Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN TẠI CỤC THUẾ HÀ TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.12 KB, 26 trang )

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ TNDN ĐỐI
VỚI DNNN TẠI CỤC THUẾ HÀ TÂY
I. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN
1. Quan điểm
Trong một thời gian khá dài trong tương lai, nước ta tất yếu vẫn tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần. Hơn nữa, Việt Nam lại đang trong thời kỳ quá độ nên
CNXH thì DNNN nói riêng và thành phần kinh tế nhà nước nói chung phải giữ vai
trò chủ đạo, mang tính định hướng cho các thành phần kinh tế khác để nền kinh tế
không bị chệch hướng XHCN. Quan điểm và chủ trương đúng đắn đó đã xuyên
suốt trong toàn bộ đường lối đổi mới kinh tế nhà nước trong 18 năm qua, mỗi một
thời kỳ quan điểm đó lại thể hiện một cách khác nhau để phù hợp với thực tế. Đặc
biệt từ đại hội VIII vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được xác định rõ ràng, đầy
đủ hơn “ tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai
trò chủ đạo, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã
hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm
lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo
nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
DNNNgiữ vai trò chủ đạo không có nghĩa số lượng phải lớn và ngành nghề
nào cũng tham gia, mà nó chỉ sản xuất kinh doanh một số mặt hàng then chốt, nhà
nước không thể giao cho tổ chức tư nhân sản xuất, những lĩnh vực mà DNNQD
không thể làm được và không muốn làm. Xác định đúng vai trò của DNNN cũng
phải tuân theo những quy luật kinh tế và luật pháp của nhà nước. Các cơ quan nhà
nước, các tổ chức khác cũng phải coi DNNN cũng như các doanh nghiệp khác.
không nên có tư tưởng coi trọng hơn ưu tiên hơn có như vậy doanh nghiệp nhà
nước mới thực sự phát triển được.
Quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp nhà nước nói riêng không những đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước mà đây là hình thức quản lý gián tiếp của nhà nước đối với doanh nghiệp
thay bằng mệnh lệnh hành chính(như giao khoán) nhờ có sự quản lý đó doanh
nghiệp nhà nước có hiệu quả hơn chánh được hiện tượng lỗ thật , lãi giả , phổ biến
hầu hết trong các doanh trước kia.


Cơ quan thuế phải coi doanh nghiệp nhà nước là đối tượng phục vụ của mình,
giúp đỡ các doanh nghiệp hoàn thành tôt nhiệm vụ với nhà nước. Nếu các doanh
nghiệp nhà nước không thực hiện các nhiệm vụ đó thì phải kiên quyết xử lý chứ
không nên nhượng bộ lơ là. Bản thân chủ các doanh nghiệp cũng phải nhận thức
được vai trò và trách nhiệm của mình không phải vì doanh nghịêp không thuộc của
riêng mình mà vô trách nhiệm mà không chịu bỏ hết công sức điều hành hoạt động
cho tốt, cố tình chốn chánh trách nhiệm nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng nhưng hiện tại còn rất nhiều bất
cập để các doanh nghiệp phát huy tôt vai trò của mình thì đó là nghĩa vụ của tất cả
mọi người mọi nghành.
2. Định hướng.
Để thu hồi nợ thuế cho ngân sách nhà nước và thực hiện dự toán bộ giao, tỉnh
giao trong năm 2005 và thực hiện mục tiêu toàn ngành do tổng Cục thuế đề ra,
doanh nghiệp nhà nước và cục thuế Hà Tây phải đưa ra một số định hướng phát
triển như sau.
2.1. Định hướng phát triển doanh nghiệp nhà nước
Tỉnh Hà tây cần xác định số lượng, quy mô và trình độ công nghệ của các
doanh nghiệp nhà nước như thế nào để đảm bảo giữ đúng định hượng phát triển
kinh tế – xã hội với hiệu quả cao nhất. Trong tình hình hiện nay Tỉnh cần phải xác
định đúng các doanh nghiệp nhà nước cần phát triển trong một số ngành một số
lĩnh vực của nền kinh tế. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng:
+ Nắm các doanh nghiệp có quy mô lớn trong các ngành kinh tế – kỹ thuật
thên chốt như dầu khí, bưu chính, hoá chất, sắt thép, xi măng. Những ngành náy
hoặc là trụ cột định hướng nền kinh tế, hoặc là các nguồn lực tài chính để điều
chỉnh sự phát triển của kinh tế Tỉnh.
+ Duy trì các doanh nghiệp nhà nước ở các ngành liên quan đến việc xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tê, đặc biệt là trong xây dựng cơ sở giao thông, các xông
trình công cộng phục vụ sự thịnh vượng chung của nền kinh tế cũng như an ninh,
quốc phòng.
+ Phát triển và duy trì các doanh nghiệp nhà nước có tác dụng kích thích sự

phát triển công nghiệp nhỏ ở nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông,
lâm, hải sản. Nên đầu tư vốn ( với tư cách là một cổ đông) cùng với việc huy động
vốn nhàn rỗi trong dân cư nông thôn để phát triển nông nghiệp, nông thôn đang và
sẽ là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu.
+ Ngoài ba hường nêu trên, cần kiên quyết thực hiện nhanh quá trình chuyển
đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nứơc, tức là đẩy nhanh việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước cũng như việc sắp xếp lại các doanh nghiệp theo hướng
sáp nhập, giải thể, bán, khoán, cho thuê.
2.2. Định hướng trong quản lý thu thuế TNDN.
• Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức Cục thuế. Đồng thời việc đào tạo, đào tạo
lại, theo phương châm tự học tập cơ quan tổ chức học tập và phối hợp đào tạo để
nâng cao trình độ về chình trị, nghiệp vụ tin học, ngoại ngữ, tự rèn luyện để nâng
cao đạo đức và văn hoá nghề thuế. Tăng cường kỷ cương kỷ luật đi đôi với chống
quan liêu sách nhiễu trong ngành thuế. Phát huy những thành tích đã đạt được,
khắc phục khó khăn.
• Nâng cao nhận thức và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính thuế
gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa” trong các quy định giữa cơ quan thuế với
các tổ chức, cá nhân kinh doanh và nhân dân. Phối hợp chặt chẽ trong hệ thống
thuế và xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan trong quản lý thu thuế. Tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, tăng cường
công tác tuyên truyền, tư vấn và hỗ trợ các đối tượng nộp thuế nhằm đưa chính
sách pháp luật thuế của nhà nước vào cuộc sống. Thúc đẩy, phát huy sáng kiến, cải
tiến lề lối làm việc để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thuế thực hiện tốt các
mục tiêu Tổng cục thuế đề ra.
• Xây dụng và thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
theo hướng tích cực phòng ngừa, quản lý rủi ro đối với nội bộ ngành và các đối
tượng nộp thuế. Tăng cường quản lý nợ thuế và cưỡng chế thu nợ thuế, từng bước
hình thành tổ chức thu nợ và cưỡng chế thuế.
• Tiếp tục phát huy và nâng cao truyền thồng đoàn kết nội bộ, phát huy mạnh mẽ
cơ chế dân chủ trong hoạt động cơ quan, tạo động lực mới trong thực hiện khoán

biên chế và kinh phí hoạt động để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ của công tác thuế,
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền các cấp trong chỉ đạo thực hiện, trong việc
hoàn thiện bổ xung chính sách thuế nhằm bồi dưỡng nguồn thu, tạo nguồn thu
vững chắc cho NSNN.
• Nâng cao ý thức, trách nhiệm của ĐTNT , có biện pháp kiên quyết buộc các
doanh nghiệp phải kê khai tạm nộp thuế TNDN đầu năm. Đưa ra biện pháp khả
thi nhất để hạn chế nợ đọng thuế của các DNNN.
II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN.
1. Thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế của doanh nghiệp
Cùng với hiệu lực thi hành Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB. Luật thuế
TNDN sửa đổi từ ngày 1/1/2004 là việc quy định cho các đối tượng nộp thuế khi
co đủ điều kiện nhất định được thực hiện tự tính, tự khai, tự nộp thuế thay cho việc
nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Việc triển khai áp dụng quy trình này là
bước đột phá quan trọng trong tiến trình cải cách hàng chính thuế ở nước ta hiện
nay. Sự thay đổi quan trọng đó thể hiện kết quả của cải cách hành chính thuế trên
các phương diện sau đây:
Thứ nhất: Làm thay đổi quá trình nộp thuế từ sự bị động tới chủ động của đối
tượng nộp thuế. Trong quy trình nộp thuế theo thông báo thì đối tượng nộp thuế
thực hiện việc kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế.
Số tiền mà đố tượng nộp thuế nộp vào kho bạc nhà nước có thể trùng hoặc không
trùng với số thuế mà họ đã tính toán nhưng phải được cơ quan thuế xác định lại và
được thể hiên trên thông báo thuế. Quy trình này đã làm giảm bớt sự chủ động và
tự chịu trách nhiệm của cơ sở trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Đồng thời cũng
làm gia tăng khối lượng công việc cũng như sự bao cấp của cơ quan thuế. Chuyển
sang quy trình tự tính thuế, tự khai, tự nộp đã đề cao sự chủ động cũng như sựu tự
chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc kê khai thuế và xác định số thuế phải
nộp đối tượng nộp thuế phải nắm vững các quy định của luật thuế về mức thuế
suất, về cách xác định số thuế phải nộp, các hồ sơ, chứng từ cần thiết làm cơ sở để
xác định nghĩa vụ thuế cũng như các điều kiện miễn, giảm thuế,…Lợi ích của việc
áp dụng quy trình mới đã thể hiện rõ ràng đó là, khối lượng công việc sự vụ của cơ

quan thuế đã được giảm bớt, đối tượng nộp thuế tự giác hơn, chủ động hơn trong
việc thực hiện nghĩa vụ của mình và điều quan trọng là thiết lập được niềm tin giữa
cơ quan thuế và người nộp thuế trong quản lý.
Thứ hai: tạo điều kiện cho cơ quan thuế tăng cường trách nhiệm kiểm tra,
thanh tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thuế, cũng như giúp giải quyết những
khó khăn mà đối tượng nộp thuế gặp phải qua đó thực hiện vai trò quản lý nhà
nước đối với quá trình hành thu. Yêu cầu của cải chách hành chính nói chung và
cải cách hành chính thuế nói riêng là sự tách bạch rõ ràng các nhiệm vụ thuộc chức
năng quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng với các hoạt động trực tiếp của
đối tượng bị quản lý, mọi hoạt động quản lý phải công khai, minh bạch, khách
quan và phải được pháp luật quy định. Khi đối tượng nộp thuế theo quy định của
pháp luật thì việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế sẽ
khách quan hơn và minh bạch hơn.
Thứ ba: sự thay đổi quy trình nộp thuế cũng tạo điều kiên và đòi hỏi sắp xếp
lại tổ chức trong các cơ quan thuế để đáp ứng cho yêu cầu quản lý thuế trong điều
kiện hiện nay. Qua đó sẽ có điều kiện tăng cường lực lượng thanh tra thuế cả về số
lượng và chất lượng. Tổ chức thêm bộ phận tư vấn và hỗ trợ đối tượng nộp thuế,
sắp xếp lại về mặt tổ chức và quy định lại nhiệm vụ cho các bộ phận trong cơ quan
thuế… Điều quan trọng là với sự thay đổi này hoạt động quản lý của cơ quan thuế
có hiệu quả hơn, người nộp thuế nhận thức được sự phục vụ của cơ quan thuế, thấy
được sự phục vụ của cơ quan thuế, thấy được sự rõ ràng, đơn giản và thuận tiên
trong khi thực hiện nghĩa vụ thuế của mình và họ tự giác hơn.
Ở Cục thuế Hà Tây, trong năm 2005 quy trình nay mới chỉ áp dụng thí điểm ở
một số đối tượng, chúng ta nên mở rộng đối tượng áp, đặc biệt là các DNNN. Cán
bộ thuế có trách nhiệm hướng dẫn các doanh nghiệp cách thức kê khai, tự nộp
thuế. Quy trình này thực sự tốt khi nó kết hợp với công tác tuyên truyền – hỗ trợ
đối tượng nộp thuế và công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế về việc thực
hiện quy trình. Đây là giải pháp tốt nhất để giảm nhẹ công việc của cán bộ thuế, và
nâng cao tính tự lập cho doanh nghiệp.
2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ thuế

Theo thống kê thì hầu hết những nước có tỷ lệ thất thu thuế thấp là do những
nước đó ngoài chế tài về thuế tốt, mà dịch vụ thuế còn rất tốt. Những năm gần đây
Việt Nam cũng đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc tuyên truyền, giáo
dục và dịch vụ thuế. Trong nền kinh tế và đang cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Đồng chí Trần Xuân Thắng nguyên Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế đã phát biểu “
Tôi nghĩ rằng việc làm thế nào để người dân hiểu việc nộp thuế có nhà nước là việc
làm chính đàng thì đó mới là điều quan trọng. Khi người dân đã “ giác ngộ” được
vì sao mình phải nộp thuế, nộp thuế là để bải vệ chính mình thì họ sẽ vui vẻ thực
hiện. Bác Hồ nói “ nộp thuế đúng và đủ là đạo đức của người công dân”. Công tác
tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế phải đảm bảo khi đưa luật thuế mới vào áp
dụng thì phải có những buổi hướng dẫn về áp dụng luật thuế giải đáp những vướng
mắc, khó khăn của các đối tượng. Phải giáo dục cho mọi người dân biết vì sao họ
phải nộp thuế, nộp thuế có lợi gì cho những người nộp và xã hội. Không nên lơ là
việc tuyên truyền cho các DNNN, không phải các DNNN nào họ cũng hiểu về luật
thuế. Hiện nay tất cả các cơ quan thuế đều chú trọng đến công tác này. Cục thuế có
phòng tuyên truyền – hỗ trợ, chi cục có tổ tuyên truyền – hỗ trợ.
Cục thuế Hà Tây cũng nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác tuyên
truyền – hỗ trợ đối tượng nộp thuế, nên trong nhiều năm qua cục thuế đã phối hợp
với các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền và hỗ trợ đối
tượng nộp thuế và coi đó là giải pháp quan trọng nhất, hữu hiệu nhất để chống thất
thu thuế.
Trong nền kinh tế thị trường việc nắm thông tin nhanh hay chậm, chính
xác hay không chính xác đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt ở Cục thuế Hà Tây, bước đầu áp dụng cơ chế tự
khai, tự nộp, nhiều doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ nên việc cung cấp dịch vụ thuế
( đặc biệt là tư vấn thuế) trở thành một đòi hỏi cần thiết. Công tác tư vấn thuế có
vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết, giúp cơ sở sản xuất kinh doanh giả
quyết vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế. Công tác tư vấn thuế của Cục
thuế Hà Tây đã đạt được một số kết quả bước đầu khá quan trọng, đã thực hiện trả
lời bằng điện thoại cho 2.000 đối tượng, trả lời trực tiếp cho 800 đối tượng, trả lời

bằng văn bản cho 85 đối tượng. Tổ chức tập huấn về các luật thuế mới sửa đổi, bổ
xung cho các doanh nghiêp. Tuy nhiên, đó chỉ là công tác tư vấn trong môi trường
đang thực hiện cơ chế “ thông báo thuế”. Để chuẩn bị đầy đủ điều kiện về dịch vụ
hỗ trợ người nộp thuế, cần tìm ra một mô hình tư vấn thuế phù hợp trong điều kiện
hiện nay. Theo đó, cần giải quyết được các vấn đề cơ bản như việc tư vấn thuế nên
do cơ quan thuế hay do các tổ chức kinh doanh thực hiện, nên tư vấn trực tiếp hay
gián tiếp, có nên thu phí tư vấn hay không, nội dung tư vấn thuế gồm những gì…
Lựa chọn mô hình tổ chức tư vấn thuế: có hai quan điểm về vấn đề này. Loại
quan điểm thứ nhất cho rằng, cơ quan thuế là người thực hiện nhiệm vụ quản lý
thuế cho Nhà nước, do vậy việc giúp các đối tượng nộp thuế, hiểu và thực hiện
nghĩa vụ thuế của mình cũng chính là một phần nhiệm vụ của cơ quan thuế. Vì thế,
đương nhiên cơ quan thuế chứ không phải ai khác là người cung cấp dịch vụ thuế.
Những người theo quan điểm thứ hai cho rằng, trong nền kinh tế thị trường tư vấn
thuế là một loại dịch vụ tài chính, người cần tư vấn được lợi về thời gian và công
sức- không phải mất công nghiên cứu tài liệu để thực hiện nghĩa vụ thuế cho Nhà
nước nên sẵn sàng trả tiền để được tư vấn( tức là xuất hiện nhu cầu có khả năng
thanh toán của thị trường tư vấn về thuế). Do vậy, việc tư vấn thuế nên do các
doanh nghiệp dịch vụ tư vấn tài chính, thuế thực hiện.
Thiết nghĩ, mỗi loại quan điểm xem xét tư vấn thuế dưới một góc độ khác
nhau. Loại quan điểm thứ nhất, xem xét tư vấn thuế dưới góc độ là một phần việc
trong quy trình quản lý thu thuế. Loại quan điểm thứ hai xem xét tư vấn thuế dưới
góc độ nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp: để tiến hành kinh doanh có lợi
nhất, cơ sở kinh doanh cần tư vấn thuế như một loại dịch vụ để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Với mỗi loại quan điểm và mô hình tổ chức thực hiện tương ứng sẽ
phát huy hiệu quả trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định. Chẳng hạn như, đối
với các cơ sở có quy mô kinhdoanh nhỏ, trình độ hiểu biết pháp luật nói chung còn
hạn chế hoặc chưa hiểu rõ về nội dung các quy định của luật thuế…thì rõ ràng họ
thích chọn việc tư vấn miễn phí của cơ quan thuế hơn là phải đi thuê tư vấn ở các
doanh nghiệp làm dịch vụ tư vấn tài chính, vì mục tiều của họ chỉ là làm sao khai
đúng tờ khai thuế và tiến hành đúng các trình tự, thủ tục về đăng ký, kê khai, nộp

thuế và quyết toán thuế, họ không có khả năng tài chính để thuê làm việc này, hoặc
không muốn lãng phí tiền vào một khoản chi có thể tiết kiệm được. Đối với doanh
nghiệp có khả năng tài chính nhưng còn hạn chế về trình độ kế toán và không có
cán bộ chuyên môn sâu về thuế, họ không những muốn làm đúng các thủ tục về
đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế mà còn muốn đảm bảo hệ thống sổ
sách kế toán phù hợp với các yêu cầu của công tác quản lý thuế, muốn giảm bớt số
thuế phải nộp mà vẫn không vi phạm các luật thuế…thì đương nhiên không thể
giải quyết được các nhu cầu này qua việc tư vấn của cơ quan thuế. Do đó, nên tổ
chức song song cả hai mô hình tư vấn là tư vấn của cơ quan Thuế và tư vấn của các
doanh nghiệp tư vấntì chính, tư vấn thuế. Thực hiên mô hình song song này có các
điểm lợi cơ bản là thoả mãn tối đa các loại nhu cầu về tư vấn thuế, giảm bớt khối
lượng của cơ quan thuế, giúp cơ quan tư vấn thuế tập trung thời gian và công sức
cho việc tuyên truyền phổ biến pháp luật thuế và hướng dẫn tốt nhất cho doanh
nghiệp có nhu cầu, tiết kiệm chi phí hành thu,…Tất nhiên khi tiến hành tư vấn
thuế, cơ quan thuế không nên thu phí vì đây là một nhiệm vụ trong công tác quản
lý thu thuế. Mặt khác, với tính chất nhóm đối tượng có nhu cầu tư vấn, nếu phải trả
phí tư vấn sẽ không khuyến khích họ tìm đến tư vấn thuế.
Cách thức thực hiện việc tư vấn của cơ quan thuế. Theo xu hướng chung, cần
đa dạng hoá các cách thức tư vấn để nâng cao hiệu quả và thoả mãn tối đa nhu cầu
tư vấn thuế, tránh tình trạng để các đối tượng nộp thuế chờ đợi quá lâu mới được
thoả mãn nhu cầu tư vấn. Theo kinh nghiệm của một số nước đi trước về vấn đề
này như Mỹ, Nhật,…có thể nghiên cứu các hình thức tư vấn sau:
Tư vấn trực tiếp: đây là hình thức tư vấn truyền thống, các đối tượng cần tư
vấn gặp trực tiếp người có khả năng chuyên môn do cơ quan thuế giao nhiệm vụ để
hỏi và nghe hướng dẫn, trả lời các nội dung mà mình cần biết. Với cách tiến hành
như vậy hình thức này gọi là phương thức “ mặt đối mặt”. Ưu điểm của hình thức
này là người cần tư vấn có thể hiểu nhiều vấn đề một lúc, có thể được hướng dẫn
cách tiến hành cụ thể, khi chưa hiểu cặn kẽ họ có thể hỏi lại để thực sự nắm chắc
vấn đề cần biết. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là tốn thời gian công sức
của cả hai bên, tốn kém chi phí đi lại, giao dịch, đòi hỏi một lực lượng đông cán bộ

làm công tác tư vấn mà lúc thì vẫn ùn tắc, ‘lúc lại ngồi chơi xơi nước” vì nhu cầu
đến tư vấn thuế thường phân bổ không đều. Vì thế, hình thức tư vấn này phù hợp
với một số đối tượng nộp thuế có nhu cầu rất cụ thể đặc thù hoặc tư vấn lần đầu…
Nó vẫn cần được duy trì như một hình thức không thể thiếu, song không nên lạm
dụng mà cần chuyển các đối tượng cần tư vấn sang các hình thức tư vấn khác phù
hợp và hiệu quả hơn.
Tư vấn theo nhóm đối tượng: đây là hình thức mà cán bộ cần giải thích hướng
dẫn hoặc tư vấn cho nhóm đối tượng có nhu cầu tư vấn giống nhau. Tất nhiên, đây
cũng vẫn là một dạng tư vấn có tính chất trực tiếp, song điểm khác với tư vấn mặt
đối mặt là giao diện của tư vấn theo nhóm đối tượng rộng hơn. So với hình thức tư
vấn trước, tư vấn theo nhóm đối tượng khắc phục được nhược điểm là không cần
nhiều cán bộ và giảm bớt các ùn tắc ở các phòng tư vấn. Song, có nhược điểm là
chỉ giải quyết tốt các vấn đề chung, còn các vấn đề cụ thể thì giải quyết được ở một
mức độ nhất định. Hình thức này phù hợp với việc triển khai một chính sách chế
độ, quy định mới hoặc hướng dẫn nội dung nộp thuế cho các đối tượng nộp thuế
mới tiến hành kinh doanh…

×