THỰC TRẠNG CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I.Tình hình chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam:
Tính đến hết năm 2000 đã có 3210 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam được cấp giấy phép đầu tư, với tổng vốn đầu tư hơn 43 tỷ USD (kể cả những
dự án tăng thêmvốn). Trừ những dựa án kết thúc đúng thời hạnvà bị giải thể trước
thời hạn, còn 2628 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư dăng ký trên 36,2 tỷ USD,
trong đó số vốn đầu tư đã thực hiện gần 18 tỷ USD. Vốn FDI chiếm gần 30% tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hàng năm. Các dự án FDI đã góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nước ta, tạo ra nhiều ngành nghề mới, năng lực sản xuất mới,
góp phần duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, giải quyết việc làm
trực tiếp cho hơn 35000 lao động và gián tiếp tạo việc làm cho khoảng 1 triêụ lao
động khác, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, củng cố nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể rút ra một số nhận xét sau đây về
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua:
1. Những mặt tích cực:
1.1 Đầu tư trực tiếp nươc ngoài bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện đại hoá đất nước:
Với số vốn đầu tư đã thực hiện gần 18 tỷ USD (không kể các dự án đã hết hạn và
giải thể) trong đó vốn nươc ngoài đưa vào 16,2 tỷ USD, các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã góp phần đáng kể vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong các năm
qua. Theo đánh giá chung, thời kỳ từ 1991-2000, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
chiếm vị trí thứ hai trong các nguồn vốn đầu tư phát triển, chỉ sau vốn đầu tư tư
nhân và dân cư. Bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm xấp xỉ
30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. đây thực sự là một động lực quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng nhanh nền kinh tế nước ta trong những năm qua.
Thực tế đã chứng minh chủ trương thu hút vốn đầu tư nươc ngoài với việc ra đời
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 của Đảng và Nhà nước ta thời
gian qua là đúng đắn kịp thời, đã bổ xuang nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển , góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước,
tạo ra thế và lực cho phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiên
đại hoá đất nước ta. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng dần qua các năm, thời
kỳ 1991-1995 đạt trên 7 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thời
kỳ 1996-2000 đạt khoảng 12 tỷ USD đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế
và là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện
cán cân thanh toán quốc tế. Đầu tư nước ngoài đã khơi thông và phát huy tiềm
năng vốn có của các nguồn lực trong nước về con người, đất đai, tài nguyên đồng
thời giúp cho Nhà nước chủ động trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư, dành vốn ngân
sách cho đầu tư phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Bên cạnh sự đóng góp từ
nguồn nội lực đầu tư nước ngoài đẫ góp phần tạo nên các nét chấm phá trên bức
tranh toàn cảnh muôn mầu của nền kinh tế nước ta.
1.2.Đầu tư nươc ngoài đã tạo ra một số năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất
mới, phương thức quản lý và kinh doanh mới, tạo việc làm, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tuỷ trọng khá cao trongmột số ngành
như: 100% sản lượng dầu thô, ô tô, xe máy, máy lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, 50%
điện tử gia dụng, 70% sản lượng thép cán, 30% sản lượng xi măng, 32% giầy dép
xuất khẩu, 20% sản lượng thực phẩm và đồ uống, 16% sản lượng may mặc, 14%
sản lượng ngành hoá chất của cả nước .
Bình quân mỗi năm khu vực này đã thu hút thêm 30-35 ngàn lao động trực tiếp
và gián tiếp tạo việc làm cho hàng tăm ngàn lao động khác trong lĩnh vuực dịch vụ,
xây dựng…
Thông qua các dự án trên chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ tiến bộ
trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác
dầu khí, điện-điện tử, sắt thép, sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy, vật liệu xây
dựng…Đồng thời, chúng ta cũng học tập được một số kinh nghiệm quản lý doanh
nghiệp làm ăn trên thương trường quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2000.
(Tính tới ngày 32/12/2000 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực).
Chuyên ngành
Số dự
án
TVĐT
Vốn pháp
định
Vốn TH
Công nghiệp 1645 19280024747 8742763072 10866713943
CN dầu khí 29 3154826867 2094106347 2352553089
CN nhẹ 643 4050567442 1785345319 2068900083
CN nặng 635 6651802851 2803768210 3544807321
CN thực phẩm 134 2281086756 953693264 1299284498
Xây dựng 204 3141740831 1105849932 1601168952
Nông-lâm nghiệp 347 2108141856 926855682 1212345030
Nông,lâm nghiệp 297 1947652537 847397904 1116966496
Thuỷ sản 50 160489319 79457778 95378534
Dịch vụ 636 14902861034 6613801142 5636907641
GTVT-Bưu diện 93 2571985689 2027825866 849117701
KS-Du lịch 124 3500631355 1137540592 1863632847
Tài chính-NH 50 567250000 536650000 509535324
Văn hoáYT – GD 89 535295935 231733217 146095289
Khu đô thị mới 3 2466674000 675183000 394618
XD văn phòng 118 3896332758 1401784415 1656030769
XD hạ tầng KCN 13 816040849 278951009 460988264
Dịch vụ khác 146 548650439 324133025 151112829
Tổng
2628 36219027637 16238419878 17715966614
Đơn vị tính: USD.
Nguồn: Vụ QLDA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.3.Thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của đất nước
tăng thêm nguồn thu cho ngân sách:
Thực tế, từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22% một năm (năm 1996 đạt 21,7%,
năm 1997 đạt 23,2%, năm 1998 đạt 23,3% năm 1999 đạt 20,0%, năm 2000 đạt
21,8%).
Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) không ngừng tăng từ 6,3% năm 1995 lên 7,4% năm 1996, 9,1% năm 1997,
10,1% năm 1998, 10,3% năm 1999, 10,4% năm 2000. Năm 1996, trong lĩnh vực
công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 24,8% giá trị tổng sản
lượng, tỷ trọng này đã tăng lên 28,2% năm 1997, 30% năm 1998, 35% năm 1999
và 38% năm 2000.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đóng góp tích cực vào
việc tăng nhanh tổng sản phẩm quốc nội mà còn góp phần đáng kể và làm tăng kim
ngạch xuất khẩu của nước ta. Hiện kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 24% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc, không kể
dầu khí. Tốc độ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày
một tăng qua các năm, trong 5 năm 1991-1995 đạt 1,12 tỷ USD, riêng năm 1997
đạt 1,79 tỷ USD (năm 1998 bằng 110% so với năm 1997, năm 1999 đạt 130% năm
1998, năm 200 đạt bằng 128% năm 1999). Thời kỳ 1996-2000, giá trị xuất khẩu
đạt trên 10,5 tỷ USD tăng gấp 8 lần so với tổng kim ngạch xuất khẩu của 5 năm
trước. Trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì xuất khẩu khu vực
đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể (hàng giầy dép chiếm 42%, hàng dệt
may chiếm 25% và hàng điện tử, linh kiện và máy vi tính chiếm 84%). Tuy vậy,
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang bị cạnh tranh gay gắt do thông tin thị
trường còn hạn hẹp, tình trạng gian lận thương mại còn xẩy ra…
Tỷ lệ xuất khẩu so với tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
năm 1995 đạt 30%, năm 1996 đạt 37%, năm 1997 đạt 49%, năm 1998 đạt 51%,
năm 1999 đạt 56%, năm 2000 đạt 58%. Như vậy, giá trị tuyệt đối cũng như tỷ
trọng xuất khẩu so với doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng nhanh trong những năm gần đây. Điều đó khẳng định việc thu hút đầu tư
hướng về xuất khẩu của ta đang từng bước đạt tới mục tiêu đã đặt ra. Sản phẩm
xuất khẩu chủ yếu thời gian qua chủ yếu là hàng tiêu dùng như hàng dệt may, da
giầy, điện tử, hàng nông lâm thuỷ sản chế biến. Mặt khác, thông qua việc nậo các
loại thuế, các doanh nghiẹp có vốn đầu tư nước ngoài đã có đóng gópđáng kể cho
ngân sách nhà nước.
Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang trong
thời kỳ miẽn giảm thuế thu nhập dong nghiệp hoặc chưa thực sự có lãi. Phần lớn
vật tư nhập khẩu để tạo tài sản cố định hình thành doanh nghiệp được miễn giảm
thuế nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp thời gian gần đây được điều chỉnh giảm tiền
thuê đất. Vì vậy, đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu
thô) cho ngân sách Nhà nuớc mới chỉ đạt 6-7% số thu ngân sách hàng năm.
1.4 Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân nội
địa:
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới, tính đến cuối năm 2000
khu vực FDI đã thu hút 350000 lao động trực tiếp làm việc tại các doang nghiệp và
gián tiếp tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trong các lĩnh vực dịch vụ, xây
dựng, cung ứng vật tư, bán hàng…Tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI có
khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật và 150000 công nhân lành
nghề. Số người do các dong nghiệp tự đào tạo tay nghề chiếm hơn 60% tổng số lao
động. Khoảng 73% số lao động làm việc trong các khu vực sản xuất công nghiệp.
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với mức lương bình quân xấp xỉ 70
USD/người/tháng, tổng thu nhập của người lao động trong khu vực này lên đến
300 triệu USD/năm.
1.5 Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và quá trình hội
nhập quốc tế của nước ta:
Trước và một vài năm sau khi có luật đầu tư nước ngoài (1987-1990), nước ta
đứng trước những thách thức kho khăn cực kỳ to lớn (Hệ thống xã hội chủ nghĩa
Đông Âu tan rã, các nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt từ Liên
Xô chấm dứt, Mỹ vẫn tiếp tục bao vây cấm vận, cơ sở vật chất kỹ thuật của nước ta
còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu…). Trong bối cảnh đó, cùng với chính sách đối
ngoại đúng đắn của Nhà Nuớc ta, đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra thế và lực
mới cho đất nước. Trong thời kỳ 1991-2000 đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành
một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập thứ giới
của nước ta. Nhờ có hoạt động FDI, các mối liên hệ kinh tế song phương, đa
phương của Việt Nam với các nước, khu vực trên thế giới đã đựoc thiết lập và củng
cố. Với sự ra đời của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,Việt Nam đang
từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, qua đó có cơ hội
tiếp cận thị trường quốc tế, từng bước đi vào quỹ đạo, hoà nhập nền kinh tế thế
giới. Điều này có vai trò đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đang trong quá trình
chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường.
2. Những mặt hạn chế:
2.1 Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài trong thu hút sử dụng vốn FDI chưa
thực hiện được:
Về xuất khẩu, mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có nhiều
cố gắng trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm, tỷ lệ xuất khẩu so với
tổng doanh thu còn thấp. Hiện nay, chính sách của Nhà Nước ta vẫn thiên về
khuyến khích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, chưa thưcj sự khuyến khích xuất
khẩu nên chưa khai thác hết tiềm năng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trước tình
hình sức tiêu thụ của thi trường Việt Nam giảm, sức mua còn thấp, các nhà đầu tư
nước ngoài có xu hướng thu hẹp sản xuất và ngần ngại bỏ tiếp vốn vào đầu tư các
công trình sản xuất sản phẩm chưa tìm được đầu ra, đòi hỏi Nhà nước phải có
chính sách khuyến khích hơn nữa xuất khẩu.
Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp linh kiện nước ngoài sang lắp ráp các linh kiện
trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện được. Chương trình nội đia hoá trong lĩnh
vực sản xuất điện tử, ô tô, xe máy hầu như không tiến triển được. Chính sách thuế
còn bất hợp lý, không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sản xuất linh
kiện, phụ tùng trong lhi các doanh nghiệp trong nước chưa đử khả năng sản xuất.
Mục tiêu tăng dần tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong các liên doanh gặp
nhiều trở ngại, do khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt nam còn quá nhỏ
bé. Hiện nay, bên Việt nam chủ yếu góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng
đất, tài nguyên và nhà xưởng có sẵn, phần góp vốn bằng tiền chỉ chiếm chưa quá
10%. Trong điều kiện nhiều doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ trong những năm
đầu, bên Việt nam không những không có khả năng tăng tỷ lệ góp vốn của mà còn
phải bán bớt cổ phần cho phái nứoc ngoài để bảo toàn vốn, dẫn đến xu hướng
chuyển doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngaòi.
Việc thu hút công nghệ cao qua các dự án FDI chưa có kết quả. Số hợp đồng
được phê duyệt chuyển giao công nghệ còn quá ít. Thực tế Nhà nước chưa có
chính sách khuyến khích thoả đáng đối với dự án sử dụng công nghệ cao để tạo ra
sản phẩm có giá trị. Việc giám định, đánh giá công nghệ, thiết bị nhập khẩu đang là
vấn đề khó khăn do thiếu chuyên gia có năng lực và am hiểu trong lĩnh vực này.
Nguy cơ ngày càng tụt hậu về công nghệ đang là một thực tế đáng lo ngại.
2.2 Vấn đề lao động và tiền lương còn nhiều bất cập:
Công tác chuẩn bị đội ngũ lao động cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chưa được các ngành và các địa phương quan tâm đúng mức. Cơ
quan làm nhiệm vụ cung ứng lao động thường không chịu trách nhiệm về phẩm
chất người lao động nên không có uy tín đối với doanh nghiệp. Do vậy, hầu hết các
doanh nghiệp đều đòi hỏi được tự tuyển lao động. Chất lượng lao động của ta còn
thấp, trình độ học vấn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thiếu khả
năng đáp tiếp nhận công nghệ mới. Mâu thuẫn giữa việc áp dụng công nghệ tiên
tiến với việc giải quyết việc làm cho người lao động ddang trở nên nan giải đối với
nhiều doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay, do thuế thu nhập cá nhân quá cao, đồng thời chi phí đào tạo công nhân
Việt Nam lớn, nên tuy tiền lương danh nghĩa người lao động nhận được hàng tháng
thấp nhưng chi phí lao động ở Việt Nam đã vào mức cao so với các nước trong khu
vực, làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Đội ngũ cán bộ quản lý Việt nam trong các nghiệp liên doanh (Tổng giám đốc,
phó tổng giám đốc, kế toán trưởng) chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn,
pháp luật và ngoại ngữ (do cơ chế cứ có đất là liên doanh với nước ngoài không
phân biệt ngành nghề kinh doanh) nên không quản lý được doanh nghiệp liên
doanh, bị bên nước ngoài chèn ép, từ đó làm nẩy sinh mâu thuẫn nội bộ khó hoà
giải, ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3 Đầu tư nước ngoài còn tập trung chủ yếu vào một số địa phương có điều kiện
kinh tế và cơ sở hạ tầng thuận lợi, một số lĩnh vực dễ sinh lời:
Hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc thu hút hơn 80% vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài thời gian qua. Riêng hai trung tâm lớn Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh thu hút hơn 50% vốn FDI cả nước.
Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thu hút được quá ít dự án đầu tư nước ngoài so
với tiềm năng của nước ta. Do rủi ro cao và chưa có chính sách hỗ trợ thoả đáng
của Nhà nuớc.
2.4 Quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI còn nhiều khiếm khuyết:
Hệ thống pháp luật nước ta còn đang trong quá trình hoàn chỉnh nên thiếu đồng
bộ. Việc thi hành pháp luật còn tuỳ tiện. Trong những năm đầu, do thiếu kinh
nghiệm và không nhận thức đầy đủ tính phức tạp của vấn đề nên chưa coi trọng
đúng mức công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động quản lý Nhà nước đối với
hoạt động FDI. Do đó, đã để xảy ra tình trạng lúng túng trong xử lý vấn đề phát
sinh hàng ngày khi số dự án FDI tăng nhanh; phân công, phân nhiệm không rõ; có
hiện tượng buông lỏng quản lý vừa can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp.
Chế độ thông tin báo cáo chưa vào nền nếp nên cơ quan quản lý các cấp thiếu phối
hợp chặt chẽ và không nắm chắc được tình hình doanh nghiệp, chậm chạp trong sử
lý các kiến nghị của doanh nghiệp.
2.5 Môi trưòng đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro:
Chính sách của nhà nước hay thay đổi, thiếu rõ ràng, cơ sở hạ tầng yếu kém, chi
phi sinh hoạt thay đổi và không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chuyển đổi ngoại tệ còn nhiểutở ngại,
phiền hà. Chúng ta chưa có chính sách ưu đãi riêng đối với các tập đoàn lớn,xuyên
quốc gia đã có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam nhằm duy trì, đẩy mạnh đầu tư của
các tập đoàn này tại Việt Nam, trên cơ sở đó lôi kéo theo các nhà đầu tư có tiềm
năng khác.
II.Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam:
1.Hình thức doanh nghiệp Liên doanh:
1.1 Những đóng góp:
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu, chiếm
tới 50,2% số dự án 64,7% vốn đầu tư đã được cấp giấy phép. Quy mô vốn đầu tư
bình quan mỗi dự án là 18,7 triệu USD, trong đó có những dự án đầu tư đòi hỏi
hàng tỷ USD như dự án liên doanh lọc dầu Việt – Xô tại Quảng Ngãi có vốn đầu tư
1,3 tỷ USD, dự án khu đô thị Nam Thăng Long Hà Nội vốn đầu tư tới 2,1 tỷ USD.
Đến hết tháng 12 năm 2000 đã có 1035 dự án Liên doanh đựoc cấp giấy phép
với tổng vốn đầu tư gần 22 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện đạt hơn 9,7 tỷ USD,
tạo ra gần 150000 việc làm. Xuất phát từ định hướng thu hút đầu tư của Nhà nước,
hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng như
sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử...đều là
doanh nghiệp liên doanh. Các doanh nghiệp liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều
ngành công nghiệp Việt Nam bị suy thoái do mất thị trường Liên Xô (cũ) và Đông
Âu tan rã, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam theo hướng công nghiệp hoá, cung
cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu.
Thông qua việc cử cán bộ tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh, Việt nam đã
tiếp thu được công nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt nam làm việc trong các doanh
nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt và thích nghi với cơ
chế thị trường. Nhiều cán bộ sau khi làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh
đã được bổ nhiệm nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan quản lý và
doanh nghiệp Nhà Nước.
1.2 Những mặt còn tồn tại:
Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nêu trên, đầu tư theo hình
thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt nam đã bộc lộ rõ những hạn chế sau:
Khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất thấp, bình quan chỉ
chiếm chưa đầy 30% vốn pháp định và bằng khoảng 10% vốn đầu tư của các
doanh nghiệp liên doanh, vốn góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Thông
thường toàn bộ vốn vay của liên doanh do bên nước ngoài thu xếp, nhiều trường
hợp lãi suất cao và điều kiện vay rất khắt khe, trở thành gánh nặng của doanh
nghiệp, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia.
Với cơ chế doanh nghiệp Việt nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Nhà
nước cho doanh nghiệpp Việt Nam nhận nợ, những khi doanh nghiệp Việt Nam
chưa được chia lãi hoặc liên doanh thua lỗ thì Nhà Nước không thu được tiền thuê
đất để góp vốn, trong khi đó, nếu cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuê đất
thì Nhà nước thu ngay được tiền thuê đất. Ngoài ra với cơ chế hiện nay, doanh
nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có thể liên doanh với nước
ngoài thậm chí ngành nghề chuyên môn không phù hợp với mục tiêu hoạt động của
liên doanh.
Một trong những mục tiêu liên doanh là đưa cán bộ vào tham gia quản lý, điều
hành doanh nghiệp nhằm dảm bảo lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam, của Nhà
nước, tiếp thu kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ trên chưa đủ
năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chấtchính trị nên không phát huy
được tác dụng đại diện cho doanh nghiệp Việt nam, hoặc là nặng về lo thu vénlợi
ích cá nhân, thụ động theo sự điều hành của bên nước ngoài, thậm chí vì lợi ích
riêng nên đã bỏ qua lợi ích chung của đất nước, đứng về phía lợi ích của bên nước
ngoài.
Các đối tác liên doanh có xu hướng khai tăng các chí phí đầu tư. Bên nước ngoài
nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu ra thông
qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài ngay từ đầu, hạch
toán lỗ cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không có khả năng kiể
soát được.
Ngoài ra, bên nước ngoài có mục tiêu lâu dài là chiếm lĩnh thị phần, nên họ thực
hiện chính sách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo với chi phí lớn và giá bán thấp
nhằm cạnh tranh, thậm chí chấp nhận lỗ trong những năm đầu. Bên Việt Nam trong
liên doanh không đủ năng lực tài chính theo đuổi chiến lược đó nên không kiểm
soát được các hoạt động này của bên nước ngoài. Trong khi đó, nước ta chưa có
luật chống độc quyền, chống bán phá giá nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh
lành mạnh. Giữa các bên liên doanh nẩy sinh bất đồng hàng loạtcác vấn đề chiến
lược kinh doanh, phương thức quản lý và điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết