng dự án hợp
tác LAM:
Bước 1: Chuẩn bị lập kế hoạch
Các bên tham gia cần: Hoàn thành việc
đánh giá nhu cầu để xác lập quan hệ đối tác
đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên tham gia;
đảm bảo tất cả các bên đều đồng thuận về lý
do hợp tác; xác định rõ mục tiêu và lợi ích hợp
tác đối với mỗi bên và đối với cộng đồng mà
các bên đang phục vụ; chuẩn bị ngân sách và
tài trợ; xây dựng hướng dẫn về mức độ cam kết
đối với tất cả các bên và đảm bảo các bên tham
gia phải chấp thuận hướng dẫn này; đảm bảo
tất cả các bên cam kết giao tiếp với nhau một
cách cởi mở, trung thực và tích cực; làm quen
với tất cả các tổ chức có liên quan trong quan
hệ hợp tác.
Đối với những dự án hợp tác LAM về tài
nguyên số, cần lưu ý thêm các vấn đề sau: Tìm

một tổ chức đã xây dựng được tài nguyên số
trên cơ sở hợp tác và xin ý kiến tư vấn của họ
về dự án; thành lập nhóm quản trị dự án am
hiểu về văn hóa tổ chức của các bên tham gia;
xác định thời gian và nguồn lực, thực hiện
nghiên cứu tổng quan về các dự án tương tự;
quyết định có thuê thiết kế web từ bên ngồi
hay khơng; đánh giá các đối tượng được chọn
đưa vào dự án xem có chịu ràng buộc bởi bản
quyền không.
Bước 2: Lập kế hoạch
Nền tảng cho quan hệ hợp tác được đảm
bảo khi: Có đại diện từ tất cả các bên tham gia.
Tìm hiểu về các mức thù lao của nhân viên và
đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đối
với động lực hợp tác; mỗi bên có một nhân sự
chịu trách nhiệm ghi chép lại quá trình hợp tác
để công khai sau này; tất cả các bên đều nắm
được cách thức triển khai hợp tác. Xây dựng
một chính sách bằng văn bản trong đó phân
cơng rõ nhiệm vụ và tiến độ thực hiện cho các
bên; thông tin về quan hệ hợp tác cho đồng
104

Số 26 - Tháng 12 - 2018

nghiệp, nhà quản lý và những người có liên
quan khác. Nhân sự từ các bên tham gia dự án
cần được hỗ trợ về chuyên môn trước khi công
khai dự án; phân công lao động hợp lý.

Bước 3: Triển khai
Các bên nên thực hiện theo hướng dẫn sau:
Tùy điều kiện, trước khi triển khai dự án, cần
đảm bảo thông tin đầy đủ về dự án hợp tác
được quảng bá qua các hình thức thơng cáo
báo chí, thơng tin trên web, mạng xã hội,…;
gặp gỡ thường xuyên để đảm bảo thông tin
liên lạc cởi mở, các đối tác được cập nhật về
tiến độ của mỗi bên và khắc phục sự cố phát
sinh; đảm bảo tất cả các bên được phân bổ
đủ thời gian để làm việc; lấy ý kiến từ các bên
tham gia dự án hợp tác, công chúng, nhân viên
của các cơ quan LAM và các chuyên gia khác;
sẵn sàng điều chỉnh để thích nghi với những
thay đổi trong quá trình hợp tác.
Đối với dự án hợp tác LAM về tài nguyên
số, trong bước lập kế hoạch và triển khai, cần
lưu ý thêm các vấn đề sau: Chọn lọc tư liệu từ
tài nguyên số sẵn có; quét, nhập dữ liệu và tích
hợp các mục lục; biên mục và định dạng siêu
dữ liệu; tạo phiên bản dùng thử cho tài nguyên
số; chỉnh sửa phiên bản dùng thử với tất cả các
bên tham gia; trình bày phiên bản dùng thử
thứ hai cho tất cả các bên; thực hiện các sửa
đổi cuối cùng; đào tạo nhân viên sử dụng tài
nguyên số.
Bước 4: Đánh giá
Phải thực hiện đánh giá sau từng giai đoạn
triển khai và sau khi dự án đã hoàn thành. Khi
đánh giá cần chú ý những vấn đề sau: Có ý kiến

từ tất cả các bên tham gia; đánh giá tác động
đối với cộng đồng; đánh giá những mục tiêu
ban đầu của dự án hợp tác; đánh giá mọi thay
đổi nảy sinh trong quá trình triển khai dự án; đo
lường các kết quả (điều tra, báo cáo, thống kê).
Bước 5: Chia sẻ kinh nghiệm
Kinh nghiệm hợp tác trên quan điểm của
tất cả các bên tham gia dự án nên được chia
sẻ trên các tạp chí, bản tin chun mơn và các
phương tiện truyền thơng để các tổ chức khác
có thể tham khảo (1).


TRAO ĐỔI

4. Kết luận

Tài liệu tham khảo

Từ năm 1999, trong bài đăng trên tạp chí
trực tuyến dành cho chuyên gia thông tin
Ariadne, tác giả Lorcan Dempsey đã xác định
rõ vai trò của thư viện, cơ quan lưu trữ, bảo
tàng trước những biến động của thời đại
Internet và công nghệ thông tin bùng nổ: “Các
cơ quan lưu trữ, thư viện và bảo tàng là những
cơ quan lưu giữ bộ nhớ (…). Bộ sưu tập của các
cơ quan này chứa đựng ký ức của con người,
cộng đồng, tổ chức và cá nhân, di sản khoa
học và văn hóa, và các sản phẩm xuyên suốt

lịch sử của trí tưởng tượng, bàn tay lao động và
học tập. Chúng kết nối ta với tổ tiên và chính
là di sản của ta cho các thế hệ tương lai. Chúng
được trẻ em, học giả, công dân, doanh nhân,
khách du lịch và người học sử dụng. Những
người này đến lượt mình lại đang sáng tạo ra
di sản cho tương lai. Các cơ quan lưu giữ bộ
nhớ, thông qua việc hỗ trợ học tập, thương
mại, du lịch và hoàn thành các mục tiêu cá
nhân, góp phần trực tiếp và gián tiếp cho sự
phồn vinh” (7).

1. Alexandra Yarrow, Barbara Clubb and
Jennifer - Lynn Draper (2008), Public libraries,
archives and museums: Trends in collaborations
and cooperation, IFLA, Hague.

Việt Nam có hệ thống các thư viện, cơ quan
lưu trữ và bảo tàng không nhỏ, hiện đang
lưu giữ một khối lượng đồ sộ di sản văn hóa
của dân tộc. Trong bối cảnh Cách mạng cơng
nghiệp 4.0, với sự hội tụ của hàng loạt công
nghệ mới đã “tạo nên sức mạnh xử lý, năng lực
lưu trữ và cơ hội tiếp cận tri thức chưa từng có”.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý và khai
thác các di sản văn hóa, đóng góp vào sự phát
triển văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và
thế giới, ngoài các vấn đề đặt ra về kiện toàn
tổ chức, quy trình nghiệp vụ, hiện đại hóa và
đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ, gắn kết

với cộng đồng, từ thực tiễn thế giới cho thấy
hợp tác LAM là một trong những giải pháp
quan trọng và thiết thực mà các nhà quản lý,
các chuyên gia thư viện, lưu trữ, bảo tàng Việt
Nam cần quan tâm nghiên cứu, lập kế hoạch
và triển khai trong thực tiễn.

7. Lorcan Dempsey (1999), Scientific, Industrial,
and Cultural Heritage: A Shared Approach, Ariadne,
/>
N.T.N.M

2. Arlene G. Taylor and Daniel N. Joudrey
(2009), The Organization of Information, 3rd ed,
Libraries Unlimited, Westport, Conn.
3. Caroline Fuchs, Christine M. Angel (eds)
(2018),
Organization, Representation and
Description through the Digital Age: Information
in Libraries, Archives and Museums, De Gruyter,
Berlin.
4. Gary Edson, David Dean (2001), Cẩm nang
bảo tàng, Lê Thị Thúy Hoàn dịch, Bảo tàng Cách
mạng Việt Nam, Hà Nội.
5. ICOM (2007), Development of the museum
definition according to ICOM statutes, http://
archives.icom.museum/hist_def_eng.html
6. Levine - Clark, Michael, Carter, Toni M.
(2013), ALA Glossary of Library and Information
Science, 4th ed, ALA Editions, Chicago.


8. Marcum, Deanna B. (2014), Archives,
Libraries, Museums: Coming Back Together?,
Information & Culture: A Journal of History, 49,
no. 1, pp. 74-89.
9. Marty, Paul F. (2010), An Introduction to
Digital Convergence: Libraries, Archives, and
Museums in the Information Age, The Library
Quarterly: Information, Community, Policy. 80,
no. 1, pp. 1-5.
10. Rubin, Richard (2016), Foundations of
Library and Information Science, 4th ed, ALA NealSchuman (an Imprint of the American Library
Association), Chicago.
Ngày nhận bài: 26 - 9 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 12 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2018

(ThS., Khoa Thông tin, Thư viện,
Trường ĐHVHHN)
Số 26 - Tháng 12 - 2018

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

105


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


TIN TỨC - SỰ KIỆN

Hội thảo khoa học: “Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa Việt Nam qua con đường du lịch”
Sáng 29/11/2018, tại hội trường nhà D, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa
học “Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa Việt Nam qua con đường du lịch”. Đây là Hội thảo có
quy mơ toàn quốc, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên và
nhà quản lý trong cả nước.
Tham dự Hội thảo có TS. Hà Văn Siêu - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, Bộ VHTT&DL;
PGS.TS. Lê Anh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo, Bộ VHTT&DL; PGS.TS. Phạm Thị Thu Hương - Hiệu
trưởng Nhà trường; PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương và TS. Đinh Cơng Tuấn - Phó Hiệu trưởng Nhà
trường cùng đơng đảo cán bộ, giảng viên.
Phát biểu tại Hội thảo, PGS. TS. Phạm Thị Thu Hương khẳng định: “Di sản văn hóa là sự kết tinh
các giá trị vật chất và tinh thần của các thế hệ và trở thành tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, được cộng đồng thừa nhận, bảo tồn và trao truyền cho thế hệ kế tiếp. Di sản văn hóa
là biểu tượng của sự trường tồn, đồng thời là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân
tộc. Di sản văn hóa khơng chỉ góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam phong phú và đa dạng mà
còn đem lại những giá trị cho sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Xuất phát từ giá trị của di sản văn hóa và những thách thức trong cơng tác bảo tồn di sản, nhiều
mơ hình, phương thức quản lý di sản đã xuất hiện trên thế giới, thể hiện sự quan tâm và nỗ lực
của các quốc gia trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản của mình. Trong đó, bảo tồn di
sản gắn với phát triển du lịch đang là một phương thức được nhiều quốc gia áp dụng. Các nghiên
cứu cho thấy, trong mối quan hệ với Du lịch, di sản văn hóa là nguồn tài nguyên quan trọng, là
điều kiện để phát triển du lịch bên cạnh các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên. Du lịch phát triển
lớn mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Trong xu hướng phát triển
chung của ngành du lịch, du lịch di sản, du lịch văn hóa cũng đang trở thành xu hướng du lịch
chính. Từ đó, trong mối tương quan giữa di sản và du lịch, chúng ta thấy có mối liên hệ hữu cơ,
tương hỗ: di sản văn hóa là lý do và động lực hút khách du lịch; du lịch là phương tiện hiệu quả
trong việc khai thác lợi nhuận, cung cấp việc làm cho người dân địa phương, thúc đẩy kinh tế địa
phương nơi có di sản văn hóa, từ đó nâng cao ý thức người dân trong bảo vệ di sản và tăng cường
hỗ trợ nguồn lực tài chính cho cơng tác bảo tồn di sản. Đây là cách thức của mơ hình bảo tồn gắn

với phát triển.
PGS. TS. Phạm Thị Thu Hương nhấn mạnh, trong bối cảnh du lịch phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, nhất là khi thực tiễn cho thấy du lịch đại trà đã và đang có những tác động tiêu cực tới di sản
văn hóa, thì vấn đề cần đặt ra là cần có phương thức, giải pháp phù hợp để cân bằng, giải quyết
mối quan hệ bảo tồn – phát triển. Để làm được điều đó, ngành Du lịch Việt Nam cần xác định:
Không thể chỉ khai thác, phát huy giá trị của nguồn tài nguyên văn hóa đặc sắc vốn có, mà để phát
triển một cách bền vững, việc bảo tồn nó cũng là một nhiệm vụ thường xuyên của Ngành.
Hội thảo “Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa Việt Nam qua con đường du lịch” là diễn đàn
để các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác trong ngành Văn hóa và Du
lịch trao đổi những quan điểm, kinh nghiệm, cách thức tiếp cận trong quá trình triển khai nhiệm
vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thơng qua phát triển du lịch và phục vụ phát
triển du lịch. Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận vào những nội dung: Quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với văn hóa và du lịch và phát triển du
lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị di sản Việt Nam; mối quan hệ giữa di sản văn hóa và du
106

Số 26 - Tháng 12 - 2018


TIN TỨC - SỰ KIỆN

lịch, bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch; chiến lược đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn
nhân lực du lịch chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập…
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng nêu ra những giải pháp, phương thức bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa thơng qua phát triển du lịch; những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà
nước về du lịch, quản lý hoạt động du lịch ở các địa phương; việc bảo tồn, khai thác, phát huy
giá trị di sản văn hóa để phát triển du lịch… Có thể khẳng định, các tham luận, ý kiến trao đổi tại
Hội thảo đã đóng góp thêm tiếng nói học thuật và thực tiễn để nhìn nhận rõ hơn về mối quan hệ
tương hỗ giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch; có giá trị tham khảo nhất định trong nghiên cứu,
quản lý và đào tạo Ngành Du lịch ở Việt Nam.

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu về tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”
Căn cứ vào kế hoạch số 67-KH/ĐUK ngày 26/4/2018 của Đảng ủy khổi các trường ĐH, CĐ Hà
Nội về tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và xây dựng điển
hình phong cách, tác phong cơng tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên năm 2018”, Đảng ủy
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” với định hướng chủ đề “Xây dựng tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng
viên” để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và sinh viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Với mục đích tuyên truyền sâu rộng những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; phát hiện, nhân rộng mơ hình tốt, tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biếu trong học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người; tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao bản
lĩnh chính trị, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa,
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường, cuộc thi được phổ biến sâu rộng trong
tồn trường dưới hình thức viết bài tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức Hồ Chí Minh, định
hướng chủ đề “Xây dựng tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên”, với 2 vòng
Sơ khảo và Chung khảo
Tổng kết vòng Sơ khảo, gần 900 bài dự thi được gửi về Ban tổ chức, chọn ra 99 bài gửi thi cấp
trường, trong đó có 68 bài thi đạt giải B-, 25 bài đạt giải B+ và 6 bài đạt giải A. 6 bài thi xuất sắc đạt
giải A sẽ tham dự vào vịng Chung khảo.
Là một hoạt động vơ cùng ý nghĩa nằm trong khuôn khổ của Hội thi, vào sáng ngày 20/12/2018,
đoàn cán bộ lãnh đạo, giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội do đồng chí Hà Thị Thu Hà – Phó
bí thư Phụ trách Đảng ủy làm trưởng đoàn đã đến viếng lăng và tổ chức lễ báo cơng dâng Bác tại
Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự có mặt của các đồng chí trong Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà
trường, các đồng chí lãnh đạo các đơn vị, đại diện BCH Cơng đoàn, Đoàn Thanh niên - Hội sinh
viên và 6 đồng chí có bài thi xuất sắc trong cuộc thi “Tìm hiểu về tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” do Đảng ủy Nhà trường chỉ đạo và phát động. Tại đây, đại diện lãnh đạo Nhà trường, TS.
Đinh Công Tuấn đã phát biểu bày tỏ lịng thành kính, biết ơn vô hạn trước công lao to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với đất nước, dân tộc; đồng thời báo cáo với Bác các thành tích xuất sắc mà Nhà
trường đã đạt được trong thời gian qua và xin hứa sẽ suốt đời noi theo tầm gương về tư tưởng,

đạo đức, phong cách của Người, tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy, học tập và rèn luyện để góp
phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng đất nước ngày
càng văn minh, giàu đẹp.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Số 26 - Tháng 12 - 2018

107



×