Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ CHO NGÀNH Y TẾ THỜI KỲ 1991-2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.98 KB, 44 trang )

THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ CHO NGÀNH Y TẾ THỜI
KỲ 1991-2000
I. TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO NGÀNH Y TẾ
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Y tế nước
ta được bao cấp hoàn toàn từ nguồn Ngân sách nhà nước, điều này được
thể hiện trong hầu hết mọi mặt: xây dựng, sửa chữa các trang thiết bị y tế
từ trung ương đến địa phương, mua sắm các trang thiết bị y tế từ đơn
giản đến hiện đại, đào tạo nhân lực y tế, người dân khi đến các cơ sở y tế
đã không phải trả tiền khám chữa bệnh, tiền thuốc mà trong thời gian
nằm điều trị còn được nuôi ăn.
Trong điều kiện đất nước tiến hành chiến tranh giải phóng dân
tộc, phương thức quản lý trên là hoàn toàn phù hợp, đóng vai trò quan
trọng trong việc thiết lập và củng cố hệ thống y tế nước ta, góp phần bảo
vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng ở miền
Nam, thể hiện tính nhân đạo của nền y tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng sau
khi kết thúc chiến tranh, bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước,
nhất là những năm gần đây khi chúng ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, phương thức trên đã bộc
lộ nhiều hạn chế, tạo tâm lý ỷ lại vào ngân sách nhà nước. Cán bộ y tế
chỉ biết trông chờ vào ngân sách được cấp, chi tiêu một cách thụ động
theo danh mục được áp đặt, thủ tiêu tính năng động sáng tạo trong việc
khai thác các nguồn kinh tế khác cũng như tìm ra cơ chế sử dụng kinh
phí hợp lý để tăng cường hiệu quả sử dụng. Người dân có thói quen được
phục vụ vô điều kiện mà không biết mình phải có trách nhiệm gì trong
việc đóng góp xây dựng ngành y tế và góp phần chăm lo đời sống của
cán bộ y tế.
Năm 1986, Chính phủ đã khởi xướng một chương trình cải
cách kinh tế trên quy mô lớn. Đây là chương trình tất yếu phải được thực
hiện khi mà nền kinh tế vĩ mô bị lâm vào tình trạng sa sút và khủng
hoảng kinh tế trầm trọng. Sau năm 1979, nguồn tài trợ từ các nước


1
phương Tây cho Việt Nam giảm mạnh. Việc nguồn tài trợ từ các nước
phương Tây giảm cùng với tình trạng cô lập về chính trị của Việt Nam đã
đến cùng với thời kỳ lạm phát trầm trọng và tình trạng bất ổn của nền
kinh tế vĩ mô khoảng đầu và giữa thập kỷ 1980. Nguồn chi ngân sách
Nhà nước không thể giữ được tỷ lệ như trước đó và hầu hết các ngành,
đặc biệt là y tế và giáo giục đã phải cắt giảm phần lớn kinh phí.
Nhiều hoạt động đổi mới đã được áp dụng cho ngành y tế.
Việc đưa viện phí vào áp dụng tại các cơ sở y tế công tuyến trên (bệnh
viện), quy định về pháp luật đối với các hoạt động hành nghề y tế tư
nhân, tự do hoá ngành công nghiệp dược và việc bỏ quy định trong bán
lẻ thuốc và dược phẩm là một số các hoạt động đổi mới quan trọng nhất.
Tất cả các hoạt động đổi mới này đều có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành y
tế và hành vi tìm kiếm các dịch vụ y tế của các hộ gia đình.
Một trong những đổi mới quan trọng là từ năm 1993 ngành y
tế đã áp dụng phương thức bảo hiểm y tế cho nhiều đối tượng trong xã
hội bao gồm cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Từ đó đến
nay nguồn thu này đã phát triển nhanh chóng và cùng với nguồn thu từ
viện phí trở thành nguồn lực bổ sung quan trọng trong ngành y tế, đặc
biệt là ở tuyến 2 và tuyến 3 (khám và chữa bệnh), góp phần giảm sự căng
thẳng ngân sách của ngành y tế.
Hiện nay, các nguồn tài chính chủ yếu cung cấp kinh phí cho ngành y
tế bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước.
- Bảo hiểm y tế.
- Viện phí.
- Các nguồn khác trong đó chủ yếu là nguồn viện trợ nước ngoài.
1.Ngân sách Nhà nước đầu tư cho y tế
a/ Quy mô cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
2

Ngành y tế Việt Nam hiện nay hoạt động dựa trên kinh phí từ
nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên, nguồn ngân sách Nhà nước vẫn luôn
chiếm tỷ trọng cao và giữ vai trò chủ đạo. Nguồn vốn này được sử dụng
để xây dựng và sửa chữa những công trình y tế quan trọng, mua sắm
những trang thiết bị y tế cần thiết, hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế,
thực hiện các chương trình y tế quốc gia...
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, Nhà nước đã
chú trọng đầu tư phát triển ngành y tế từ việc xây dựng hệ thống phòng
bệnh và khám chữa bệnh, việc thực hiện các chương trình y tế quốc gia đến
việc đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách, phương thức
quản lý và hành lang pháp luật trong ngành y tế. Nhờ có sự quan tâm đầu
tư của Nhà nước mà hệ thống y tế Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Chi ngân sách Nhà nước cho y tế hàng năm chiếm tỷ trọng khoảng 4
- 5% tổng chi ngân sách. Đây là con số tuy không lớn nhưng lại là sự cố
gắng lớn của Nhà nước trong việc duy trì và hiện đại hoá nền y tế nước
nhà. Điều này được thể hiện trong bảng 4- Chi tiêu đầu tư cho y tế.
3
Bảng 4 - Chi tiêu ngân sách Nhà nước cho y tế. (Đơn vị: nghìn tỷ đồng).
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng dân số
(triệu người)
- 67,774 69,405 71,025 72,025 73,962 75,335 76,714 78,095 80,0 --
Chi NSNN
-Chi cho y tế
-Tỷ trọng (%)
9,186
0,4392
4,48
12,081
0,7633

6,32
23,710
1,1824
4,99
39,063
2,017
5,16
44,207
3,823
8,6
62,679
2,892
4,6
70,539
3,246
4,16
78,057
3,852
4,93
80,820
3,960
4,9
82,500
3,809
4,62
86,635
3,729
4,3
Chi thường
xuyên

-Chi cho y tế
-Tỷ trọng(%)
5,300
0,367
6,9
8,093
0,636
7,8
13,745
1,065
7,7
23,066
1,617
7,0
30,642
3,413
11,1
38,825
2,387
6,14
42,414
2,761
6,5
49,270
3,033
6,15
49,535
3,150
6,36
47,400

2,910
6,14
48,000
3,000
6,25
Chi ĐTXDCB
-Chi cho y tế
-Tỷ trọng(%)
2,704
0,0792
2,93
4,509
0,1273
2,82
5,832
0,1174
2,01
9,538
0,4002
4,2
8,950
0,408
4,56
7,769
0,505
6,34
9,320
0,485
5,21
10,522

0,819
7,78
12,377
0,810
6,54
15,555
0,899
5,78
13,500
0,7285
5,32
NSNN chi cho
y tế /đầu người
(VNĐ)
11,262 17,036 28,402 53,056 39,103 43,078 50,212 50,730 47,981 46,202
(Nguồn: Đánh giá mục tiêu ưu tiên và xu hướng chi tiêu công cộng cho ngành y tế 91-2000
- Nguyễn Trung Dũng và các cộng sự).
4
Mặc dù tổng chi ngân sách tăng qua các năm tăng nhưng tỷ trọng chi cho y
tế có xu hướng giảm. Đặc biệt từ năm 1997, do có sự chững lại trong phát triển
kinh tế nên chi cho y tế còn giảm cả về giá trị tuyệt đối. Chi thường xuyên cho y tế
khá cao, chiếm khoảng 7% chi thường xuyên ngân sách Nhà nước. Đây là khoản
chi cho bộ máy quản lý các bệnh viện, bác sĩ, y tá, đặc biệt là việc trả lương cho hệ
thống y tế xã. Điều này có tác dụng duy trì hệ thống y tế xã, tăng khả năng tiếp cận
của người dân đối với các dịch vụ y tế. Chi đầu tư xây dựng cơ bản ngành y tế tăng
khoảng 10 lần từ năm 1990 đến năm 2000. Năm 1990 con số này chỉ là 0, 0792
nghìn tỷ đồng, đến năm 2000 đã là 0,7285 nghìn tỷ đồng. Điều này chứng tỏ Nhà
nước đã chú trọng việc hiện đại hoá nền y tế Việt Nam.
Qua số liệu đầu tư cho ngành y tế trong giai đoạn 1991- 2000 chúng ta nhận
thấy rằng tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng Đảng và Chính phủ rất cố gắng giành

nguồn đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Tỷ trọng
đầu tư giành cho y tế từ nguồn ngân sách Nhà nước được duy trì ở mức từ 4-5%
tổng chi ngân sách, đặc biệt năm 1994 đạt tới mức 8,6%. Để nâng cao chất lượng
các dịch vụ khám chữa bệnh cho người bệnh tại các tuyến, giảm sự căng thẳng về
điều trị tại các cơ sở y tế và đẩy mạnh nhiều hơn nữa hoạt động của y tế cơ sở đặc
biệt là y tế xã và y tế thôn bản. Nhà nước đã nâng tỷ trọng đầu tư xây dựng cho y tế
trong chi đầu tư xây dựng chung từ 2,93% năm 1990 lên khoảng 6% vào những
năm 1996- 1998, riêng trong năm 1997, tỷ trọng này đạt tới 7,78%. Hầu như toàn
bộ hệ thống y tế từ trung ương đến cơ sở được cải tạo, nâng cấp về cơ sở trang thiết
bị chuyên môn y tế, bao gồm 95 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng, bệnh viện các tỉnh với 113000 giường bệnh. Nhiều kỹ thuật chẩn
đoán và điều trị hiện đại được đầu tư và triển khai hiệu quả như: chụp cắt lớp, chụp
mạch máu, mổ nội soi, phá sỏi thận ngoài cơ thể,... Với mục tiêu đến cuối năm
2000 sẽ thanh toán xã trắng về y tế, Nhà nước đã ưu tiên tập trung đầu tư cho công
việc xây dựng và nâng cấp trạm y tế xã (đến năm 1996 chỉ tiêu này đã đạt 95,6%).
Chắc chắn sau năm 2000 chúng ta sẽ bảo đảm thực hiện được chỉ tiêu do Đại hội
Trung ương Đảng VIII đề ra: 100% số xã có trạm y tế.
5
Ngân sách chi thường xuyên cho các hoạt động y tế được duy trì từ 6-7%
tổng chi ngân sách của cả quốc gia. Ngân sách Nhà nước chi cho y tế trên đầu
người cũng tăng song cũng chững lại từ năm 1998 trở lại đây một phần do có sự
gia tăng về dân số, một phần do sự cắt giảm trong ngân sách y tế của Nhà nước.
Nước ta là một trong những nước có chỉ tiêu ngân sách y tế trên đầu người thấp
nhất khu vực, kém xa mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 12 USD/năm.
Như vậy, từ số liệu về chi tiêu ngân sách Nhà nước cho y tế, ta có thể thấy
rằng chi tiêu cho y tế từ ngân sách phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế
xã hội của Nhà nước cũng như phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội
nói chung. Trong những năm gần đây do có sự đúng đắn trong nhận thức về tầm
quan trọng của ngành y tế, Nhà nước đã có những chính sách thuận lợi tạo điều
kiện cho y tế Việt Nam phát triển hiện đại. Song cùng với nó, cần phải thúc đẩy sự

phát triển của nền kinh tế, nâng cao thu nhập cũng như trình độ của nhân dân. Chỉ
có như vậy, ngành y tế mới có thể phát triển và phát huy được vai trò của mình
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cán bộ và nhân dân.
Bên cạnh việc tăng cường vốn đầu tư cho ngành y tế, Nhà nước cần cải
thiện cơ cấu vốn đầu tư cho ngành y tế nhằm không những mở rộng mà còn hiện
đại hoá hệ thống y tế, chú trọng nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế. Trong
những năm qua, nhìn chung ngân sách y tế phân theo lĩnh vực vẫn không có
chuyển biến lớn. Theo bảng 5- Ngân sách y tế phân theo lĩnh vực năm 1999,
tổng chi ngân sách cho y tế năm 1999 là 4756,75 tỷ đồng. Trong đó, chi cho sự
nghiệp y tế là 4004,54 tỷ đồng chiếm 84,07% tổng ngân sách y tế, chi cho xây
dựng cơ bản tuyến trung ương là 649,85 tỷ đồng chiếm 16,66%. Mặc dù đã có
chính sách tạo điều kiện thúc đẩy việc đào tạo và nghiên cứu khoa học nhưng tỷ
lệ ngân sách giành cho đào tạo và nghiên cứu khoa học chỉ chiếm 2,02% ngân
sách y tế. Quản lý hành chính năm 1999 là 6,54 tỷ đồng chiếm 0,14% ngân sách.
6
Bảng 5- Ngân sách y tế phân theo lĩnh vực, 1999.
Tổng số (tỷ
đồng)
Tỷ trọng (%)
Tổng số chi
1.Xây dựng cơ bản tuyến trung ương
2.Nghiên cứu khoa học
3.Đào tạo
4.Chi cho sự nghiệp y tế theo nguồn
Trong đó:
- Viện trợ + vốn vay
- Viện phí
- BHYT
- NS Nhà nước cấp
5.Quản lý hành chính

4756,75
649,85
11,75
84,07
4004,54
426,00
570,00
600,00
2402,00
6,54
100,00
16,66
0,25
1,77
84,19
8,96
11,96
12,61
50,50
0,14
(Nguồn: Niên giám thống kê y tế 1999).
Hàng năm, Nhà nước ta đã giành ra một phần ngân sách để đầu tư cho y tế,
trong đó có Bộ Y tế. Tình hình cấp vốn ngân sách chỉ tính riêng cho Bộ Y tế có
chiều hướng tăng ổn định. Theo số liệu bảng 6 - Tình hình cấp vốn đầu tư cho Bộ
Y tế. Năm 1996, tổng vốn đầu tư cấp cho Bộ Y tế là 66,7 tỷ đồng, đến năm 1997 là
72,5 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 1996. Riêng năm 1998, Bộ Y tế được cấp
236,316 tỷ đồng, tăng 127% so với năm 1997.
7
Bảng 6 - Tình hình cấp vốn đầu tư cho Bộ Y tế 1996- 1998
Năm Đơn vị 1996 1997 1998

Tổng số
Tăng so năm
trước
Trong đó
Xây lắp
Thiết bị
Chi khác
Tỷ đồng
%
%
%
%
66,7
_
76,9
15,7
7,4
72,5
8
66,4
27,3
6,3
236,316
127
63,6
30,3
6,1
(Nguồn : Niên giám thống kê Y tế 1997, 1998 1999)
Như vậy, vốn đầu tư cho Bộ Y tế tăng qua các năm. Trong đó tỷ trọng đầu tư
cho xây lắp giảm (từ 76,9% năm 1996 xuống còn 63,6% năm 1998), tỷ trọng đầu

tư cho thiết bị tăng (17,5% năm 1996 lên 30,3% năm 1998). Điều này chứng tỏ Bộ
Y tế đã quan tâm đến chất lượng của hệ thống y tế, đầu tư đổi mới các máy móc
thiết bị phù hợp, hiện đại nhằm rút ngắn khoảng cách về kỹ thuật giữa y tế Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giơí.
Ngoài ra, các địa phương (tỉnh, huyện, xã) cũng đã quan tâm đầu tư cho y tế.
Đầu tư cho y tế từ ngân sách địa phương hiện nay chiếm tỷ trọng khá cao và có vai
trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển hệ thống y tế cơ sở.
b/ Đầu tư cho hệ thống phòng bệnh.
Từ nguồn vốn ngân sách, chúng ta đầu tư xây dựng và củng cố 5 bệnh
viện quốc gia, 6 bệnh viện khu vực và 53 trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh, tổ
chức lồng ghép ở 574 trung tâm y tế huyện và 10105 trạm y tế xã. Nhờ vậy, hệ
thống y tế dự phòng đã bắt đầu thực hiện được chức năng theo dõi giám sát phát
hiện dịch, tổ chức khống chế và đi tới dập tắt các ổ dịch góp phần làm giảm số
vụ dịch, số người mắc và chết do dịch gây ra.
Ngành y tế còn tổ chức các chương trình y tế quốc gia như: chương trình
phòng chống bệnh phong, bệnh lao, bệnh sốt rét, bệnh biếu cổ, phòng chống suy
8
dinh dưỡng ở trẻ em, chương trình bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng, chương
trình tiêm chủng mở rộng, phòng chống bệnh sốt xuất huyết... Nhờ vậy mà mặc dù
là một trong những nước nghèo nhất châu Á song các chỉ số sức khoẻ ở Việt Nam
khả quan hơn nhiều so với mức thu nhập dự tính.
c/ Đầu tư cho hệ thống khám chữa bệnh
Với phương châm tăng cường mạng lưới y tế cơ sở, trong những năm 1994 -
2000 Nhà nước đã đầu tư khoảng 250 tỷ đồng xây dựng và nâng cấp 1713 trạm y tế
xã, cơ bản xoá xã trắng về y tế. Ngoài ra Chính phủ còn đứng ra vay vốn của Ngân
hàng Thế giới và Ngân hàng châu Á 250 triệu USD để chi tiêu cho ngành y tế và
kế hoạch hoá gia đình, trong đó giành ra 80 triệu USD tương đương với 1120 tỷ
đồng Việt Nam để xây dựng 4564 trạm y tế xã, nâng cấp và tăng cường trang thiết
bị cho 321 bệnh viện huyện, 15 trung tâm y tế tuyến tỉnh, 440 nhà y tế bản của 32
tỉnh... Nếu loại trừ thiên tai tàn phá thì đến năm 2000 hầu hết các xã trong cả nước

đều có trạm y tế.
Trong 10 năm 1991-2000, ngân sách Nhà nước đã giành ra khoảng
62030 tỷ đồng để xây dựng và cải tạo hệ thống khám chữa bệnh với 30 bệnh
viện tuyến trung ương đều được cải tạo và nâng cấp; 700 bệnh viện chuyên khoa
tuyến huyện, tuyến tỉnh cũng bước đầu được cải tạo và tăng cường trang thiết bị
mới. Nhà nước đã giành hơn 400 tỷ đồng để đầu tư cho hai trung tâm y tế
chuyên sâu là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến năm 1999, ngân
sách Nhà nước đã đầu tư trên 400 tỷ đồng để nhập các loại máy siêu âm chẩn
đoán, máy tán sỏi, máy CT Scanner, máy cộng hưởng từ... Nhờ vậy ngành y tế
đã phát hiện kịp thời và chữa khỏi nhiều trường hợp mà trước đây y tế đành bó
tay. Đến năm 1995, cứ 1 triệu dân có 155 cơ sở và 431 người dân có 1 giường
bệnh. Tỷ lệ này là khá cao so với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, đối với cơ sở phòng bệnh và khám chữa bệnh vấn đề
không phải là số lượng mà là điều kiện của các cơ sở đó (tính hiện đại và đồng
bộ...). Phần lớn các bệnh viện trên cả nước đều có trình độ kỹ thuật lạc hậu,
thiếu ngân sách để bảo trì, cán bộ ít được cập nhật kiến thức.
9
Cơ sở vật chất y tế không được phân bổ đều giữa các vùng trong cả
nước, phần lớn các trang thiết bị hiện đại, cán bộ giỏi đều tập trung tại Hà nội,
Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác. Trên một số địa bàn bố trí
nhiều cơ sở y tế chồng chéo gây lãng phí nhân tài vật lực. Trong khi các bệnh
viện trung ương thì quá tải, các bệnh viện huyện lại chưa sử dụng hết năng lực.
Như vậy, trong 10 năm qua, Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho hệ
thống phòng cũng như khám chữa bệnh trên cả nước. Tuy còn nhiều thiếu sót
song hệ thống này đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của
cán bộ và nhân dân ta.
2. Nguồn viện trợ quốc tế
Ở Việt Nam hiện nay, có một số ước tính khác nhau về tổng số viện trợ
ODA cho ngành y tế, ví dụ các số liệu của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Y tế, và cả các nhà tài trợ. Hầu hết các số liệu này không thống nhất với

nhau. Một nguyên nhân quan trọng của sự không thống nhất này là vì một số
viện trợ ODA được rót vào ngân sách Nhà nước, trong khi một số không theo
đường ngân sách mà đi trực tiếp vào những dự án hỗ trợ địa phương. Một lý do
khác là các nhà tài trợ khác nhau thì có sự tính toán khác nhau về sự đóng góp
của họ.
Ban Quản lý các dự án Bộ Y tế có trách nhiệm giúp Bộ Y tế điều phối các
nhà tài trợ và các hỗ trợ của các Tổ chức phi chính phủ cho ngành y tế đã báo cáo
rằng, vào cuối tháng 12 năm 1998, trong lĩnh vực y tế có tổng số 179 dự án ODA
đang được thực hiện, với tổng cam kết là 668 triệu USD (Ban Quản lý các dự án,
1999). Các chương trình dọc (hỗ trợ các chương trình y tế quốc gia), kế hoạch hoá
gia đình (KHHGD) và chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ), mỗi nhóm chiếm
khoảng 1/4 của tổng cam kết. Phần còn lại là hỗ trợ cho các bệnh viện và các
phòng khám, xây dựng chính sách và kế hoạch của ngành..
Trong số 179 dự án cho y tế, có 99 dự án trực thuộc Bộ Y tế, được cung cấp
tài chính bởi 19 nước viện trợ song phương, 4 Tổ chức Liên hiệp quốc, Ngân hàng
10
Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á và cộng đồng chung châu Âu... Ngoài ra, có
106 Tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực y tế.
Những mặt được trong việc sử dụng ODA
Trong những năm qua, chúng ta đã tranh thủ được một khối lượng viện trợ
tương đối lớn trong lĩnh vực y tế, góp phần đáng kể trong việc bù đắp cho phần
thiếu hụt của ngân sách Nhà nước giành cho lĩnh vực này. Viện trợ cho lĩnh vực y
tế chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn ODA không hoàn lại mà các nhà tài trợ
cung cấp cho Việt Nam.
Số lượng dự án cho lĩnh vực y tế, sức khoẻ chiếm tỷ lệ cao hơn so với một
số lĩnh vực khác. Quy mô của dự án đã lên đến hàng chục triệu USD đối với nguồn
viện trợ không hoàn lại.
Việc tranh thủ nguồn ODA cho lĩnh vực này diễn ra thuận lợi là do:
- Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đã phối hợp tích cực, chủ động xây
dựng và thực hiện các chương trình và dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực

này.
- Lĩnh vực y tế sức khoẻ là một lĩnh vực xã hội mang nhiều ý nghĩa nhân đạo
và phúc lợi cho con người nên được các nhà tài trợ quan tâm và ưu tiên cung cấp
viện trợ.
- Cơ cấu viện trợ trong lĩnh vực này cũng đã có sự thay đổi tích cực, chuyển
từ giai đoạn hỗ trợ vật chất là chủ yếu sang giai đoạn kết hợp hỗ trợ vật chất,
chuyển giao kỹ thuật, với xây dựng năng lực chuyên môn và quản lý nhằm mục
tiêu sử dụng có hiệu quả nhất nguồn viện trợ.
- Việc sử dụng nguồn viện trợ trong thời gian qua phù hợp với mục tiêu ưu
tiên của Chính phủ trong lĩnh vực y tế như:
+ Tăng cường trang thiết bị, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới các cơ sở y
tế các cấp, đặc biệt ở cấp cơ sở, cũng như cung cấp thuốc thiết yếu nhằm cải thiện
điều kiện và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ, phòng chống và chữa bệnh
cho nhân dân.
11
+ Cùng với ngân sách Nhà nước thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia
và các chương trình mục tiêu về phòng chống bệnh tật, đem lại hiệu quả thiết thực
như: tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dinh dưỡng, phòng chống
lao, nhiễm khuẩn đường hô hấp, phòng chống biếu cổ, chống sốt rét, chống tiêu
chảy...
+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn và
quản lý từ cấp trung ương đến cấp cơ sở thông qua hoạt động đào tạo dài hạn và
trung hạn ở nước ngoài, nghiên cứu, khảo sát và các lớp tập huấn ngắn hạn trong
và ngoài nước.
Những tồn tại và thiếu sót
Trong thời gian qua việc sử dụng viện trợ trong lĩnh vực y tế đã bộc lộ một
số tồn tại và thiếu sót cần được xem xét và khắc phục trong thời gian tới nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng viện trợ. Đó là:
-Việc điều phối, phân bổ và quản lý sử dụng chưa thực sự gắn với quy hoạch
và kế hoạch phát triển của ngành y tế với các ưu tiên trong lĩnh vực sức khoẻ.

- Nhận thức về viện trợ còn chưa đầy đủ và rõ ràng, nhất là khi phần lớn
nguồn ODA cho lĩnh vực này trong thời gian qua là viện trợ không hoàn lại, dẫn
đến có nơi, có lúc việc sử dụng còn dàn trải, phân tán, chưa tập trung để giải quyết
dứt điểm một số vấn đề sức khoẻ bức bách hoặc những bệnh có ảnh hưởng trên
diện rộng.
-Chưa cân đối và phối hợp tốt nguồn trong nước với nguồn bên ngòai để
đảm bảo các mục tiêu ưu tiên trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân.
-Vẫn còn tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong sử dụng viện trợ: Có những
hiện tượng thừa nhiều loại trang thiết bị y tế ở đơn vị này không được sử dụng
trong khi có nhiều cơ sở khác khó khăn, thiếu thốn về trang thiết bị y tế và cơ sở
vật chất; có lĩnh vực được nhiều nhà tài trợ quan tâm và cùng tài trợ, ví dụ lĩnh vực
chăm sóc sức khoẻ ban đầu có 5 nhà tài trợ; có chương trình phòng chống bệnh tật
12
đã được nhà nước đầu tư từ ngân sánh lại nhận được nhiều viện trợ, trong khi đó có
chương trình ưu tiên thì lại nhận được rất ít (kể cả từ ngân sách và nguồn viện trợ).
-Thiếu chương trình thống nhất từ Trung ương đến địa phương đối với công
tác vận động và tranh trủ viện trợ.
-Thiếu một đầu mối điều phối và quản lý viện trợ trong ngành y tế nên việc
theo dõi, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.
-Công tác xây dựng dự án để vận động viện trợ còn yếu do thiếu số liệu điều
tra cơ bản, đặc biệt không có hệ thống chỉ tiêu để đánh giá, kiểm tra dự án, thiếu
thông tin từ dưới lên.
-Khâu quản lý sau dự án còn buông lỏng.
-Bộ máy quản lý và điều hành thực hiện các chương trình và dự án viện trợ
trong lĩnh vực này còn cồng kềnh, làm giảm hiệu quả sử dụng.
-Năng lực cán bộ làm công tác quản lý viện trợ của ngành còn bị hạn chế cả
về số lượng và chất lượng.
-Sự phối hợp giữa Bộ y tế và các sơ quan điều phối của Chính phủ chưa thật
chặt chẽ.

Điều phối viện trợ ODA
Tất cả các nước đang phát triển mà đang nhận một khối lượng lớn viện trợ
ODA từ các nhà viện trợ và một số tổ chức khác nhau đều có một vấn đề cần quan
tâm là việc điều phối hoạt động của các nhà tài trợ. Vấn đề này đặc biệt quan trọng
ở Việt Nam vì cho đến tận những năm đầu của thập kỷ 90, Chính phủ không có
nhiều kinh nghiệm đối với viện trợ bên ngoài cho ngành y tế. Năng lực quản lý và
giám sát của Bộ Y tế còn hạn chế. Việc theo dõi và điều phối hoạt động của hơn 99
dự án ODA trong ngành y tế với tổng cam kết là 470 triệu USD đã là một nhiệm vụ
nặng nề cho Bộ Y tế. Kết quả là đôi khi Bộ Y tế ít có sự tham gia trong việc xác
định và xây dựng các dự án ODA. Điều này dẫn đến 4 hậu quả xấu: Thứ nhất, một
số dự án y tế được viện trợ không tập trung vào các ưu tiên của Chính phủ trong
lĩnh vực y tế. Thứ hai, thiếu sự điều phối giữa các nhà tài trợ và Chính phủ cũng
13
như là giữa các nhà tài trợ với nhau dẫn đến hậu quả là có sự chồng chéo, trùng
lặp, không nhất quán trong các chương trình của Nhà nước và của các nhà tài trợ.
Điều này làm giảm hiệu quả chung của viện trợ cho ngành y tế. Thứ ba, thiếu sự
tham gia của Bộ Y tế trong việc xác định và thiết kế dự án, có nghĩa là các cán bộ
của Bộ đã để lỡ mất những cơ hội quý giá để phát triển năng lực trong lĩnh vực
này. Thứ tư là việc thực hiện các dự án đầu tư cũng gặp khó khăn vì các đối tác địa
phương không cảm thấy họ là chủ dự án.
Tình trạng tương tự như vậy cũng thấy trong việc theo dõi và đánh giá các
dự án viện trợ. Việc này thường được để lại cho các nhà tài trợ, một phần vì nhu
cầu và kế hoạch đánh giá là việc các nhà tài trợ quan tâm nhất, phần nữa là vì đã
vượt quá khả năng về nhân lực của Bộ Y tế. Từ đó dẫn đến một kết quả là biết rất
ít về hiệu quả của viện trợ ODA đối với ngành.
Tuy nhiên Bộ Y tế đã ngày càng quan tâm hơn trong việc điều phối các hoạt
động viện trợ để thúc đẩy các dự án xung quanh các mục tiêu và các ưu tiên
chung.
3. Viện phí
Trước kia, tất cả mọi người đều được chăm sóc sức khoẻ cơ bản miễn phí,

bất kể bệnh nhân có khả năng chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí. Năm 1989,
chế độ viện phí đã được áp dụng ở 3 tuyến trên (huyện, tỉnh, trung ương) trong
hệ thống cung cấp dịch vụ y tế, yêu cầu những bệnh nhân có khả năng chi trả ít
nhất là một phần chi phí. Riêng người tàn tật, trẻ mồ côi, gia đình cán bộ y tế,
những người nghèo đói được thôn xóm và địa phương chứng nhận và những
người mắc các chứng bệnh xã hội như tâm thần, phong, lao được điều trị miễn
phí.
Năm 1985, Bộ Y tế ban hành các mức phí cho các loại hình khám, chẩn đoán
và các dịch vụ tại các phòng khám và bệnh viện. Đối với các dịch vụ nội trú, còn
tính cả chi phí nằm viện hàng ngày. Mức phí được quy định khác nhau giữa các
tuyến bệnh viện (Nghĩa là bệnh viện loại I, loại II, loại II, loại IV và phòng khám
đa khoa...) Thêm vào đó, mức phí được quy định theo khoảng cho mỗi loại dịch
14
vụ. Ví dụ, mức phí cho toàn bộ một lần khám bệnh để cấp giấy chứng nhận đủ sức
khoẻ lao động là từ 25- 50000 đồng ở bệnh viện loại I, 25- 40000 đồng ở bệnh viện
loại II, 18- 35000 ở bệnh viện loại III.
Từ khi ra đời (năm 1989) đến nay, lượng tiền thu từ viện phí chi cho y tế
ngày càng tăng. So với tổng ngân sách của ngành y tế thì viện phí chiếm tỷ trọng
không lớn (dưới 10 %). Mặc dù không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ngân sách y tế
song viện phí lại chiếm tỷ lệ đáng kể (khoảng 50%) trong các chi phí ở bệnh viện
hiện nay. Ngoài nguồn ngân sách trung ương cũng như hỗ trợ từ ngân sách địa
phương, hoạt động của bệnh viện còn phải dựa trên nguồn thu từ viện phí. Hiện
nay đã có hướng dẫn về việc sử dụng tiền viện phí, đặc biệt là trong các bệnh viện.
70 % số viện phí thu được dùng để cải thiện việc cung cấp các vật liệu tiêu hao
(thuốc, cung cấp máu, hoá chất, nguyên liệu cho điện quang...) và trang thiết bị y tế
cho cơ sở y tế đó, 25- 28 % dùng để thưởng cho nhân viên và 2-8 % được chuyển
lên tuyến trên để thành lập quỹ hỗ trợ cho bệnh viện. Bệnh viện không được sử
dụng tiền viện phí vào việc xây dựng.
Việc ngân sách thu được từ viện phí tăng là một dấu hiệu tốt trong việc thu
hút vốn đầu tư cho y tế. Tuy nhiên, viện phí tăng sẽ dẫn tới gánh nặng cho người

dân đặc biệt là người nghèo. Nghiên cứu tại 4 tỉnh gần đây của Bộ Y tế (1998) cho
thấy có tới 43-63 % bệnh nhân điều trị nội trú ở 30 bệnh viện huyện đã không có
sẵn tiền để thanh toán viện phí mà phải vay mượn hoặc bán một số tài sản. Một tỷ
lệ người đã vì ốm, vì nằm viện mà trở nên nghèo túng. Một yếu tố quan trọng trong
vấn đề thu hồi viện phí là phải đảm bảo cho người nghèo và người chịu thiệt thòi
không phải chịu gánh nặng viện phí. Hiện nay ở Việt Nam có một cơ chế chính
thức để miễn phí cho những nhóm người nhất định như là người nghèo, tàn tật, cựu
chiến binh, trẻ mồ côi và một số người mắc phải một số bệnh cụ thể như lao,
phong... Thêm vào đó, trẻ em nhận được một số dịch vụ miễn phí từ các chương
trình dọc do trung ương hoặc các tổ chức viện trợ trực tiếp cấp vốn. Trước mắt,
khi những nguồn thu khác còn hạn chế, chúng ta chưa thể giảm mức thu viện phí,
song trong tương lai, có lẽ phải khống chế nguồn thu này để bảo vệ lợi ích của
người nghèo.
15
4.Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế được chính thức bắt đầu ở Việt Nam năm 1993. Cho đến nay,
số thu từ bảo hiểm y tế ngày càng tăng và trở thành nguồn thu khá quan trọng trong
tổng ngân sách y tế (chiếm khoảng 16 % tổng ngân sách y tế). Hiện nay, chúng ta
có hai phương thức bảo hiểm. Đó là phương thức bảo hiểm bắt buộc đối với tất cả
cán bộ, nhân viên Nhà nước đương chức cũng như đã nghỉ hưu và các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh lớn (có trên 10 nhân viên) và phương thức bảo hiểm tự
nguyện nhằm vào các đối tượng còn lại như nông dân, học sinh phổ thông và
những đối tượng khác.
Hiện nay, cùng với viện phí, bảo hiểm y tế trở thành nguồn thu đáng kể phục
vụ cho các hoạt động y tế, góp phần làm giảm sự căng thẳng cho ngân sách Nhà
nước. Hình thức bảo hiểm y tế là một hình thức làm tăng kinh phí cho y tế một
cách công bằng, phù hợp với hầu hết mọi đối tượng trong xã hội cần được phát huy
nhằm tăng nguồn thu cho các hoạt động đầu tư y tế cà làm giảm gánh nặng của
người dân khi mắc bệnh và phải điều trị.
Theo số liệu trong bảng 7- Hoạt động bảo hiểm y tế giai đoạn 1993- 1999,

từ năm 1993, số thu từ bảo hiểm y tế tăng đều, năm 1993 số tiền thu được từ bảo
hiểm y tế là 111 tỷ đồng, chi cho khám chữa bệnh là 75 tỷ đồng, đến năm 1999,
tổng số thu từ bảo hiểm y tế tăng 7 lần so với năm 1993 và đạt 760,5 tỷ đồng. Phần
lớn số tiền thu được từ bảo hiểm y tế được chi cho việc khám chữa bệnh, khoảng
80% tổng số thu bảo hiểm y tế dược sử dụng cho khám chữa bệnh.
Bảng 7- Hoạt động bảo hiểm y tế giai đoạn 1993- 1999
Năm Tổng số thu Tổng số chi cho Tỷ lệ chi/thu
16
BHYT
(tỷ đồng)
khám chữa bệnh
(tỷ đồng)
BHYT
(%)
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
111,0
256,0
400,0
520,0
570,0
669,0
760,5
75,0
189,9

310,4
489,0
500,0
522,0
587,1
67,6
74,2
77,6
94,0
87,7
78,0
77,2
(Nguồn niên giám thống kê y tế 1999)
Độ bao phủ của bảo hiểm y tế
Theo số liệu bảng 8- Tham gia bảo hiểm y tế giai đoạn 1993- 1999, số người
tham gia bảo hiểm y tế tăng lên gấp 3 lần từ năm 1993 đến năm 1999, chiếm
khoảng 14 % tổng dân số. Năm 1993 chỉ có 3,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế,
chiếm 5,4% dân số. Đến năm 1999, con số này đã là 10,5 triệu người, đạt 13,77%
dân số. Tuy số người tham gia bảo hiểm y tế có tăng qua các năm song so với tiềm
năng thì số lượng này còn quá nhỏ bé.
Bảng 8- Tham gia bảo hiểm y tế giai đoạn 1993- 1999
Năm Số người tham gia
BHYT(triệu người)
Tỷ lệ dân số tham gia
BHYT(%)
1993
1994
1995
1996
1997

1998
1999
3,80
4,30
7,10
8,90
9,50
9,79
10,50
5,40
5,90
9,60
11,80
12,40
12,46
13,77
(Nguồn: Niên giám thống kê 1999)
17

×