Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.16 KB, 14 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC (NSNN )
I. KHÁI NIỆM VỀ NSNN VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.
1. Ngân sách Nhà nước .
a. Khái niệm NSNN:
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời
sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan
niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay
là:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để
bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài
chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết
trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong
phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế
- chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế
- xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định.
Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được
đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà
nước.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm
xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh
vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất
kỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều
mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không
hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào.


Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện
chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Do
nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống
pháp luật tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu
nhập của mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình
với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã hội
chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế
cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà nước trong việc sử
dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do
nhân dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết
định tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động
của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó
phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã
hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế
giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức
năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn
có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài
chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất,
mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều
có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền
lực của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa
lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có
NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế
một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước
và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự
cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn
bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.

Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động
và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý
và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà
nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có
nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực
lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi
cho đầu tư phát triển v.v... Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập
hợp các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng
với chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và
đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu
chi bằng tiền của Nhà nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản
thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám
sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp
thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái
pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp
phát nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai
luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát
hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và
Nhà nước đề ra.
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật
thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này
hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong
tạo lập và sử dụng vốn NSNN.
b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN.
* Các khoản thu NSNN.

- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp,
các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế - chính trị - xã hội để
bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc phòng, an ninh và
bảo đảm các sự nghiệp xã hội.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và vốn bằng
tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho phép các chủ thể
trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt buộc, nhưng dựa trên các
yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở
hữu các loại tài sản đưa vào quá trình sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản
của Nhà nước vào mục đích kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu
quả kinh tế cao thì phải đóng góp nhiều vào NSNN.
Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn thu tập
trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm bảo nguồn
lực tài chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực hiện quản lý chặt các
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát triển chế độ sở hữu toàn dân.
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng phải
đóng góp theo luật định.
- Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, của các
tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. Nguồn thu này chủ
yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đây là nguồn thu
nhất thời, không ổn định, không tính toán trước một cách chính xác.
- Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối
NSNN.
Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà nước trong
nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển kinh tế. Đây là nguồn
thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ hạn Nhà nước phải thanh toán.
Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu

cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả
nợ.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
* Các khoản chi lấy từ NSNN.
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm:
- Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.
- Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ
máy Nhà nước.
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm để
giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội.
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm vụ và
tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở
trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực
này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu, thông qua thực thu các
sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.
- Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của ngân
sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ và mức lãi
suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN. Ở nước ta hiện
nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa tốt, để thất thoát lớn và việc sử
dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nước ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ
nước ngoài đang là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta
vẫn phải đảm bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng
ta cần khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ.

×