Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Một số phương hướng nhằm hoàn thiện công tác hạch toán thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm ở công ty may chiến thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.76 KB, 12 trang )

Một số phương hướng nhằm hoàn thiện công tác hạch toán thành phẩm và
xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm ở công ty may chiến thắng
Cơ chế thị trường luôn có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia sản xuất kinh doanh, cạnh
tranh và phát triển. Do vậy, muốn đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp thực hiện hạch toán
kinh doanh phải có lãi. Là một công cụ quan trọng trong công tác quản lý kinh tế- tài chính, đổi mới và
hoàn thiện tổ chức công tác kế toán là một nhu cầu cần thiết của công tác quản lý, là tiền đề quan
trọng cho công tác điều hành sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Hoàn thiện kế toán thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ là công việc rất cần thiết góp phần
tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để
thấy được những gì đã làm được và phát hiện những gì chưa làm được để rút ra những nội dung chủ
yếu, cần thiết của việc hoàn thiện.
I. YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ TIÊU THỤ
1. Yêu cầu thống nhất
Đây là một yêu cầu cơ bản nhằm tạo ra sự thống nhất về chế độ kế toán giữa ngành kinh doanh
của doanh nghiệp với chế độ kế toán do Nhà nước ban hành. Yêu cầu này đòi hỏi công tác kế toán phải
thống nhất về phương pháp hạch toán đánh giá tài sản, thống nhất về tên gọi các chỉ tiêu trong báo cáo
tài chính...
2. Yêu cầu kịp thời chính xác
Yêu cầu này cũng chính là chức năng của kế toán: Cung cấp những thông tin kịp thời, chính
xác và phù hợp với yêu cầu về quản lý cũng như quản trị doanh nghiệp. Đáp ứng được tốt yêu cầu này
mới chứng tỏ được hiệu quả của công tác kế toán, tạo cơ sở cho lãnh đạo Công ty đưa ra những quyết
định kịp thời.
3. Yêu cầu phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp
trên cơ sở tôn trọng chế độ kế toán tài chính.
Mỗi doanh nghiệp đều có đặc điểm riêng về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự vận
dụng một cách linh hoạt chế độ kế toán do Nhà nước ban hành với ngành kinh doanh là vấn đề cần
thiết. Nhưng để công tác kế toán phát huy hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải vận dụng một cách
sáng tạo, phù hợp với đặc điểm riêng của mình.
4. Yêu cầu tiết kiệm và nâng cao hiệu quả
Mục đích kinh doanh của doanh nghiệp đều hướng tới lợi nhuận. Mỗi doanh nghiệp không thể


thực hiện một phương án nào đó mà không tính đến tính khả thi và hiệu quả của công việc. Vì vậy,
hoàn thiện công tác kế toán thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ cũng phải quán triệt yêu cầu này.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY MAY CHIẾN THẮNG
1. Những ưu điểm cơ bản
Hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty đã không ngừng lớn mạnh
về mọi mặt. Trong những năm qua khi chuyển đỗi từ nền kinh tế quan liêu bao cấp
sanh nền kinh tế thị trường, Công ty vẫn đứng vững với mục tiêu tăng trưởng
nhanh là điều mong muốn lớn nhất của tập thể cán bộ công nhân viên.
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của Công ty, công tác kế toán nói chung và
kế toán tiêu thụ thành phẩm nói riêng cũng không ngừng tăng trưởng về mọi mặt,
đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và hạch toán của Công ty. Trong điều kiện cơ chế
quản lý đổi mới, hệ thống kế toán của Công ty được tổ chức tương đối hoàn chỉnh,
gọn nhẹ, đội ngũ nhân viên kế toán nhiệt tình, năng động, được phân công nhiệm
vụ một cách rõ ràng, với sự trợ giúp của hệ thống phần mềm máy tính hiện đại.
Qua tình hình thực tế tại Công ty cho thấy việc hạch toán thành phẩm và xác
định kết quả tiêu thụ đã đáp ứng yêu cầu đặt ra như việc đảm bảo tính thống nhất
về mặt phạm vi , phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa kế toán và các bộ
phận liên quan cũng như nội dung của công tác kế toán đồng thời đảm bảo số liệu
kế toán phản ánh một cách trung thực, hợp lý, dễ hiểu.
Công ty luôn chấp hành các chính sách, chế độ kế toán tài chính của Nhà
nước, các chính sách về giá, thuế, tổ chức sổ sách một cách phù hợp để phản ánh
và giám đốc việc xác định thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm. Tổ
chức kế toán đầy đủ, hợp thức các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhờ đó kế toán tiêu
thụ đã góp phần bảo vệ tài sản của Công ty, đảm bảo lĩnh vực sản xuất và lưu
thông đạt hiệu quả cao.
Do đặc điểm kinh tế kỹ thuật tại Công ty là các nghiệp vụ xuất kho diễn ra
thường xuyên với khối lượng lớn vì vậy việc theo dõi thành phẩm và tiêu thụ thành
phẩm thực tế không đơn giản. Song nhờ áp dụng phần mềm kế toán hiện đại, Công
ty đã tổ chức khâu tiêu thụ một cách linh hoạt sao cho vừa đơn giản vừa đáp ứng

được yêu cầu của quản lý.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Về hạch toán thành phẩm
Đặc điểm của Công ty May Chiến Thắng là số lượng chủng loại thành phẩm
lớn. Để thuận lợi trong việc quản lý thành phẩm cũng như thích hợp với việc áp
dụng chế độ kế toán máy, kế toán Công ty đã tiến hành đặt mã hoá sản phẩm. Tuy
nhiên việc đặt mã hoá này không thống nhất với kho thành phẩm nên trong qúa
trình đối chiếu giữa kế toán và kho gặp nhiều khó khăn, vẫn phải kiểm tra theo tên
gọi của sản phẩm.
Về kế toán doanh thu tiêu thụ
Hoạt động chủ yếu của Công ty May Chiến Thắng là gia công hàng xuất
khẩu còn lượng hàng tiêu thụ nội địa chiếm phần không đáng kể trong tổng doanh
thu tiêu thụ nên trong các bảng kê cũng như các sổ tổng hợp kế toán tiêu thụ không
theo dõi riêng biệt giữa doanh thu tiêu thụ nội bộ cũng như doanh thu tiêu thụ xuất
khẩu. Điều này, đã gây khó khăn trong việc đối chiếu so sánh giữa hàng tiêu thụ
trong nước và nước ngoài.
Trong quá trình gia công theo đơn đặt hàng cho nước ngoài có phát sinh
những khoản chi phí như chi phí bốc dỡ, chi phí mua thêm các nguyên phụ liệu...
Theo hợp đồng gia công khoản này do bên đặt hàng chịu và thanh toán lại cho
Công ty cùng với tiền gia công. Hiện nay, Công ty lại hạch toán phần chi phí này
vào doanh thu tiêu thụ thành phẩm. Phần này thực ra không nằm trong đơn giá gia
công mà chỉ là một khoản chi hộ khách hàng nên việc hạch toán vào doanh thu là
không hợp lý.
Về kế toán giá vốn hàng bán
Doanh nghiệp không hạch toán giá vốn hàng bán riêng biệt đối với sản phẩm
tiêu thụ xuất khẩu và sản phẩm tiêu thụ nội địa nên gây khó khăn trong việc xác
định kết quả tiêu thụ giữa hàng tiêu thụ trong nước và nước ngoài.
Việc giao hàng của Công ty do Phòng phục vụ sản xuất đảm nhiệm. Chủ yếu
giao hàng của Công ty là tại kho nhưng trong một số trường hợp vẫn phải giao
hàng tại những địa điểm khác do khách hàng yêu cầu như Cảng Hải Phòng, Sân

bay Tân Sơn Nhất, Sân bay Nội Bài... và như vậy là phải vận chuyển hàng. Nhưng
mỗi khi xuất hàng ra khỏi kho, Công ty đã xác nhận là đã tiêu thụ ngay và được ghi
nhận giá vốn theo định khoản:
Nợ TK 632
Có TK 155
Trường hợp Công ty giao hàng tại địa điểm rất xa như Sân bay Tân Sơn
Nhất thì hàng không thể giao ngay cho khách hàng nên có thể gặp những rủi ro nên
chưa thể xác định được là hàng đã tiêu thụ. Công ty nên hạch toán số hàng qua tài
khoản 157- hàng gửi bán.
Đối với kế toán giá vốn hàng bán đối với hàng tiêu thụ nội địa, Công ty tính
theo giá thực tế đích danh. Trong điều kiện lượng hàng tiêu thụ nội địa ít thì việc
Công ty tính giá vốn hàng tiêu thụ nội địa theo giá thực tế đích danh không gây
khó khăn trong việc xác định giá vốn hàng bán. Nhưng nếu Công ty muốn mở rộng
thị trường tiêu thụ trong nước, khi lượng hàng tiêu thụ nội địa tăng lên thì việc xác
định giá vốn hàng bán tiêu thụ nội địa theo giá thực tế đích danh là không phù hợp
vì nó gây khó khăn trong việc quản lý giá vốn hàng bán, dễ gây nhầm lẫn vì chủng
loại hàng hoá nhiều, lượng hàng xuất nhập kho nhiều lần.
Về kế toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Kế toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp được theo dõi trên bảng
kê chi tiết tài khoản 641, 642. Song chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp được phân bổ hết cho sản phẩm may mà không hề phân bổ cho các loại
hàng hoá khác. Đây là vấn đề chưa thích hợp vì nó làm ảnh hưởng đến báo cáo kết
quả kinh doanh của từng loại sản phẩm, từng đơn đặt hàng, từng khách hàng. Nó
có thể tạo ra sự sai sót trong việc ký kết hợp đồng do đã vô tình làm giảm sức cạnh
tranh qua việc đưa đơn giá sản phẩm may lên cao
Về kế toán xác định kết quả tiêu thụ
Công ty không xác định kết quả kinh doanh riêng cho sản phẩm tiêu thụ nội
địa và sản phẩm tiêu thụ nước ngoài mà công ty hạch toán chung đối với từng loại
sản phẩm thông qua Bảng kê chi tiết tài khoản 911 được chi tiết thành TK
9110, TK 9111, TK 9112.

Về hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán
Hiện nay, Công ty đang sử dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ, tuy
nhiên chưa được đầy đủ và còn bộc lộ một số hạn chế nhất định trong việc ghi
chép.
Để xác định kết quả kinh doanh Công ty không mở “Nhật ký chứng từ số 8”
để theo dõi phát sinh bên Có của tài khoản : TK 155, TK 156, TK 158, TK 131,
TK 511, TK 632, TK 641, TK 642... TK 911 để từ đó làm căn cứ ghi sổ Cái các tài
khoản. Thay vào đó Công ty lập Bảng kê tài khoản 911 để theo dõi số phát sinh
của các tài khoản 511, 632, 641, 642 và 911. Nếu ta chỉ quan tâm đến chỉ tiêu lợi
nhuận mà không cần quan tâm đến sự liên quan đến các tài khoản khác thì việc lập
Bảng kê tài khoản 911 là phù hợp. Nhưng còn nhiều thông tin mà Công ty cần đối
chiếu so sánh nên nếu chỉ phản ánh ở Bảng kê tài khoản 911 thì không phản ánh
được sự liên kết giữa các số liệu có liên quan trên cùng một sổ tổng hợp.
Để quản lý các khoản phải thu của khách hàng, Công ty mở Sổ theo dõi tiền
hàng để hạch toán chi tiết các khoản phải thu của khách hàng. Cuối kỳ, kế toán
tổng hợp các khoản phải thu của khách hàng trên “Bảng kê số 11”. Nhưng Bảng kê
này lại không theo dõi chi tiết các tài khoản đối ứng với số dư Có TK 131, mà chỉ

×