Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn rèn kỹ NĂNG cảm THỤ văn XUÔI VIỆT NAM HIỆN đại TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.95 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12

Lĩnh vực/Mơn

: Ngữ văn

Cấp học

: THPT

Tên tác giả

: Nguyễn Đức Điệp

Đơn vị công tác : Trường THPT Lưu Hồng
Chức vụ

: Bí thư Đồn trường

NĂM HỌC: 2018 – 2019


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................................2


A. ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................................3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.........................................................................................................5
Đọc diễn cảm là một phương pháp dạy học quen thuộc trong trường phổ thông ở nước ta mấy
thập kỉ qua. Ươm mầm từ truyền thống ngâm vịnh, bình văn, bình thơ của người Việt Nam
qua các thời đại, đọc diễn cảm nhanh chóng trở thành một phương pháp hữu ích trong cảm
thụ và truyền thụ văn chương trong nhà trường..........................................................................8
Nhờ đọc diễn cảm, chúng ta thấy một không gian n ả, thanh bình, tĩnh lặng vừa cổ kính,
hoang sơ, vừa tươi mới đầy sự sống: “Thuyền tôi trôi trên sơng Đà. Cảnh ven sơng ở đây lặng
tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.
Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh khơng một
bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” (Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tuân)... Tất cả chỉ hiện ra trong
nội quan của người đọc. Hình ảnh sơng Đà hiện nên hoang dại mà trữ tình hơn nhờ đọc diễn
cảm. Nói cách khác người đọc chỉ trơng thấy nó bằng “con mắt thứ ba”. Đi qua “cây cầu đọc
diễn cảm”, người đọc bước vào thế giới diệu kì vừa quen vừa lạ của văn chương. Theo tâm lí
học cảm thụ, âm vang của giọng đọc đã kích thích q trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện
hình ảnh ở người đọc, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm, tạo nên trạng thái tâm lí cần
có khi đọc sách hay xem nghệ thuật mà người ta quen gọi là “nhập thân”................................9
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................21

2/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Mỗi sáng tác nghệ thuật đều là một phát hiện sáng tạo độc đáo của
người nghệ sĩ, họ gửi vào đó những cảm nhận, trăn trở và thơng điệp về cuộc

đời. Văn học cũng là một đứa con tinh thần của nhà văn song phải cùng với bạn
đọc thì các từ, ngữ, câu, chữ chết cứng mới thực sự được cựa, quậy, có linh hồn
và đi vào cuộc sống. Nhà thơ Mosac từng quan niệm: “Tác phẩm thực ra chỉ
được tạo thành bởi những kí hiệu câm lặng, những ngơn ngữ chết, cho nên bản
thân nó chưa có giá trị gì, nếu có cũng chỉ là đơi chút. Cái quan trọng là vai trị
của người đọc. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm…”; Ông cũng
khẳng định: “khơng có bạn đọc thì khơng chỉ có sách của chúng ta mà cả những
tác phẩm của Hôme, Đăngtơ, Puskin, Đôxtôiepxki… tất cả chỉ là đống giấy
chết”. Bởi vậy nhân tố độc giả có những đặc điểm riêng và có vai trò đặc biệt
trong đời sống văn học.
Tuy nhiên, trong trường THPT, độc giả ở đây là các em học sinh, khả
năng cảm thụ các tác phẩm văn học còn nhiều hạn chế. Cho nên, trong việc
giảng dạy thì việc rèn luyện kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn học nói chung, cảm
thụ tác phẩm văn xi nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng của từng giáo viên
giảng dạy môn Ngữ văn. Kĩ năng này, giúp học sinh lĩnh hội sâu sắc, chủ động,
tự tin trước các vấn đề đã được đặt ra từ yêu cầu về việc khai thác các giá trị của
tác phẩm.
2. Trong chương trình Ngữ văn THPT lớp 12, số lượng các tác phẩm văn
xuôi Việt Nam hiện đại được đưa vào giảng dạy với số lượng cao. Có 15/18 tác
phẩm văn xi Việt Nam hiện đại ( chiếm 83% ).
3. Hiện nay, ở học sinh, việc cảm thụ tác phẩm văn học còn nhiều hạn chế
do học sinh chưa biết cách khai thác tác phẩm, chưa tìm đường đi vào thế giới
nghệ thuật bí ẩn trong từng tác phẩm. Do vậy thông thường cảm nhận của học
sinh mang tính trực cảm, cảm tính, thiếu kỹ năng tạo nên chuỗi logic của hệ
thống kiến thức trong tác phẩm, học sinh chưa hình thành kỹ năng cảm thụ.
Với những lí do thiết yếu nêu trên cùng với thực tiễn trong q trình giảng
dạy, tơi mạnh dạn đề xuất “Rèn kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại
trong chương trình Ngữ văn 12”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giúp các em học sinh lớp 12 rèn luyện

kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Bồi dưỡng cách nghĩ, cách cảm nhận trong sáng cho học sinh thông qua
các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại. Qua đó nhằm giúp các em khơi dạy
niềm đam mê, hứng thú với mơn Ngữ văn từ đó góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học môn Ngữ văn trong trường THPT.
3/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở khoa học bao gồm sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc
đề xuất “Rèn kĩ năng cảm thụ văn xi Việt Nam hiện đại trong chương trình
Ngữ văn 12”.
Nghiên cứu, điều tra thực trạng hứng thú và cách cách cảm thụ văn xi ở
học sinh của các lớp mình giảng dạy.
Áp dụng và đề xuất các kĩ năng cảm thụ văn xuôi hiện đại.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12.
Học sinh khối 12 thuộc 2 lớp 12a1, 12a4.
Phạm vi thời gian thực hiện: trong năm học 2018 – 2019.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp điều tra: Điều tra khảo sát thực trạng dạy học của giáo viên,
thực trạng cảm nhận văn học của học sinh.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh đối chiếu kết quả học tập của
học sinh trước và sau khi triển khai đề tài để rút ra kết luận khoa học.
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: Phân tích thực trạng, tác
dụng tích cực của các giải pháp để tổng kết thành kinh nghiệm.

4/20



Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sơ lý luận
Theo đại từ điển tiếng Việt “cảm thụ là nhận biết một cách tinh tế
bằng cảm tính”.
Tác giả Mạnh Hưởng cho rằng : Cảm thụ văn học chính là sự cảm nhận
những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ nhất của văn học
thể hiện trong tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm. Cảm thụ văn học là đọc
hiểu các tác phẩm văn chương ở mức độ cao nhất. Cảm thụ văn học có nghĩa là
khơng chỉ nắm bắt thơng tin mà cịn phải thẩm thấu được thơng tin, đồng thời
phân tích, đánh giá được khả năng sử dụng ngơn từ của tác giả, tạo được mối
giao cảm đặc biệt giữa tác giả với bạn đọc và có thể truyền thụ cách hiểu đó cho
người khác. Người có năng lực cảm thụ văn học là khi đọc (nghe) một câu
chuyện, một bài thơ… khơng những hiểu mà cịn phải có xúc cảm, tưởng tượng
và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc… Đọc có suy ngẫm, tưởng
tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thực sự chính là người đọc biết cảm thụ văn
học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng
chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tơi đi
rất xa, và hiểu ra lắm điều thú vị. Phương thức chiếm lĩnh đối tượng văn học chủ
yếu là tình cảm, bằng những xúc động mang tính trực quan, bằng sự tham gia
của yếu tố vô thức ... Cảm thụ đặc biệt cần đến sự tinh tế, nhạy cảm của tâm
hồn, cần đến vốn sống, vốn văn hoá, sự trải nghiệm của độc giả. Đấy là một
bước quan trọng, là cơ sở khơng thể thiếu để q trình tiếp nhận văn học diễn
ra. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nơng sâu khác
nhau: chúng ta có thể gọi hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngơn từ
nghệ thuật (cịn gọi là hiển ngơn), cịn cảm thụ là việc hiểu sâu sắc với những

xúc động, trước những gì mà ngơn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý
nghĩa của văn bản (còn gọi là hàm ngôn).
2. Cơ sở thực tiễn
Trong guồng quay phát triển đến chóng mặt của xã hội, con người như
sống vội hơn, ít có những khoảng lặng cho tâm hồn. Chính lối sống, lối suy nghĩ
hiện đại ngày nay đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc dạy và học môn Ngữ văn.
Đặc biệt, sự phân luồng các trường Đại học, sự phân hóa các ngành nghề trong
xã hội đã khiến cho việc lựa chọn học môn Ngữ văn của các em học sinh chỉ là
môn thứ yếu. Thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cảm thụ
các tác phẩm văn chương nói chung và các tác phẩm văn xi nói riêng.
Chính vì thế tâm thế của học sinh với môn học ngay từ đầu đã không mấy
hứng thú. Với mục đích chỉ cần nắm nội dung cơ bản và cấu trúc bài làm để
phục vụ các kì thi. Cho nên các em thụ động trong học tập, khơng khí giờ học
nhàm chán.
Về phía giáo viên: hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới
phương pháp dạy học. Trong giảng dạy, các thầy cô đã phát huy tính tích cực,
5/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

chủ động. Học sinh được bày tỏ ý kiến, tình cảm, cách hiểu của mình về bộ
mơn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Tài năng sư phạm của người dạy được
dành nhiều hơn cho việc học sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm.
Tuy nhiên, một thực tế khó thay đổi, ăn sâu vào trong nhận thức và thành
thói quen của khơng ít giáo viên, việc tiếp nhận và đổi mới phương pháp còn
chậm. Giáo viên còn làm việc quá nhiều, chú trọng cung cấp nhiều thông tin
kiến thức cho học sinh. Chính điều này đã làm cho học sinh rơi vào thế bị động
trong việc tiếp thu kiến thức, không tạo điều kiện cho các em suy nghĩ sáng tạo,
độc lập. Dần dần đã làm tê liệt hứng thú và khả năng tư duy sáng tạo của học

sinh trong các giờ đọc hiểu các tác phẩm văn xi.
II. THỰC TRẠNG CẢM THỤ VĂN XI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1. Về phía giáo viên
Các giáo viên u nghề, có trách nhiệm với nghề luôn luôn trăn trở về bài
dạy của mình. Ln tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tiếp cận với các
phương pháp dạy học mới để đáp ứng mục tiêu giáo dục. Các thầy cô đã chú
trọng đổi mới phương pháp day học để khởi dậy niềm hứng thú với văn học
trong học sinh.
Song còn khơng ít giáo viên cũng đã có nỗ lực trong đổi mới phương
pháp, nhưng hiệu quả chưa cao. Do thói quen phương phương pháp truyền thụ
đã thành lối mòn, việc đổi mới gặp nhiều khó khăn. Nhiều giờ dạy cốt sao chỉ
truyền đạt hết kiến thức theo kiểu dập khuân, máy móc. Bởi văn xi có khối
lượng kiến thức khá nhiều, nhiều tình tiết, sự việc, các mối quan hệ của nhân
vật, tâm lý nhân vật...Việc cung cấp hết kiến thức đã là một vấn đề đối với người
dạy. Chính thế các giờ học văn xuôi trở nên áp lực đối với học sinh.
Giáo viên còn hạn chế về kỹ năng tổ chức giờ học. Hoạt động này cần
được chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu thiết kế bài giảng đến xác định phương pháp,
xây dựng hệ thống câu hỏi trong thiết kế hoạt động dạy học phù hợp cho từng
tác phẩm. Khơng có mẫu số chung cho khâu này. Mỗi giáo viên đều có sở
trường, năng lực, cách cảm thụ riêng. Mỗi tác phẩm là của một tác giả khác
nhau viết nên và ra đời trong những bối cảnh khác nhau. Việc đồng bộ hóa
phương pháp dạy học hay sao chép giáo án của nhau không chỉ khiến việc dạy
học sa vào tình trạng hời hợt, khn sáo, chiếu lệ mà cịn dễ dẫn đến sự chán
ngán, khơng thích học văn của học sinh.
Thói quen lười biếng, thụ động của người học, thậm chí của cả người dạy,
đang thực sự làm cùn mòn, thủ tiêu cảm hứng học văn. Phần đơng người học
ngày càng xa rời thói quen đọc sách, để cho văn hóa nghe - nhìn lấn lướt là một
thực trạng đáng báo động. Một bộ phận không nhỏ những giáo viên dạy văn
cũng ngày càng ít đọc, khơng chịu cập nhật thơng tin, chẳng quan tâm gì đến xu
thế trào lưu văn học trong và ngoài nước, xa lạ với việc tham khảo những tư liệu

liên quan, chỉ “cày xới”, lặp lại những gì có trong sách giáo khoa, phụ thuộc
hoàn toàn vào sách hướng dẫn.
6/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

Bên cạnh đó là thói quen “định hướng cảm thụ” của giáo viên khiến trò ỷ
lại, dựa dẫm trong quá trình tiếp cận tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm văn học
đều là những văn bản tiêu biểu về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Lâu nay, trong quá
trình dạy học, thay vì giáo viên nên tổ chức cho học sinh tiếp nhận từ góc nhìn
của chính các em, phân tích các giá trị theo cảm thức của chính trái tim các em
thì giáo viên thường “nói hộ”, “cảm thụ hộ” cho học sinh. Lâu dần thành quen,
dẫn đến tình trạng tiếp thu một chiều mà khơng có thói quen phản biện. Chính vì
vậy, có q nhiều cách cảm thụ theo “lối mòn” cho những tác phẩm văn học từ
thế hệ này sang thế hệ khác khiến học sinh chán ngán.
2. Về phía học sinh
Khi được điều tra khảo sát về hứng thú học tập mơn Ngữ văn nói chung
và các tác phẩm văn xi nói riêng, các em tỏ vẻ khơng mấy u thích. Phần vì
xu thế xã hội trong việc chọn ngành nghề. Phần vì khơng có thời gian để đọc
những tác phẩm dài như vậy. Sau khi dạy bài “Rừng xà nu” xong, tôi không khỏi
trăn trở vì tiết dạy của mình, vì hứng thú học và cách tiếp cận của học sinh.
Tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát bằng phiếu về mức độ hứng thú học tập
và bài kiểm tra về sự cảm nhận nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ở 2 lớp
12A1 (sĩ số: 41 học sinh) và 12A7 (sĩ số 32 học sinh). Kết quả cụ thể như sau:
Hứng thú học tập: (Bảng 1)
Có hứng thú

Bình thường


Khơng có hứng thú

Tổng số
học sinh

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

73

14

19,18

19

26,03

40

54,79


Kết quả kiểm tra khảo sát (Mức độ đề phù hợp với đối tượng học sinh
trung bình, đề bài: Em hãy cảm nhận giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành) (Bảng 2)
Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

12A1

3

7,31

8

19,5
1

20

48,78

8

19,5
1

2

4,79


12A7

0

0

5

15,6
3

15

46,88

9

28,12

3

9,37

Nhìn vào kết quả khảo sát trên, ta nhận thấy:
Tỷ lệ học sinh hứng thú với mơn Ngữ văn cịn thấp, chỉ chiếm 19,18%,
kết quả bài kiểm tra khảo sát không cao, tỷ lệ học sinh khá giỏi ít, học sinh có
điểm yếu kém cịn nhiều. Nhiều bài làm máy móc theo bài giảng của giáo viên,
7/20



Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

còn nặng về kể lại tác phẩm. Viết bài văn nghị luận cảm thụ nhưng thiên về dạng
văn tự sự hơn.
Thực tế này sẽ là những khó khăn, thách thức lớn đối với giáo viên và học
sinh. Vấn đề đặt ra là giáo viên cần phải có các biện pháp để tạo hứng thú cho
học sinh trong các giờ đọc hiểu tác phẩm văn xi và từ đó nâng cao chất lượng
giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN XI VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12
1. Kĩ năng đọc diễn cảm
1.1. Vai trò của đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một phương pháp dạy học quen thuộc trong trường phổ
thông ở nước ta mấy thập kỉ qua. Ươm mầm từ truyền thống ngâm vịnh, bình
văn, bình thơ của người Việt Nam qua các thời đại, đọc diễn cảm nhanh chóng
trở thành một phương pháp hữu ích trong cảm thụ và truyền thụ văn chương
trong nhà trường.
Thực trạng vấn đề đọc tác phẩm của học sinh hiện nay cho thấy: đa số học
sinh đều ngại đọc tác phẩm, nhất là những tác phẩm văn xuôi dài. Các em soạn
bài, chuẩn bị bài mà không cần đọc tác phẩm mà chỉ dựa vào sách tham khảo,
sách “Để học tốt Ngữ văn” rồi chép toàn bộ nội dung trả lời của các câu hỏi có
trong phần hướng dẫn học bài để đối phó với các thầy cô giáo khi lên lớp, cho
dù không biết tác phẩm đó như thế nào. Do vậy việc đọc trước, đọc kĩ tác phẩm
là điều bắt buộc đối với học sinh vì qua đó bước đầu học sinh cảm nhận và hiểu
được tác phẩm.
Nhà khoa học sư phạm người Nga E. V. Iadôvixki, trong cuốn Đọc diễn
cảm - Phương tiện giáo dục thẩm mĩ, đã viết: “Khi trình bày bài thơ, truyện ngắn
hay truyện cổ tích, học sinh dường như tái tạo lại những chi tiết do tác giả xây
dựng, làm sinh động chúng nhờ sự giúp đỡ của những tư tưởng, tình cảm, liên
tưởng của bản thân, tức là chuyển đến người nghe tâm trạng, xúc cảm của tác

giả hoặc nhân vật đã được làm giàu có bởi kinh nghiệm riêng. Và dù cho kinh
nghiệm đó cịn hạn chế và nhỏ bé đến đâu đi chăng nữa, nó bao giờ cũng đem lại
cho sự trình bày của học sinh đặc điểm tươi mát và sự độc đáo không lặp lại”.
Như vậy, đọc diễn cảm khơng chỉ địi hỏi người đọc phải là một bạn đọc tích
cực, năng động mà cịn là hoạt động nuôi dưỡng và phát triển sự cảm thụ sáng
tạo của con người.
Đọc diễn cảm chứa đựng khả năng phát triển tính tích cực, sáng tạo ở
người đọc - học sinh. Sự sáng tạo trong tiếp nhận văn học ở người đọc không chỉ
thể hiện ở cách đọc “tri âm” mà cịn thể hiện ở cách đọc “kí thác”. Đồng thời với
việc truyền đi tiếng nói của nhà văn, người đọc “thổi” vào tác phẩm một luồng
sinh khí mới mang hơi thở của thời đại và hoàn cảnh sống riêng tư. Những
nghiên cứu khoa học về đọc diễn cảm ở người đọc nói chung và bạn đọc học
sinh nói riêng đều cho biết: đọc diễn cảm khơng chỉ là phương thức thể hiện sự
8/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

cảm thụ văn học tươi mới và sáng tạo mà cịn là dạng hoạt động kích thích sự
sáng tạo trong tiếp nhận văn chương.
Nhờ đọc diễn cảm, chúng ta thấy một khơng gian n ả, thanh bình, tĩnh
lặng vừa cổ kính, hoang sơ, vừa tươi mới đầy sự sống: “Thuyền tôi trôi trên
sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương
ngô, nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người. Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” (Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tn)... Tất cả chỉ
hiện ra trong nội quan của người đọc. Hình ảnh sơng Đà hiện nên hoang dại mà
trữ tình hơn nhờ đọc diễn cảm. Nói cách khác người đọc chỉ trơng thấy nó bằng

“con mắt thứ ba”. Đi qua “cây cầu đọc diễn cảm”, người đọc bước vào thế giới
diệu kì vừa quen vừa lạ của văn chương. Theo tâm lí học cảm thụ, âm vang của
giọng đọc đã kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh ở
người đọc, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm, tạo nên trạng thái tâm lí
cần có khi đọc sách hay xem nghệ thuật mà người ta quen gọi là “nhập thân”.
1.2. Các yêu cầu của việc đọc diễn cảm
1.2.1. Đọc đúng
Đọc đúng kí tự ngơn ngữ, ngữ điệu, nhịp điệu, giọng điệu trong tác phẩm.
Ngữ điệu, nhịp điệu phải có sự thay đổi phù hợp với mạch tâm trạng và diễn
biến tâm tư của nhân vật.
1.2.2. Đọc hay
Đọc diễn cảm đòi hỏi người nghe, người đọc - học sinh phải tích cực,
sáng tạo, phát huy cao độ vai trị chủ thể cảm thụ. Đọc diễn cảm khơng đơn
thuần là đọc đúng ngữ âm, ngữ pháp, đọc sáng rõ, mạch lạc, đọc trôi chảy một
văn bản ngôn từ mà quan trọng hơn là kết hợp giữa khả năng diễn cảm, truyền
cảm trong giọng đọc với việc bắt trúng cái “giọng” của nhà văn để làm bật ra ý
nghĩa của câu chữ. Bàn về đọc diễn cảm của học sinh trong giờ học văn, các nhà
khoa học ngữ văn Liên Xô cũng đã lưu ý: “Khi một học sinh đọc trước lớp, học
sinh đó cần phải hiểu một cách rõ ràng rằng: mình đọc để truyền đạt cho người
nghe những ý nghĩ, những rung động và tình cảm tác giả đã đem vào tác phẩm,
cũng như để thể hiện thái độ của mình đối với tác phẩm”. Đọc diễn cảm là
truyền đến người nghe cái tình điệu của nhà văn trong tác phẩm và thái độ, tình
cảm của người đọc về cái văn bản ngôn từ ấy.
Muốn vậy, giáo viên đôi khi phải là người định hướng giọng điệu cho học
sinh, thậm chí cịn đọc diễn cảm một số đoạn văn mẫu để học sinh được đắm
mình trong khơng gian của tác phẩm. Rèn được kĩ năng đọc diễn cảm cho học
sinh đã góp phần khơng nhỏ trong việc cảm thụ tác phẩm.

9/20



Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

2. Kĩ năng tìm hiểu về tác giả
Phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa có vai trị như cánh của khép mở ban
đầu để dẫn bạn đọc đi vào thế giới nghệ thuật mà ở đó có biết bao sự kí mã của
nhà văn. Trong đó các thơng tin về tác giả có thể góp phần định hướng độc giả
trong việc cảm thụ văn học. Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng: “Tất cả những
gì nhà văn sáng tác đều có cội nguồn trực tiếp ở những sự kiện trong cuộc sống
riêng tư của anh ta, ở tâm tư tình cảm của nhà văn đó”
Mọi tác phẩm đều xuất phát từ những rung động, những trải nghiệm, hiểu
biết của nhà văn mà có. Do vậy cảm thụ văn xi Việt Nam hiện đại khơng thể
khơng tìm hiểu những nét chính trong cuộc đời nhà văn. Đặc biệt là những yếu
tố ảnh hưởng đến tác phẩm của họ.
Tìm hiểu về tác giả bao gồm những phương diện sau:
Họ tên, bút danh, ngày tháng năm sinh, quê quán, nơi sinh, ngày tháng
năm mất, nơi mất.
Chi tiết về hoàn cảnh xuất thân, gia đình riêng, những thăng trầm trong
cuộc đời, những đặc điểm về cá tính tác giả.
Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý điều này, khai thác phần
tác giả vẫn trong sự độc lập với các sáng tác, chưa gắn với tác phẩm đang tìm
hiểu. Cịn thiên về cung cấp thông tin.
Giáo viên nên rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác các thông tin quan
trọng ảnh hưởng đến sáng tác, định hướng cho việc cảm thụ nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
Ví dụ:. khi cảm nhận tác phẩm Người lái đị sơng Đà, cần phải định hướng
cho học sinh tìm hiểu về tác giả Nguyễn Tuân với các nội dung sau:
Tiểu sử và con người
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội
trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn. Quê ông ở làng Nhân Mục

(thường gọi nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội.Thân sinh của nhà văn là cụ Nguyễn An Lan. Ngay từ nhỏ,
Nguyễn Tuân “đã được ni trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, với những
phong tục nề nếp, với cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần và biến
đổi, ngổn ngang vì sự xâm nhập của văn minh máy móc và hàng hóa từ phương
Tây ào đến”. Hồn cảnh gia đình và mơi trường ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc tới
tư tưởng, cá tính và sáng tác của nhà văn sau này.
Nguyễn Tuân tuy quê ở Hà Nội nhưng từ nhỏ ơng đã theo gia đình sống
nhiều năm ở các tỉnh và thành phố miền Trung như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Huế,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hịa. Chính hồn cảnh sống của gia
đình đã tạo điều kiện cho ông ngay từ thời niên thiếu đã được “xê dịch” qua
nhiều nơi. Những vùng đất nói trên, đặc biệt là Thanh Hóa (nơi lâu nhất), đã để
lại nhiều dấu ấn trong những trang viết về đề tài “chủ nghĩa xê dịch” của ông.
10/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung, đến năm 1929 thì bị đuổi
học và khơng được nhận vào bất cứ cơng sở nào vì tham gia vào một cuộc bãi
khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam. Cách mạng
tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tham gia kháng
chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết
nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Từ 1948 đến 1958, ơng giữ chức Tổng thư
kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội.
Quá trình sáng tác và thành tựu văn học:
Thời kì trước Cách mạng Tháng Tám 1945: sáng tác của ông chủ yếu
xoay quanh ba đề tài “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”,
và đời sống trụy lạc. Cá tính cùng với tâm trạng bất mãn và bất lực trước
thời cuộc của Nguyễn Tn đã khiến ơng tìm lối thốt trong cái thú giang

hồ, xê dịch. “chủ nghĩ xê dịch” trở thành một đề tài quen thuộc trong các
sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân, xuyên suốt qua các tác
phẩm: Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút II.
Thời kì sau Cách mạng tháng Tám 1945: Nguyễn Tuân đến với cách
mạng và kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút để ca ngợi đất nước và
con người Việt Nam trong chiến đấu và trong lao động sản xuất. Nếu như nhân
vật trung tâm trong tác phẩm trước cách mạng là những ông Nghè, ông Cử, ông
Tú, những con người tài hoa bất đắc chí, thì giờ đây, hình tượng chính trong
sáng tác của ơng là nhân dân lao động và chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những
con người bình thường mà vĩ đại: Đường vui(1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy
bút kháng chiến và hịa bình (tập I – 1955, tập II – 1956), Sông Đà (1960), Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),.. đánh dấu những chặng đường mới của Nguyễn
Tuân trên con đường nghệ thuật gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước.
Phong cách nghệ thuật:
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Mơi trường,
hồn cảnh sống và cá tính của Nguyễn Tn thời kì trước cách mạng đương
nhiên đưa ông đến con đường nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa.
Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa và uyên bác. Tài hoa trong việc dựng
người, dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong những
so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm; uyên
bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để làm
phong phú và giàu có thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương.
Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ, có lối sống tự do phóng túng
và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy
bút như một điều tất yếu.
Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy của ngơn ngữ văn xi hiện
đại. Ơng có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn xi giàu
giá trị tạo hình, có nhạc điệu và biết “co duỗi nhịp nhàng”.

11/20



Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

Nguyễn Tn là nhà văn có giọng điệu riêng. Giọng văn của Nguyễn Tuân
vừa trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại.
Tất cả các yếu tố trên đều được thể hiện rõ trong tác phẩm Người lái đị
sơng Đà. Ở phần này, giáo viên chỉ gợi, tạo tâm thế và định hướng cho học sinh
cảm nhận tác phẩm.
3. Kĩ năng tìm hiểu hồn cảnh sáng tác
Mọi tác phẩm ra đời đều gắn với hoàn cảnh sáng tác nhất định. Do vậy,
học sinh không thể cảm thụ hết các tầng nghĩa sâu xa của một tác phẩm nếu
không nắm chắc được hoàn cảnh sáng tác. Hoàn cảnh sáng tác có thể được chia
làm hai loại:
Hồn cảnh trực tiếp (hồn cảnh hẹp): tác phẩm văn xuôi ra đời dựa vào
một dấu ấn riêng trong cuộc đời tác giả.
Hoàn cảnh gián tiếp (hoàn cảnh rộng): là bối cảnh xã hội, thời đại chi phối
đến việc sáng tác tác phẩm.
Ví dụ: Trong tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân:
Hoàn cảnh chung để nhà văn sáng tác nên “Vợ nhặt”. Hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm “Vợ nhặt”: Nguồn cảm hứng sáng tác của Kim Lân là nạn đói năm
Ất Dậu năm 1945 với hai triệu người chết đói. Điều kì lạ trong những năm đói,
sự tối tăm ấy cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người Việt Nam
khơng nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, tình thương. Đó là khát
vọng sống mạnh mẽ, là chất kỳ diệu của con người Việt Nam khơi nguồn cảm
hứng để Kim Lân sáng tác nên truyện ngắn đặc sắc này.
Hoàn cảnh riêng: Truyện ngắn “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng
tháng Tám thành công với tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” nhưng bị dang
dở do cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mãi đến năm 1954, Kim Lân mới có
điều kiện quay trở lại cốt truyện cũ nhưng ông thay đổi ý định ban đầu là không

viết tiểu thuyết nữa mà rút ngắn lại thành truyện ngắn. Hoàn cảnh ra đời đã
mang lại giá trị tư tưởng lớn cho tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ nhặt” viết về
những con người năm đói. Qua đó, nhà văn Kim Lân muốn khẳng định: những
người dân lao động ở nước ta dù cận kề bên cái chết, dù sống trong hồn cảnh bi
thảm đến đâu thì họ vẫn là những con người khao khát tình thương, khao khát tổ
ấm gia đình và hướng tới tương lai tươi sáng.
4. Tìm hiểu đề tài, chủ đề
4.1. Đề tài
Đề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn lựa chọn miêu tả, thể hiện, tạo
thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm, đồng thời là sơ sở để từ
đó đặt ra vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói đề tài là khái niệm trung gian
giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hoá trong tác phẩm và bản thân đời sống.

12/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối liên
hệ bề ngoài giữa chúng. Cho nên, có thể xác định đề tài văn học theo giới hạn bề
ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: Đề tài thiên nhiên,
loài vật, sản xuất, cải cách ruộng đất, chiến đấu, kháng chiến... Việc lựa chọn đề
tài bước đầu bộc lộ khuynh hướng và ý đồ sáng tác của tác giả. Chính vì vậy,
trước khi đọc hiểu chi tiết tác phẩm, giáo viên nên định hướng để học sinh phát
hiện ra đề tài của tác phẩm là gì.
Ví dụ: Các sáng tác của Kim Lân thường xoay quanh đề tài chính đó là đề
tài người nông dân nghèo. Với đề tài trên, nhà văn thể hiện sự gắn bó sâu sắc
của mình đối với cuộc sống, con người.
4.2. Chủ đề
Chủ đề là vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua

nội dung cụ thể của tác phẩm văn học.
Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định: Tác phẩm viết cái gì? Thì khái
niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi: Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? Vì vậy chủ
đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm.
Như vậy, trong việc cảm thụ văn xuôi, nếu giáo viên không hướng dẫn
học sinh vào chủ đề của tác phẩm thì trong quá trình cảm thụ, học sinh dễ có
nhiều liên tưởng dàn chải, khơng đi sâu vào nội dung trọng tâm. Trong nhà
trường phổ thông đôi khi học sinh chỉ được tiếp xúc với một đoạn trích trong tác
phẩm (vì văn bản của văn xi khá dài). Khi đó học sinh cảm thụ đoạn trích
cũng phải bám sát chủ đề tác phẩm vì đoạn trích bao giờ cũng nằm trong một
chỉnh thể. Mỗi đoạn trích có một vai trò nhất định trong việc làm sáng rõ chủ đề
tác phẩm nên khơng thể tách biệt đoạn trích ra khỏi chỉnh thể nghệ thuật của
toàn bài.
Khi dạy về tác phẩm Vợ nhặt, giáo viên định hướng để học sinh phát hiện
chủ đề: tác phẩm phản ánh đời sống của những con người bần cùng, lương thiện,
trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra. Họ đã cưu
mang, đùm bọc lấy nhau và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà
cách mạng đem lại.
5. Kĩ năng tìm hiểu nhan đề tác phẩm
Nhan đề tựa như cái khung của thế giới nghệ thuật. Đặt nhan đề là một
nghệ thuật, đòi hỏi sự lao động nghiêm túc, nhiều khi tiêu tốn lượng thời gian
không nhỏ. Nếu nghệ sĩ thận trọng trong từng khâu sáng tác, thì thường sáng tạo
được nhan đề độc đáo, hấp dẫn độc giả.
Việc đặt nhan đề khơng bao giờ nằm ngồi tầm nhìn cuộc sống và con
người của tác giả. Việc đặt nhan đề có liên hệ với thị hiếu thẩm mỹ của độc
giả. Theo PGS. Nguyễn Đăng Na, nhìn vào nhan đề sẽ “hiểu nỗi lịng người sinh
thành ra nó, hiểu nội dung chủ yếu của tác phẩm và hiểu khát vọng sáng tạo của
tác giả”. Đôi khi nhan đề thực hiện chức năng khu biệt thế giới nghệ thuật này
13/20



Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

với thế giới nghệ thuật kia; từ nhan đề người tiếp nhận đã có thể bước đầu hình
dung ra đặc điểm lời văn, và cấu trúc tác phẩm.
Nhan đề gắn chặt với tìm tịi của tác giả, ở một vài trường hợp như bằng
chứng về những đóng góp cụ thể của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Độc giả
không biết đến nhan đề, hoặc không xuất phát từ nhan đề - hiệu quả giao tiếp có
thể giảm đi khá nhiều. Nhan đề thường giữ vị trí quan trọng như những tín hiệu
chỉ dẫn con đường đi vào nghệ thuật của tác phẩm
Việc đặt nhan đề nói riêng và q trình sáng tạo tác phẩm nói chung, có
quan hệ mật thiết với vốn sống, kỉ niệm sâu sắc của tác giả. Trường hợp,
Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” là như vậy. Cái đêm ngồi viết truyện,
nhà văn nhớ về cuộc chia tay của mình với Nguyễn Thi tại khu rừng xà nu bát
ngát, vạm vỡ phía tây Thừa Thiên. Hình ảnh đầu tiên đến dưới ngịi bút tác giả,
chảy ra tự nhiên thành mạch truyện mênh mang là một rừng xà nu hùng vĩ. Nếu
khơng có sự từng trải, khơng được sống trong khơng khí tráng ca của thời đại
chống Mỹ, chắc chắn Nguyễn Trung Thành khơng có “Rừng xà nu”. Nhan đề tác
phẩm ghi lại cái ngọn nguồn của ý đồ nghệ thuật. Ngay nhan đề của câu chuyện
đã gợi ra một tình huống độc đáo, hấp dẫn và giàu ý nghĩa gây sự chú ý cho
người đọc.
Khi dạy về tác phẩm Vợ nhặt, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thấy
được ý nghĩa của nhan đề. Nói đến “vợ” là nói đến một phần quan trọng trong
cuộc đời của người đàn ơng. Ấy thế mà có điều thiêng liêng hệ trọng ấy lại trở
thành điều rẻ rúm tầm thường. “Nhặt” – một động từ chỉ hành động ngẫu nhiên
khơng chủ tâm khi lấy một vật gì đó từ dưới đất lên hoặc vì q nhỏ hoặc khơng
cịn giá trị như nhặt cọng rơm, cọng cỏ ở ngoài đường. Như vậy, tên truyện gợi
ra một ý nghĩa sâu xa đối với bạn đọc: Đem đến cho người đọc cảm nhận ấn
tượng bi thảm về nạn đói khủng khiếp có một khơng hai trong lịch sử của nước
ta và người đọc cảm nhận tình cảnh thê thảm của những người nơng dân nghèo

Việt Nam trong nạn đói 1945. Nhan đề “Vợ nhặt” gián tiếp tố cáo xã hội thực
dân phong kiến đặc biệt là bọn phát xít Nhật đã gây ra nạn đói 1945 đẩy người
lao động Việt Nam vào thảm cảnh bi cùng. Đồng thời qua nhan đề “Vợ nhặt”,
nhà văn Kim Lân còn khẳng định vẻ đẹp của tình người những người lao động ở
nước ta dù rơi vào thảm cảnh nào thì họ vẫn là những con người giàu lòng yêu
thương, khao khát tổ ấm gia đình và hướng tới tương lai tươi sáng.
6. Kĩ năng tìm hiểu tình huống truyện
Tình huống truyện là cái tình thế xảy ra truyện, là khồnh khắc được tạo
nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất
và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Qua đó nhân vật bộc
lộ tâm trạng, tính cách hay thân phận của mình góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề,
tư tưởng tác phẩm. Sáng tạo tình huống truyện là một trong những vấn đề then
chốt của nghệ thuật viết truyện ngắn. Vì vậy, với một tác phẩm văn xuôi (đặc
biệt là truyện ngắn) nhà văn thường dụng cơng xây dựng những tình huống
truyện độc đáo, hấp dẫn.
14/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

Có 3 loại tình huống truyện thường được các tác giả chú tâm xây dựng:
tình huống hành động, tình huống tâm trạng, tình huống nhận thức. Thấy được
tầm quan trọng của tình huống truyện, giáo viên hướng dẫn, rèn luyện cho học
sinh kĩ năng nhận diện tình huống và phân tích giá trị của tình huống trong việc
thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Phần lớn những tác phẩm được trích giảng trong chương trình THPT đều
là những tác phẩm có cốt truyện độc đáo. Thơng qua cốt truyện các tác giả muốn
chuyển tải tới người đọc những vấn đề về nhân sinh trong cuộc sống. Việc tìm
hiểu về nhân vật hay các giá trị nội dung tác phẩm sẽ thuận lợi và thấu đáo hơn
khi chúng ta khai thác tình huống trong truyện. Truyện “Vợ Nhặt” của nhà văn

Kim Lân là một tác phẩm rất độc đáo về tình huống. Đó là Tràng – một anh nhà
nghèo hình thức thơ kệch, tính tình ngờ nghệch lại là dân ngụ cư giữa lúc đói
kém mà lấy được vợ, hơn nữa lại là vợ theo. Tình huống bất thường đó gây sự
chú ý ngạc nhiên tới những người xung quanh và ngay cả bản thân Tràng. Bởi
đói khát, người như Tràng ni thân chẳng xong lại cịn đèo bịng. Và khơng chỉ
lạ mà nó cịn là sự đan xen giữa mừng và lo, vui và buồn. Hạnh phúc đặt trên bối
cảnh thê lương ảm đạm của nạn đói năm 1945 trong gia đình Tràng trước cái đói
quay đói quắt. Tình huống đó sẽ chi phối tới sự phát triển của truyện và cách
thức xây dựng các nhân vật. Như vậy bắt đầu từ việc khai thác tình huống khi
tiếp cận tác phẩm mà giáo viên có thể dẫn dắt học sinh phân tích nhân vật Tràng,
người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Các lớp nghĩa của truyện sẽ được sáng tỏ cùng các giá
trị hiện thực và nhân đạo. Chủ đề tác phẩm về bài ca cuộc sống: Bên lề cái chết
con người ta vẫn mơ ước vẫn khát vọng là ý nghĩa cơ bản mà nhà văn Kim Lân
chuyển đến bạn đọc.
7. Kĩ năng tìm hiểu kết cấu truyện
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo. Để xây dựng nên
chỉnh thể đó, nhà văn phải suy nghĩ tổ chức các yếu tố của tác phẩm sao cho có
nghệ thuật nhất: cái gì tả trước, cái gì tả sau, chi tiết nào tô đậm, chi tiết nào
chấm phá, sắp xếp các sự kiện, các chương, hồi như thế nào…cách tổ chức như
vậy gọi là kết cấu của tác phẩm.
Kết cấu tác phẩm không chỉ là liên kết các hiện tượng, con người. Mối
quan tâm lớn nhất của nhà văn là làm sao sắp xếp tài liệu để cho cái chính yếu
được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu truyện thể
hiện quá trình vật lộn của nhà văn với tài liệu sống, để biểu hiện một chân lý
khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư duy của nhà văn. Kết cấu ln ln là
phần tổ chức hình tượng nghệ thuật và khái quát tư tưởng, cảm xúc.
Chẳng hạn khi đọc hiểu tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành,
giáo viên gợi mở để học sinh phát hiện ra kết cấu đặc biệt của tác phẩm:
Kết cấu đầu cuối tương ứng: Mở đầu tác phẩm là những tai họa mà cả
những cây xà nu cổ thụ và những cây con phải gánh chịu dưới làn mưa đại bác

của kẻ thù: “ cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào khơng bị thương”.
Hình ảnh những cây rừng xà nu bị tàn phá ở đoạn đầu tác phẩm là biểu tượng
15/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

cho sự đau thương mất mát của con người, tuy nhiên, đoạn cuối tác phẩm lại
khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống
mạnh mẽ, mãnh liệt, sức mạnh khơng ngừng lớn lên của người dân Tây Nguyên.
Kết cấu truyện lồng trong truyện: Truyện ngắn này có hai mạch truyện
lồng ghép vào nhau. Chuyện bắt đầu từ một lần về thăm làng Xô-man của Tnú
sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng. Trong đêm ấy, quây quần quanh bếp
lửa, cả dân làng được nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bị tráng về cuộc đời Tnú và
chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô-man. Quá khứ của Tnú là quá khứ của
một đời người, một thế hệ dân làng đau thương, khổ nhục dưới bàn tay của kẻ
thù. Chuyện về Tnú là tình tiết chính và cũng là cốt lõi của câu chuyện về cuộc
nổi dậy của dân làng Xôman. Số phận Tnú là số phận cá nhân của một con
người nhưng gắn liền với số phận của cộng đồng. Bi kịch của Tnú là bi kịch của
cộng đồng, là nỗi đau chung của những người dân mất nước. Cách xây dựng kết
cấu này làm cho câu truyện mang đậm tính sử thi hùng tráng.
Kết cấu đan xen giữa hiện tại và quá khứ: Ở phần đầu và phần cuối của
truyện là thời gian hiện tại gần với sự việc Tnú về thăm làng chỉ một đêm và
sáng hôm sau lại ra đi. Phần giữa – cũng là phần chính của truyện, chủ yếu tái
hiện những sự việc thuộc thời gian quá khứ. Nhưng đôi lúc mạch kể quay lại với
thời gian hiện tại bằng việc miêu tả cảnh dân làng nghe cụ Mết kể chuyện về
Tnú. Cách phối hợp các lớp thời gian như vậy làm cho truyện vừa mở ra được
nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện được cả một giai đoạn lịch sử một cách ngắn
gọn. Kết cấu cốt truyện độc đáo này giúp nhà văn có thể thay đổi được khơng
gian, thời gian nghệ thuật một cách linh hoạt, làm tăng thêm tính trữ tình cho

câu truyện, đồng thời cũng làm cho câu truyện trở nên linh hoạt, sinh động và
hấp dẫn.
8. Kĩ năng so sánh, liên hệ
Kĩ năng này thường được đánh giá cao trong quá trình cảm thụ bởi giúp
cho tác phẩm được tìm hiểu ở cả tầng rộng và bề sâu. Tuy nhiên kĩ năng này đòi
hỏi học sinh phải có khả năng tư duy mở rộng.
Kĩ năng so sánh có hiệu lực khơng nhỏ trong việc góp phần cảm thụ văn
xi nói chung và văn xi Việt Nam hiện đại nói riêng. Kĩ năng này giúp học
sinh có cái nhìn thơng suốt tiến trình vận động và phát triển văn xuôi Việt Nam
qua phép so sánh nét tương đồng và tương phản giữa các tác giả. Tuy nhiên, để
rèn luyện cho học sinh thao tác, kĩ năng phân tích so sánh cần lưu ý:
Xác định mục đích so sánh: làm nổi bật đối tượng cảm thụ (tác phẩm văn
xuôi, đoạn trích). Qua đó hiểu sâu sắc dụng ý nghệ thuật của nhà văn trong cách
lựa chọn, sắp xếp, tổ chức văn bản văn xuôi.
Nắm vững kĩ năng so sánh: không được lấy nội dung so sánh thay thế cho
việc cảm thụ tác phẩm. So sánh không phải là mục đích, so sánh chỉ là phương
tiện, con đường đi vào tác phẩm.

16/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

Liên hệ so sánh ngồi tác phẩm văn xi không được làm đứt mối với
đường dây của chủ đề tư tưởng tác phẩm. Liên tưởng so sánh mở rộng vấn đề là
một thao tác cần thiết trong cảm thụ văn xi, nhưng đã liên tưởng thì ít nhiều
cũng mang tính chủ quan. Do vậy, nếu vượt quá giới hạn sẽ biến việc cảm thụ
văn xi thành việc bình luận thiếu căn cứ.
Lựa chọn cách thức so sánh:
So sánh tương đồng: khi vấn đề trong tác phẩm văn xuôi đang khai thác

có điểm gần gũi với một tác phẩm khác của cùng tác giả hoặc khác tác giả. So
sánh tương phản: so sánh ý từ tác phẩm văn xuôi này với tác phẩm văn xi
khác có sự trái ngược về tư tưởng hoặc cách thức thể hiện.
Ví dụ so sánh tương đồng: Khi cảm nhận về hình ảnh chị Chiến trong tác
phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, có thể liên hệ đến nhân
vật Mai trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành để thấy sự tương
đồng ở vẻ đẹp tâm hồn và tinh thần cách mạng của người con giái Việt Nam thời
đánh Mĩ.
Ví dụ so sánh tương phản: Cùng viết về đề tài người nơng dân nhưng nếu
truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được bi kịch của một con người
vừa bị tước đoạt về nhân hình và nhân tính, khơng được xã hội công nhận là con
người. Tác giả không tìm thấy lối thốt cho nhân vật, để cho nhân vật lại rơi vào
vịng bi kịch luẩn quẩn, chưa nhìn thấy tương lai tươi sáng của dân tộc. Còn Kim
Lân lại thấy được tinh thần lạc quan, tương lai tươi sáng của nhân vật và dân tộc
qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho
người đói. Sự khác nhau này xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội lúc ấy.
Như vậy kỹ năng so sánh giúp học sinh có cơ sở khai thác sâu hơn về nội
dung và nghệ thuật tác phẩm.
9. Kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại xuất phát từ hình tượng
nhân vật
9.1. Nhân vật văn học và vị trí của nó trong tác phẩm
Nhân vật văn học là con người, có thể là lồi vật hay cây cỏ được nhân
cách hóa, được miêu tả trong tác phẩm văn học bằng những phương tiện văn
học. Nhân vật văn học có tên riêng (Đẩu, Phùng...). Nhưng cũng có nhân vật
khơng tên như Người đàn bà hàng chài, lão đàn ơng trong tác phẩm Chiếc
thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ
thuật đầy tính ước lệ, ẩn dụ vì vậy khơng thể đồng nhất nó với con người thật
trong đời sống.
Nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát các tính cách, số
phận con người và các quan niệm về chúng. Nhà văn sáng tạo nên nhân vật là để

khái quát những quy luật cuộc sống con người, gửi gắm những ước ao, kì vọng về
con người. Vì vậy đọc tác phẩm, cần tìm hiểu hết nội dung đời sống và nội dung
tư tưởng thể hiện trong nhân vật.
17/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

9.2. Loại hình nhân vật văn học
Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân
vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ.
Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn,
nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Dựa vào thể loại văn học, có có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch.
Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức
năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng.
9.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp thể hiện nhân vật
Hiện thực đời sống con người luôn phong phú nên nhân vật văn học có
nhiều loại hình, chính vì vậy các phương thức thể hiện nhân vật rất đa dạng. Văn
học đa dạng đến đâu, các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng
đến đó. Nhưng ở đây, người viết chỉ đưa ra những phương thức, phương tiện
chung nhất.
Nhân vật được miêu tả bằng chi tiết, văn học dùng chi tiết để miêu tả chân
dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, quá trình tâm lý của nhân vật đồng
thời qua chi tiết hoàn cảnh sống, thiên nhiên quanh nhân vật cũng được thể hiện.
Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện, từ đó nhân
vật bộc lộ phẩm chất sâu kín nhất của mình.
Nhân vật có thể được miêu tả một cách trực tiếp nhưng cũng có thể miêu
tả gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối với nhân vật, qua
mơi trường mà nhân vật sống.

Nhân vật cịn thể hiện bằng các phương tiện kết cấu, phương tiện ngôn
ngữ và bằng các phương thức miêu tả riêng của thể loại.
Vì vậy trong một tác phẩm văn xi đặc biệt là tác phẩm tự sự (Truyện
ngắn, tiểu thuyết) để phân tích, tìm hiểu nhân vật và thấy được tư tưởng của tác
giả gửi gắm trong từng nhân vật thì người cảm thụ cần lưu ý một số vấn đề sau:
Trước hết cần phải xác định loại hình nhân vật trong tác phẩm: Đâu là
nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện và phản diện.
Xác định phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật, người cảm thụ cần rút
ra được tính cách nhân vật, q trình tâm lí, số phận (tùy theo từng tác phẩm) và
quan trọng hơn, người đọc phải thấy được qua nhân vật và hệ thống nhân vật đó, nhà
văn muốn khái qt những gì về vẻ đẹp và số phận con người về hiện thực đời sống,
về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Trong quá trình cảm nhận, có thể liên hệ so sánh nhân vật trong tác phẩm
đang tìm hiểu nhân vật trong các tác phẩm khác có cùng đề tài, chủ đề, để thấy
được sự tương đồng hay khác biệt giữa các nhân vật. Từ đó có thể so sánh hiện
thực đời sống xã hội trong từng tác phẩm, từng giai đoạn lịch sử và tư tưởng,
phong cách nghệ thuật của từng nhà văn.
18/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

10. Xác định mức độ các đơn vị kiến thức trong tác phẩm vă xuôi
Nhận biết
- Nêu thông tin về
tác giả, tác phẩm,
hồn cảnh sáng
tác, thể loại.

Vận dụng


Thơng hiểu

Vận dụng thấp

- Lý giải được mối - Viết đoạn văn
quan hệ giữa hoàn giới thiệu về tác
cảnh sáng tác với giả, tác phẩm.
việc xây dựng cốt
truyện, thể hiện
nội dung, tư tưởng
cảu tác phẩm.

Vận dụng cao
- Liên hệ, so sánh
các phương diện nội
dung và nghệ thuật
của tác phẩm cùng
đề tài, thể loại,
phong cách…

- Giải thích được
ý nghĩa nhan đề.
- Nhận biết được - Phân tích được - Khái qt được
ngơi kể, trình tự giọng kể, ngơi kể. đặc điểm phong
kể.
cách của tác giả
từ tác phẩm.

- Cách cảm nhận

riêng, những phát
hiện sáng tạo về văn
bản.

- Nắm được cốt
truyện, nhận ra đề
tài, cảm hứng chủ
đạo.

- Lý giải sự phát - Khái quát được
triển
của
cốt đặc điểm của thể
truyện, sự việc, loại từ tác phẩm.
mối quan hệ giữa
các sự việc.

- Cảm thụ, phám
phá giá trị của một
văn bản mới cùng
thể loại.

- Xác định được
hệ thống nhân vật:
nhân vật chính,
nhân vật phụ,
nhân vật chính
diện, nhân vật
phản diện…


- Giải thích,
tích đặc
ngoại hình
cách, số
nhân vật.

phân - Trình bày cảm - Vận dụng tri thức
điểm nhận về tác đọc hiểu văn bản để
tính phẩm.
tạo lập văn bản theo
phận
yêu cầu.

- Đánh giá khái
quát về nhận vật.

- Đưa ra những ý
kiến riêng về tác
phẩm, vận dụng vào
cuộc sống.

- Phát hiện tình - Hiểu được ý - Thuyết minh - Chuyển thể văn
huống truyện.
nghĩa của tình về tác phẩm.
bản (đóng kịch, vẽ
huống.
tranh….)
- Nghiên cứu khoa
học, làm dự án.
- Chỉ ra được các

chi tiết nghệ thuật
đặc sắc và đặc
điểm nghệ thuật

- Lý giải ý nghĩa
và tác dụng cảu
các từ ngữ, hình
ảnh, chi tiết nghệ
19/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa

của
thể
truyện.

loại thuật, câu văn, các
biện pháp tu từ.

Từ việc xác định mức độ các đơn vị kến thức trong trong tác phẩm văn
xi hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 12, giáo viên phân loại học sinh
và tổ chức hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu phù hợp với đối tượng. Căn cứ và
trình độ, cách cảm của học sinh mà giao nhiệm vụ cho các em. Từ đó góp phần
toạ hứng thú học tập ở học sinh và nâng cao kĩ năng cảm thụ các tác phẩm văn
xi Việt Nam hiện đại lớp 12 nói riêng và các tác phẩm thuộc thể loại văn xi
nói chung.
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Với những nỗ lực và các giải pháp được triển khai, đề tài đã mang lại
những kết quả nhất định. Bên cạnh việc thu hút sự hứng thú học tập, phát huy

tính tích cực và tự giác của học sinh thì cịn mang lại hiệu quả thiết thực trong
việc giúp các em đạt kết quả tốt hơn, nâng cao về chất lượng chung.
Để đánh giá hiệu quả của đề tài, tơi đã khảo sát bằng phiếu thăm dị ý kiến
ở những lớp mà mình đã triển khai. Kết quả cụ thể như sau:
Hứng thú học tập: (Bảng 3)
Có hứng thú

Bình thường

Khơng có hứng thú

Tổng số
học sinh

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

73

38


52,05

23

31,51

12

16,44

Đối chiếu kết quả thu được sau khi áp dụng đề tài so với kết quả khảo sát
thực trạng trước khi áp dụng đề tài ở bảng 1, ta nhận thấy: tổng số học sinh được
khảo sát: 73 em, ở 2 lớp: 12A1, 12A4. Số học sinh có hứng thú với môn Ngữ
văn tăng từ 14 em lên 38 em; số học sinh khơng có hứng thú giảm từ: 40 cịn 20
em. Có thể kết quả chưa cao, song với một trường mà đầu vào học sinh điểm
thấp, phần lớn các em là học sinh yếu kém, chưa xác định được mục tiêu học
tập, nhiều học sinh còn chưa chăm ngoan, chán nản thì kết quả như vậy cũng là
một điều đáng ghi nhận.
Khi học sinh có hứng thú học thì các em sẽ nỗ lực cố gắng hơn. Tơi đã
khảo sát học sinh bằng một bài thi khảo sát, mức độ đề phù hợp với trình độ học
sinh trung bình với nội dung đề là cảm nhận giá trị nội dung và nghệ thuật tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Cấu trúc và mức độ như
đề điều tra, khảo sát thực trạng). Kết quả thu được như sau:
Lớp
12A1

Giỏi

Khá


Trung bình

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

9

21,95


18

43,90

13

43,71

1

2,44

0

0

20/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

12A4

5

12,96

10

24,39


11

26,83

6

14,62

0

0

Nhìn vào kết quả kiểm tra khảo sát, so với kết quả điều tra thực trạng,
chúng ta nhận thấy: số lượng học sinh đạt điểm khá, giỏi đã tăng lên, số học sinh
yếu kém đã giảm đi. Điều đó có nghĩa là năng lực cảm thụ giá trị tác phẩm văn
xuôi của học sinh đã tốt hơn. Các bài viết của học sinh đã có những kiến giải sâu
sắc, sự tích cực chủ động trong việc giải mã nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại.
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Việc khơi dậy tình u và lịng say mê, hứng thú với mơn học Ngữ văn
nói chung và các tác phẩm văn xi Việt Nam hiện đại nói riêng là điều rất cần
thiết. Vì đây là mơn học chính yếu trong nhà trường phổ thông và văn xuôi Việt
Nam hiện đại cũng là mảng kiến thức quan trọng, chiếm tỉ lệ rất lớn trong
chương trình học và thi, đặc biệt là thi THPT quốc gia.
Khi hình thành được các kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn xuôi, nhất là các
tác phẩm văn xi việt Nam hiện đại học trong chương trình Ngữ văn 12. Người
học sẽ cảm thấy hăng say, hứng thú, chủ động, tự tin. Và việc học các tác phẩm
văn xi Việt Nam hiện đại khơng cịn q khó.

Để khơi dậy hứng thú cho học sinh với nôn Ngữ văn, và hình thành được
các kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn xuôi, nhất là các tác phẩm văn xuôi việt Nam
hiện đại học trong chương trình Ngữ văn 12, người viết đã mạnh dạn đề xuất
nhóm mười giải pháp. Đây chưa phải là tất cả, cũng chưa phải là tối ưu nhất. Chỉ
là những kiến thức người viết học được và những thực tế chủ quan của bản thân.
Song nhóm mười giải pháp này đã được triển khai và áp dụng trong thực tế
giảng dạy tại trường trung học phổ thông và đã mang lại những hiệu quả nhất
định. Học sinh đã dần có sự thay đổi trong nhận thức và tình cảm, có được kĩ
năng cảm thụ tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại.
II. KHUYẾN NGHỊ
Đối với các cấp quản lí giáo dục, chun mơn:
Chú trọng và thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, trao đổi
kinh nghiệm, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực.
Tổ chức cho học sinh có cơ hội được trải nghiệm thực tế, trải nghiệm sáng
tạo theo chủ đề của văn học.
Thư viện nhà trường cần có thêm nhiều đầu sách mới, những tác phẩm văn
xuôi Việt Nam nằm ngồi chương trình để học sinh và giáo viên có thể tham khảo.
Đối với giáo viên Ngữ văn: Thường xuyên học tập, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ, nghiên cứu thêm về nghệ thuật sư phạm, tìm tịi các biện pháp
21/20


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

gây hứng thú học tập, tạo một khơng khí học tập vui vẻ, thoải mái giúp học sinh
ngày càng u thích bộ mơn Ngữ văn.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc đưa ra một số giải pháp tạo sự
hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Ngữ văn. Đây là một đề tài không phải
mới, song lại rất cần thiết khi mà thực trạng học sinh ít hứng thú với môn Ngữ
văn như hiện nay. Tuy nhiên, với năng lực hạn chế nên không tránh khỏi những

thiếu sót và có những giải pháp chưa được nghiên cứu thật sâu sắc.
Mong các đồng nghiệp và Hội đồng khoa học nhà trường đóng góp những
ý kiến chân thành, giúp tôi bổ sung đầy đủ hơn vào sáng kiến kinh nghiệm này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

22/20


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Hà Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết khơng sao
chép nội dung của người khác

Nguyễn Đức Điệp


Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hịa

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.G.Zđa-Va mư-y-lơp. Về vấn đề hứng thú trong lí luận xã hội học, NXB
Giáo dục.
2. B.L.Riptin. Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phương
Đơng theo phương pháp loại hình. Tạp chí Văn học số 2,1974.
3. Bùi Quốc Đạt. Hứng thú và năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học trong
chương trình PTTH của học sinh lớp 12 miền núi Thanh Hóa, NXB
ĐHQGHN
4. Đặng Thai Mai (2002), Trên đường nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn

chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Naiđenôp B. X, Kôrenhiuc I. IU, Maiman R. R, Zavatxkaia T. PH. (1979),
Phương pháp đọc diễn cảm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Na (2006). Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam.
Nxb Giáo Dục.
7. Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống (2000), Văn bồi dưỡng học sinh năng
khiếu trung học cơ sở, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Mác, Ăngghen, Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Phan Trọng Luận, Nguyễn Thanh Hùng, Trương Dĩnh, Trần Thế Phiệt (1998),
Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Phương Lựu (1995), “Tiếp nhận văn học”, Môn văn và Tiếng Việt, tập 2, Tài
liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1993-1996, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
11. Vũ Nho (1999), Nghệ thuật đọc diễn cảm, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
12. Vũ Đức Phúc (1982), “Thầy Mai và việc dạy văn tại trường Thăng Long”,
Tạp chí Văn học.



×