Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN THÀNH PHẨM TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.4 KB, 19 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN THÀNH PHẨM TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH
KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành
phẩm tại và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty bánh kẹo Hải Hà
Việc hạch toán tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa rất to lớn đối với bất kỳ một doanh
nghiệp sản xuất nào. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Trong thực tế, doanh nghiệp muốn thu hồi vốn nhanh để bù đắp các chi
phí bỏ ra và có tích luỹ để thực hiện tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng thì buộc doanh
nghiệp phải tiêu thụ những thành phẩm đáp ứng được nhu tiêu dùng của xã hội về loại sản
phẩm, mẫu mã, quy cách, chất lượng… Đẩy nhanh quá trình tiêu thụ chính là đẩy nhanh
tốc độ chu chuyển vốn kinh doanh, tiết kiệm vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đồng
thời góp phần tiết kiệm các chi phí quản lý, bảo quản, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Từ
đó tạo ra được những sản phẩm có giá thành thấp, tăng lợi nhuân cho doanh nghiệp, nâng
câo đời sống của người lao động.
Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, thực hiện tốt việc tiêu thụ thành phẩm ở mỗi
doanh nghiệp sẽ góp phần vào việc điều hoà giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng,
giữa khả năng và nhu cầu, đảm bảo sự cân đối trong toàn ngành và trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Chính vì vậy, việc tổ chức tốt quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá là trách
nhiệm, quyền lợi bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp.
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một trong những doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh
vực sản xuất bánh kẹo. Sản phẩm của Công ty đã có mặt trên cả nước. Do những đặc trưng
của sản phẩm: thời gian sử dụng và bảo quản ngắn, không phải là mặt hàng thiết yếu, cầu
co giãn lớn, nhu cầu mang tính thời vụ… mặt khác thị trường tiêu thụ có tính cạnh tranh
cao chính vì vậy công tác tiêu thụ của Công ty là rất quan trọng. Để đánh giá đúng thực
trạng tiêu thụ thành phẩm tại Công ty phải thông qua việc xác định kết quả tiêu thụ. Thêm
vào đó, việc xác định kết quả tiêu thụ một cách khoa học, hợp lý phù hợp với điều kiện của
Công ty có ý nghĩa quan trọng trong việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho ban
giám đốc Công ty để lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu qủa. Chính vì vậy, việc hoàn
thiện kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là rất quan trọng và cần thiết, nó quyết
định đến khả năng phát triển của Công ty. Tuy nhiên, kế toán thành phẩm phải được hoàn
thiện như thế nào?. Theo nguyên tắc nào? Phần tiếp theo sẽ nói đến các nguyên tắc hoàn


thiện kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
3.2. Một số nguyên tắc hoàn thiện kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành
phẩm và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty bánh kẹo Hải Hà
Hạch toán kế toán là một công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế - tài chính, do
vậy đổi mới và hoàn thiện công cụ này là một nhu cầu tất yếu của quản lý, là tiền đề quan
trọng trong công tác điều hành sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Hoàn thiện kế toán tiêu thụ thành phần và xác định kết quả tiêu thụ là một công tác
rất cần thiết, góp phần tăng doanh thu và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để những
hoàn thiện có tính khoa học và khả thi cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
-Yêu cầu kịp thời chính xác: Đòi hỏi kế toán phải cung cấp những thông tin kịp thời
và chính xác nhất phục vụ cho yêu cầu quản lý cũng như trong công tác quản trị doanh
nghiệp. Có đáp ứng tốt yêu cầu này mới chứng tỏ được hiệu quả công tác kế toán, tạo ra cơ
sở đúng đắn để lãnh đạo công ty đưa ra các quyết định đúng đắn.
-Yêu cầu hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ phải phù hợp với đặc điểm
kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở tôn trọng chế độ kế toán tài chính. Tức là mỗi
doanh nghiệp xuất phát từ hoạt động tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh riêng cho
mình, tự lựa chọn cho mình phương pháp có hiệu quả nhất đảm bảo vận dụng linh hoạt chế
độ kế toán tài chính và không vi phạm chế độ.
- Yêu cầu tiết kiệm và nâng cao hiệu quả: Các doanh nghiệp kinh doanh đều hướng
tới mục đích cuối cùng đó là lợi nhuận. Để đạt được mục đích đó, Công ty không thể bỏ
qua tính khả thi và nâng cao hiệu quả của công việc. Vì vậy, để làm tốt công tác hạch toán
tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm không thể thiếu được yêu cầu này.
- Yêu cầu thống nhất: Đây là một yêu cầu cơ bản nhằm tạo ra sự thống nhất về kế
toán vận dụng trong doanh nghiệp với chế độ kế toán do Nhà nước ban hành. Yêu cầu này
đòi hỏi công tác kế toán phải thống nhất trên nhiều mặt như thống nhất trên hệ thống sổ kế
toán, thống nhất về phương pháp hạch toán tài sản, thống nhất về các chỉ tiêu trong thông
tin báo cáo tài chính… Việc tuân thủ đúng chế độ kế toán tài chính sẽ tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho Công ty cũng như về phía quản lý của Nhà nước.
Qua nghiên cứu thực trạng kế toán tại Công ty bánh kẹo Hải Hà, có thể nói kế toán
thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty đã đạt được

những kết quả tốt, phù hợp với quy mô đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhên bên cạnh những mặt tích cực, quá trình hạch toán vẫn còn một số điểm vẫn chưa
hoàn toàn hợp lý. Công ty cần có các biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác hạch
toán kế toán nói chung và kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm cũng như xác định kết
quả tiêu thụ nói riêng.
3.3. Đánh giá kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết
quả tiêu thụ tại Công ty bánh kẹo Hải Hà
3.3.1. Những ưu điểm
Do Công ty là một đơn vị sản xuất kinh doanh, khối lượng công tác kế toán nhiều,
phức tạp. Bên cạnh đó, Công ty có đội ngũ kế toán đông đảo có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm cho phép chuyên môn hoá trong phân công lao động kế toán cho nên Công ty
áp dụng hình thức kế toán " Nhật ký chứng từ" là hoàn toàn hợp lý. Bên cạnh đó, với sự trợ
giúp của phần mềm kế toán, công việc kế toán đã được thực hiện một cách khẩn trương,
chính xác và khoa học, giảm bớt đáng kể khối lượng công việc, khối lượng sổ sách phải
ghi chép và tính toán. Trong phòng kế toán, các máy tính được nối mạng với nhau nên tạo
điều kiện truy nhập dữ liệu riêng biệt, thuận lợi trong việc tính toán, đối chiếu các số liệu
giữa các bộ phận với nhau, kịp thời sửa chữa những sai sót.
Công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty được tiến hành dựa
trên đặc điểm tình hình thực tế của Công ty và vận dụng sáng tạo và linh động chế độ kế
toán hiện hành, phù hợp với đặc điểm của Công ty.
Đối với phần hành tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ, kế toán đã sử
dụng số lượng sổ rất phong phú, phản ánh được thông tin trên nhiều khía cạnh khác nhau,
trở thành công cụ đắc lực cho quản trị và phân tích kinh doanh. Cuối lỳ, kế toán mở Nhật
ký - chứng từ số 8 phản ánh tổng quát tình hình tiêu thụ thành phẩm và tình hình thanh
toán với người mua, từ đó xác định đúng đắn kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Đối với thành phẩm và kế toán thành phẩm, Công ty đã có sự quan tâm đúng mức.
Việc quản lý, bảo quản từng loại, từng thứ thành phẩm đạt được hiệu quả cao thông qua
cách bố trí hệ thống kho hàng hợp lý, khoa học, qua việc xác định đúng đắn, rõ ràng nội
quy, quy chế, trách nhiệm của các bên (KCS, bảo vệ, thủ kho, kế toán) tránh hiện tượng
nhầm lẫn, hao hụt, mất mát, tạo điều kiện cho việc nhập, xuất kho thành phẩm thuận lợi và

nhanh chóng.
Mặt khác, công tác quản lý bán hàng, theo dõi thanh toán công nợ với từng khách
hàng cũng được tiến hành liên tục, đều đặn, phù hợp với tình hình thực tế của Công ty. Với
sự cố gắng nhạy bén của mình, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm đã hoàn thành
được nhiệm vụ của mình.
Doanh thu tiêu thụ được kế toán phản ánh kịp thời và chi tiết theo hoá đơn, theo
từng loại thành phẩm và theo hình thức thanh toán, do áp dụng kế toán máy trong việc hạch
toán doanh thu chi tiết như vậy tương đối chính xác, nhanh và không làm mất nhiều công
sức cũng như thời gian của lao động kế toán. Đây là một ưu điểm lớn trong hạch toán
doanh thu bán hàng của doanh nghiệp.
3.3.2. Những tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, tổ chức kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành
phẩm và xác định kết quả tiêu thụ ở Công ty vẫn còn một số tồn tại cần được cải tiến và
hoàn thiện hơn.
Một là, đối với thành phẩm nhập kho tại Công ty, chứng từ đi kèm là phiếu nhập
kho thành phẩm. Phiếu này được lập ở phòng kinh doanh sau khi thành phẩm đã được nhập
kho, như vậy giữa nghiệp vụ nhập kho và tính pháp lý bị tách rời trong khi đó theo quy
định của việc hạch toán ban đầu thì sản phẩm phải đến kho cùng với phiếu nhập kho.
Mặt khác, để đảm bảo tính chính xác trong quản lý thì người đến lập phiếu nhập kho
đồng thời phải là người mang sản phẩm đến nhập kho để tránh gian lận và có cơ sở quy kết
trách nhiệm nếu có hao hụt, mất mát , hư hỏng. Song tại công ty do có nhiều ca sản xuất
nên trưởng ca này sẽ nhập khi sản phẩm hoàn thành, sau đó người trưởng ca sau sẽ lên
phòng kinh doanh làm phiếu nhập kho căn cứ vào chứng từ lưu tại xí nghiệp, như vậy
người nhập kho và người đến làm phiếu nhập kho là hai người hoàn toàn khác nhau.
Thêm nữa là việc theo dõi tình hình biến động của thành phẩm ở Công ty còn trùng
lắp giữa các bộ phận. Trên thực tế việc theo dõi thành phẩm tại Công ty được thực hiện ở
ba nơi là phòng kinh doanh, phòng kế toán và kho. Trong đó, ở kho và phòng kinh doanh
đều theo dõi về số thành phẩm nhập -xuất -tồn, còn phòng kế toán thì theo dõi cả về số
lượng và giá trị của thành phẩm. Việc theo dõi về thành phẩm ở phòng kinh doanh chỉ
nhằm một mục đích là nắm bắt được số lượng thành phẩm nhập, xuất, tồn kho để có kế

hoạch tiêu thụ và sản xuất. Như vậy, công việc hạch toán ở phòng kinh doanh là không cần
thiết.
Ngoài ra, do đặc điểm sản xuất của Công ty là sản phẩm đa dạng, phong phú
về chủng loại, sản phẩm nhập xuất thường xuyên nên thủ kho không tiến hành ghi thẻ kho
mà chỉ mở sổ nhập kho, sổ xuất kho để hạch toán chi tiết thành phẩm. Mở sổ nhập kho và
xuất kho riêng biệt như vậy sẽ tạo điều kiện cho thủ kho theo dõi thuận tiện, tránh nhầm
lẫn, nhưng có một nhược điểm là do nghiệp vụ nhập, xuất tách rời nhau nên thủ kho không
thể theo dõi được số tồn hàng ngày. Như vậy, chức năng giám sát, kiểm tra chi tiết về
thành phẩm của thủ kho bị hạn chế.
Hai là, về kế toán các khoản giảm trừ doanh thu và chiết khấu thanh toán: Ở Công
ty, kế toán không hạch toán các khoản chiết khấu, giảm giá đối với hàng bán vì các khoản
này được phòng kinh doanh tính thẳng vào giá bán của từng loại thành phẩm khi lập hoá
đơn (GTGT). Việc định giá như vậy cũng không khác lắm so với việc đặt tỷ lệ % chiết
khấu, giảm giá cố định trên tổng số tiền đã ghi trên hoá đơn bán hàng, hơn nữa làm như
vậy công việc hạch toán có thể ít phức tạp hơn. Song, nhìn vào đây ta thấy không hợp lý,
bởi vì như ta đã biết các khoản chiết khấu, giảm giá có nội dung khác nhau. Mặt khác,trong
một chừng mực nào đó giảm giá, có tính linh hoạt kích thích người mua, còn khi tính trực
tiếp vào giá bán người mua sẽ khó nhận biết được là doanh nghiệp đã thực hiện chính sách
khuyến khích tiêu thụ mà có thể họ chỉ nghĩ rằng họ bỏ tiền ra mua hàng là được hưởng số
chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Ba là, giá trị thực tế của thành phẩm xuất cho giới thiệu, quảng cáo, chào hàng,
tiếp thị,… chưa được tập hợp vào chi phí bán hàng. Khi xuất thành phẩm phục vụ cho
công tác này, kế toán vẫn tiến hành phản ánh giá trị vốn của hàng xuất tương tự như xuất
bán cho khách hàng thông thường (cụ thể: kế toán ghi sổ như sau: Nợ TK 632/Có TK 155),
đồng thời chỉ khi nghiệp vụ này kết thúc kế toán mơí tiến hành hạch toán. Như vậy, cần có
sự phân biệt giữa xuất thành phẩm để bán cho khách hàng thu tiền về và xuất thành phẩm
phục vụ cho việc đẩy mạnh tiêu thụ thông qua chào hàng, quảng cáo giới thiệu sản phẩm,
… Bởi vì, trị giá thực tế thành phẩm xuất bán phục vụ cho việc đẩy mạnh quá trình tiêu thụ
chính là một phần của chi phí mà Công ty phải bỏ ra để thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhằm
tăng lợi nhuận.

Hơn nữa, Công ty căn cứ vào giá vốn của thành phẩm cùng loại xuất bán trong kỳ
để xác định giá vốn của hàng bán bị trả lại. Với cách xác định này sẽ không phản ánh đúng
giá vốn của hàng bán bị trả lại trong trường hợp hàng đã tiêu thụ ở các kỳ trước nhưng kỳ
này mới bị người mua trả lại.
Bốn là, về kế toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: Việc tập
hợp chi phí bán hàng và chi phí quản lý quản doanh nghiệp; Công ty không phân bổ cho
từng loại thành phẩm cũng như cho sản phẩm còn lại trong kỳ. Do đó khi tính kết quả tiêu
thụ trong kỳ Công ty chỉ tính được lãi, lỗ chứ không tính được kết quả tiêu thụ của từng
loại sản phẩm để đánh giá sát thực tế hiệu quả sản xuất của từng loại sản phẩm. Điều này
sẽ dẫn đến việc tính toán, xác định kết quả của từng loại sản phẩm thiếu chính xác và ảnh
hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Năm là, về kế toán các khoản phải thu và trích lập dự phòng phải thu khó đòi: Hạch toán
các khoản phải thu khách hàng tại Công ty bánh kẹo Hải Hà đã đảm bảo được các yêu cầu
cả về hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp . Tuy kế toán không mở Bảng kê số 11 theo
mẫu quy định của Bộ Tài chính để tổng hợp số dư và số phát sinh từ các sổ chi tiết thanh
toán nhưng Bảng theo dõi số dư của khách hàng với nội dung phản ánh tương tự đã đáp
ứng được các yêu cầu của kế toán và quản lý.
Tuy nhiên, kế toán Công ty không thực hiện trích lập dự phòng phải thu khó đòi vào
cuối kỳ kế toán, do vậy đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi, khi có quyết định
xử lý, kế toán hạch toán trực tiếp vào chi phí quản lý doanh nghiệp:
Nợ TK 624:chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 131: xoá sổ nợ không đòi được
Các hạch toán này sẽ làm tăng đột biến chi phí quản lý doanh nghiệp và ảnh hưởng
tới kết quả kinh doanh trong tháng.
Sáu là, về hệ thống sổ sách kế toán của Công ty: Khi lập bảng kê số 5 để hạch toán
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, kế toán tiêu thụ đã không phản ánh được
chi tiết theo khoản mục chi phí, nếu muốn biết từng khoản chi phí phải xem lại các bảng
phân bổ, bảng kê, Nhật ký chứng từ liên quan, điều này gây khó khăn cho việc kế toán tổng
hợp khi phản ánh lên Nhật ký - chứng từ số 7 (phần II) và như vậy chưa cung cấp thông tin
một cách đầy đủ cho quản lý trong phân tích và đánh giá nội dung các chi phí doanh

nghiệp.
Kế toán Công ty không mở sổ chi tiết xác định kết quả hoạt động mà tất cả việc xác
định kết quả tiêu thụ đều thực hiện trên Nhật ký - chứng từ số 8, cách làm này dễ dẫn tới
nhầm lẫn và thiếu xót khi phản ánh và tổng hợp thông tin.
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiên kế toán thành phẩm, tiêu thụ
thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty bánh kẹo Hải Hà
Qua phần nhận xét ở trên, có thể nhận thấy thực tế công tác quản lý thành phẩm,
hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở Công ty. Bên cạnh những mặt tích cực,

×