Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác phẩm số đỏ vỡ đê và giông tố của vũ trọng phụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 143 trang )

...

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ HUYỀN TRANG

CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ
BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ,
VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ HUYỀN TRANG

CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ
BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ,
VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÚ QUYÊN

THÁI NGUYÊN - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.

Thái Ngun, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Đỗ Huyền Trang

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Sau đại học Trường
Đại học sư phạm Thái Nguyên, Ban giám hiệu và Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư
Phạm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập
và hồn thành luận văn này.
Tơi xin đặc biệt bày tỏ lịng kính trọng và sâu sắc tới:
Tiến sĩ Nguyễn Tú Quyên - người cô giáo mẫu mực đã trực tiếp hướng dẫn tơi,
đã tận tình chỉ bảo cho tơi những kiến thức qúy báu không những trong chuyên môn
mà cả những kiến thức trong cuộc sống trong suốt quá trình tơi thực hiện đề tài này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô và các Bạn học viên trong lớp
chuyên ngành Ngôn Ngữ Việt Nam K22 đã cho tơi những kiến thức và những góp ý
chun mơn q báu trong suốt q trình tơi học tập và làm đề tại tại bộ môn. Đồng

thời trân quý cảm ơn sự nhiệt tình của các thầy, các cơ, các bạn đồng nghiệp trong
lớp, trong khoa đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong q trình tơi thực hiện đề tài này.
Cuối cùng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã ln động viên, khích lê và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập
và hồn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Đỗ Huyền Trang

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4
7. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................... 6
1.1. Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ ...................................................... 6
1.1.1. Khái quát về sở chỉ ............................................................................................. 6

1.1.2. Khái quát về hiện tượng đồng sở chỉ ................................................................ 16
1.2. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ
trong tiếng Việt ........................................................................................................... 17
1.2.1. Hoạt động giao tiếp và các nhân tố giao tiếp .................................................... 17
1.2.2. Khái quát về đoản ngữ, danh ngữ trong tiếng Việt ........................................... 20
1.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 23
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU
THỊ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ
TRỌNG PHỤNG ...................................................................................................... 25
2.1. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Số
đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng .............................................................. 25
2.1.1. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua
việc dùng tên riêng ...................................................................................................... 28

iii


2.1.2. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua
việc dùng biểu thức miêu tả ........................................................................................ 34
2.1.3. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua
việc dùng biểu thức chỉ xuất ....................................................................................... 40
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong
Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng ......................................................... 46
2.2.1. Các biểu thức đồng sở chỉ là tên riêng .............................................................. 46
2.2.2. Các biểu thức đồng sở chỉ có nghĩa phi miêu tả ............................................... 46
2.2.3. Các biểu thức đồng sở chỉ có nghĩa miêu tả ..................................................... 47
2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 51
Chương 3: VAI TRÒ CỦA CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU
THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ....................................................................................... 53

3.1. Bộc lộ đặc điểm giới tính và ngoại hình của nhân vật ......................................... 53
3.1.1. Bộc lộ đặc điểm giới tính của nhân vật ............................................................ 53
3.1.2. Bộc lộ đặc điểm ngoại hình của nhân vật ......................................................... 56
3.2. Bộc lộ tính cách, thái độ của nhân vật ................................................................. 81
3.2.1. Bộc lộ tính cách của nhân vật: .......................................................................... 81
3.2.2. Bộc lộ thái độ của nhân vật ............................................................................... 89
3.3. Bộc lộ nghề nghiệp của nhân vật ....................................................................... 102
3.3.1. Nghề dạy học .................................................................................................. 102
3.3.2. Học sinh, sinh viên.......................................................................................... 103
3.3.3. Nghề khám, chữa bệnh ................................................................................... 103
3.3.4. Nghề buôn bán ................................................................................................ 105
3.3.5. Nghề đưa thư................................................................................................... 106
3.3.6. Nghề nghiệp mang tính chất nghệ thuật ......................................................... 106
3.3.7. Nghề thợ may.................................................................................................. 107
3.3.8. Nghề bói tốn .................................................................................................. 107
3.3.9. Nghề hoạt động trong lĩnh vực thể thao ......................................................... 108
3.3.10. Nghề đi tu theo đạo Phật ở chùa ................................................................... 109

iv


3.3.11. Nghề nơng ..................................................................................................... 110
3.3.12. Nghề lái đị .................................................................................................... 111
3.3.13. Nghề làm thợ................................................................................................. 111
3.4. Bộc lộ vị thế của nhân vật giao tiếp ................................................................... 112
3.4.1. Vị thế xã hội .................................................................................................... 112
3.4.2. Vị thế gia đình................................................................................................. 122
3.5. Tiểu kết .............................................................................................................. 127
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 129


v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN

Danh ngữ

ĐT

định tố

P

phụ

Phs

phụ sau

Pht

phụ trước

Trt

trung tâm

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số các nhân vật, tổng số các biểu thức đồng sở chỉ và tần số xuất hiện của
các biểu thức trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng .....................25
Bảng 2.2. Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Số đỏ .......................................26
Bảng 2.3: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Vỡ đê ......................................27
Bảng 2.4: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Giông tố ..................................28
Bảng 2.5. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức tên riêng trong Số đỏ, Vỡ đê và
Giông tố ..................................................................................................................29
Bảng 2.6. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Số đỏ ..............................................................29
Bảng 2.7. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Vỡ đê .............................................................30
Bảng 2.8. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Giông tố .........................................................30
Bảng 2.9. Đặc điểm cấu tạo của biểu thức tên riêng ..............................................................34
Bảng 2.10. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức miêu tả trong Số đỏ, Vỡ đê và
Giông tố ..................................................................................................................34
Bảng 2.11. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Số đỏ ..............................................................34
Bảng 2.12. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Vỡ đê..............................................................35
Bảng 2.13. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Giông tố .........................................................36
Bảng 2.14. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức chỉ xuất trong Số đỏ, Vỡ đê và
Giông tố ..................................................................................................................40
Bảng 2.15. Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Số đỏ .............................................................40
Bảng 2.16: Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Vỡ đê.............................................................41
Bảng 2.17: Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Giông tố ........................................................42

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Lịch sử ngôn ngữ học trước những năm 70 của thế kỷ trước chủ yếu quan tâm
đến cấu trúc nội tại của ngôn ngữ. Theo đó, những câu như Tơi đói, Hơm nay trời lạnh nhỉ
sẽ được xem là những câu đúng bởi chúng chuẩn về mặt ngữ pháp và logic về mặt ngữ
nghĩa. Tuy nhiên, khi ngôn ngữ phải thực hiện chức năng quan trọng nhất của nó - chức
năng giao tiếp thì việc nghiên cứu câu dưới dạng “chất liệu cấu thành” đã bộc lộ những
hạn chế rõ rệt. Tác giả Hồng Cao Cương đã chỉ rõ: có ít nhất 7 lý do để tin rằng nếu dừng
câu lại ở quan niệm cú pháp truyền thống thì sẽ khơng nhận được các giải thích đúng đắn
ngay cả đối với cái định nghĩa về câu mà chúng ta đang sử dụng.
Sang nửa cuối thế kỷ 20, sau khi nhận rõ những sai lầm của việc nghiên cứu câu
chỉ trong địa hạt riêng của nó, các nhà ngơn ngữ học bắt đầu chuyển dần sang hướng
tiếp cận mới, đó là nghiên cứu câu gắn với ngữ cảnh. Hướng tiếp cận này đánh dấu sự
ra đời của chuyên ngành Ngữ dụng học. Lúc này, ngôn ngữ bắt đầu “vận động theo
quỹ đạo hồi quy đi từ mô tả triệt để các yếu tố trong khung lý thuyết hẹp sang mơ tả
các q trình tương tác trong bối cảnh xã hội rộng lớn và toàn diện; từ thực thể ngôn
ngữ sang biểu hiện của lời nói; từ các biểu diễn bề mặt hình thức sang biểu diễn ngữ
nghĩa học; từ việc quên quyền lợi người dùng sang đề cao mặt dụng học của các biểu
lộ ngơn từ”.
Như vậy, có thể nói, sự ra đời của Ngữ dụng học thực sự là bước đột phá mới,
giải quyết được những bế tắc mà cú pháp truyền thống đang gặp phải.
1.2. Góp phần quan trọng vào việc giải quyết những bế tắc của cú pháp truyền
thống có lý thuyết về sở chỉ.
Sở chỉ là vấn đề đầu tiên mà các nhà logic học quan tâm và cũng là vấn đề thứ
nhất của ngữ dụng học. Trong hoạt động giao tiếp, hành vi sở chỉ giúp cho người nghe
(người đọc) nhận diện được đối tượng được quy chiếu, nhờ đó mới giải thuyết nghĩa
của phát ngơn.
Với vai trị quan trọng như vậy, vấn đề sở chỉ đã được tương đối nhiều các nhà
Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu với những tên gọi khác nhau như chiếu vật, quy
chiếu, tham chiếu, sở chỉ. Nói điều này để thấy hiện tượng ngôn ngữ này không phải
là vấn đề nghiên cứu mới mẻ.
1.3. Trong giao tiếp, để quy chiếu một đối tượng, người ta không dùng một biểu

thức duy nhất mà sử dụng linh hoạt nhiều biểu thức. Các biểu thức khác nhau quy chiếu
vào một đối tượng như vậy được gọi là các biểu thức đồng sở chỉ.

1


Nếu như vấn đề sở chỉ được nhiều nhà Việt ngữ học nghiên cứu thì hiện tượng
đồng sở chỉ chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Hiện nay, chúng tơi mới chỉ tìm
thấy có một cơng trình nghiên cứu về vấn đề này là Luận án Tiến sĩ “Sở chỉ và đồng sở
chỉ trong tiếng Việt” của Nguyễn Tú Qun. Trong cơng trình này, tác giả đã chỉ ra các
cơ sở tạo lập, thay thế, nhận diện các biểu thức đồng sở chỉ trong tiếng Việt cũng như
vai trò của chúng. Tuy nhiên, đây là cơng trình nghiên cứu hiện tượng đồng sở chỉ nói
chung nên chưa chỉ ra được phong cách của nhà văn khi sử dụng các biểu thức này
trong tác phẩm. Điều này cho thấy, việc tìm hiểu hiện tượng đồng sở chỉ ở một tác giả
cụ thể là điều rất cần thiết.
1.4. Ba tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng được nhiều nhà
phê bình văn học đánh giá là bộ tam kiệt tiểu thuyết đồng sáng tác năm 1936 có nhiều
giá trị to lớn. Bộ tam kiệt tiểu thuyết này đề cập đến xã hội chuyển từ “phi ngã” sang
khẳng định bằng mọi cách và mọi giá cá tính và bản ngã của mỗi cá nhân, cá thể con
người. Đó là một xã hội mà yêu cầu giải phóng cá nhân, cá tính được đặt lên hàng đầu
(kể cả yêu cầu giải phóng bản năng, đề cao đời sống tình dục). Để thể hiện được nội
dung tư tưởng này, tác giả sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo trong đó có việc
sử dụng các biểu thức đồng sở chỉ. Trong tác phẩm, các biểu thức này rất phong phú
và được thể hiện có chủ đích.
Những điều trình bày ở trên phần nào cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu
vấn đề đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.
2. Lịch sử vấn đề:
2.1. Tình hình nghiên cứu sở chỉ và đồng sở chỉ trong tiếng Việt
Sở chỉ không phải là vấn đề mới mẻ trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học. Sự ra
đời của lý thuyết này gắn liền với sự hình thành và phát triển của Ngữ dụng học. Trong

các cơng trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới, các tác giả đề cập đến hiện tượng
sở chỉ như một sự thừa nhận vai trò của nó trong việc hiểu giá trị chân thực của phát
ngôn.
Nếu như vấn đề sở chỉ, ở một mức độ nhất định, đã được các nhà ngôn ngữ học
đề cập đến thì hiện tượng đồng sở chỉ lại chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Ở
một vài cơng trình nghiên cứu, hiện tượng này mới chỉ được dưới hình thức lí giải một
vài trường hợp cụ thể. Điều này cho thấy hiện tượng đồng sở chỉ vẫn là một lĩnh vực
nghiên cứu mới mẻ cần được quan tâm hơn. Xét thấy vấn đề nghiên cứu về hiện tượng

2


đồng sở chỉ mới chỉ có một tác giả tham gia nghiên cứu chuyên sâu, đó là tác giả
Nguyễn Tú Quyên với Luận án Tiến sĩ “Sở chỉ và đồng sở chỉ trong tiếng Việt” (Trên
cơ sở về nhân vật trong tác phẩm văn học).
2.2. Tình hình nghiên cứu các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
Khi nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng đã có nhiều vấn đề xung quanh những tác
phẩm của ông, khen cũng lắm mà chê cũng nhiều. Đã nhiều người viết về tác phẩm của
Vũ Trọng Phụng, các ngòi bút tiểu luận đã khai thác sự tạo thành và mối tương quan
giữa những nhân vật độc đáo của ơng với hồn cảnh lịch sử, xã hội. Trong nghiên cứu
phê bình văn học những năm gần đây, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình
có tên tuổi đã thông qua nhiều phương tiện thông tin báo chí, phát thanh, phát biểu về
tác phẩm và tác giả Vũ Trọng Phụng. Đáng chú ý là Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 năm
ngày mất Vũ Trọng Phụng do Viện Văn học và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tháng
10 - 1989, tại Văn miếu Hà Nội. Đã có hơn hai mươi bản tham luận của các Giáo sư,
Phó giáo sư, Tiến sĩ, các nhà nghiên cứu phê bình Văn học đọc tại hội nghị, bước đầu
nhận thức lại và khẳng định lại một lần nữa vị trí của nhà văn và tác phẩm trong văn
học sử Việt Nam. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu các tác giả đi trước chúng tôi nhận
thấy các tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện về Vũ Trọng Phụng và sự nghiệp văn
chương của ơng.

Tuy nhiên, có thể thấy, trong các cơng trình nghiên cứu về tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về đồng sở chỉ. Đây chính là lý do
mà chúng tơi chọn vấn đề này làm đối tượng nghiên cứu trong đề tài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tơi đặt ra ba mục đích sau:
3.1. Tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông
tố xét từ phương diện cấu trúc để thấy được đặc điểm của các biểu thức này trong hành
vi sở chỉ.
3.2. Tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố
xét từ phương diện ngữ nghĩa để thấy được căn cứ xây dựng các biểu thức của tác giả.
3.3. Phân tích vai trị của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài này phải thực hiện những nhiệm vụ
sau:

3


4.1. Trình bày cách hiểu về sở chỉ và đồng sở chỉ. Tìm hiểu những vấn đề lý
thuyết có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.
4.2. Thống kê, phân loại và miêu tả các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm
Số đỏ xét từ phương diện cấu trúc và ngữ nghĩa.
4.3. Phân tích giá trị của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biểu thức thức đồng sở chỉ biểu thị
nhân vật (các biểu thức chỉ cá thể nhân vật).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các biểu thức thức đồng sở chỉ biểu thị nhân
vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng về ba phương diện:

- Cấu tạo ngữ pháp;
- Ngữ nghĩa;
- Giá trị (vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm)
6. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
6.1. Phương pháp điều tra ngôn ngữ
Phương pháp nghiên cứu này được dùng để thu thập các biểu thức ngôn ngữ
được coi là đồng sở chỉ biểu thị nhân vật tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ
Trọng Phụng.
6.2. Phương pháp thống kê - phân loại:
Phương pháp này được dùng khi khảo sát các ngữ liệu để tìm ra số lượt sử dụng
của các cách gọi một nhân vật với những tên khác nhau trong bộ ba tác phẩm Số đỏ,
Giông tố và Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng.
6.3 Phương pháp miêu tả cấu trúc
Phương pháp nghiên cứu này được vận dụng khi miêu tả cấu trúc của các biểu
thức đồng sở chỉ cũng như tìm hiểu các thành tố ngơn ngữ cấu thành nên biểu thức.
4


6.4 Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu này được dùng để phân tích nguồn tư liệu đã thống kê
(cụ thể là các biểu thức đồng sở chỉ được dùng để biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số
đỏ, Vỡ đê và Giơng tố), sau đó khái qt, tổng hợp các kết quả nghiên cứu thành từng
nhóm, từng tiểu loại.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận.
Chương 2. Đặc điểm của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác
phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.

Chương 3: Vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê
và Giông tố của Vũ Trọng Phụng.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chương này trình bày hai vấn đề lớn, đó là:
- Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ trong tiếng Việt
- Những vấn đề lý thuyết liên quan đến sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ trong
tiếng Việt.
Những vấn đề lý thuyết trên là cơ sở cho việc nhận diện cũng như tìm hiểu đối
tượng nghiên cứu ở các phương diện khác nhau.
1.1. Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ
1.1.1. Khái quát về sở chỉ
Nghĩa của từ và những hiện tượng liên quan được bàn đến khá sơ sài trong
Cấu trúc luận, do chỗ chủ nghĩa này chủ trương mơ tả hình thức ngơn ngữ thơng qua
những thế đối lập và phân bố trong một hệ thống ngôn ngữ. Từ và các hành động
ngôn từ được bàn đến với một nội dung phong phú hơn, khi các nhà triết học ngữ
nghĩa mà mở đầu là B. Carnap (1939) và B. Russell (1903) trong trào lưu triết học
ngữ nghĩa thực chứng, quan niệm rằng hành vi quan trọng nhất của con người là dùng
ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày. Và vì vậy, để hiểu nghĩa của từ phải thông qua
các hành động ngôn từ (J.R. Austin (1962) và J.R.Searle (1969)). Chính bằng cách
đặt vấn đề như vậy, mặt chức năng của ngôn ngữ được chú trọng hơn theo một tiếp
cận hoàn toàn mới: cấu trúc và các đặc điểm cấu trúc của từ hoặc của các cấu trúc lớn
hơn từ, suy cho cùng chỉ là những phương tiện giúp người nói nhận diện ra được
những sự vật có trong thực tế khách quan mà trong nội dung các thơng điệp đã được
nhắc tới. Một câu có hình thức trần thuật vẫn có thể đảm đương nhiệm vụ của một
câu nghi vấn hay một câu cầu khiến. Vấn đề là câu đó được sử dụng vào lúc nào và

chủ đích của người nói là hướng tới cái gì, đã sử dụng những phương tiện gì đi kèm
hoặc kết hợp với câu đó khi biểu lộ những chủ đích này. Nói cách khác, cái quan
trọng chính là phát ngơn đó dùng để nói lên cái gì trong một hồn cảnh cụ thể. Đó
chính là nghĩa của lời. Nghĩa của lời quan trọng nhất chính là việc hướng tới các sự
vật có trong thực tế khách quan mà nội dung mệnh đề muốn bàn luận tới. Ngôn ngữ
học trong thời hiện đại, nhất là ngữ nghĩa học quan tâm tới hành vi hướng tới thực tế
khách quan này của lời, cái thường được gọi là hành vi sở chỉ của hành động nói
năng.

6


1.1.1.1. Quan niệm về sở chỉ (reference)
Không phải ngẫu nhiên mà A.Cruse lại nói rằng: “Chủ đề về sở chỉ là nguyên
nhân tuôn tràn hàng tấn mực: một vài bộ óc triết học huyền ảo nhất đã giáp lá cà với
nó và các cuộc tranh luận dễ mất lịng chẳng bao giờ có hồi kết.” [77, tr.317]
Nhận định trên của A.Cruse trong Meaning in Language: An introduction to
Semantics and Pragmatics (Nghĩa trong ngôn ngữ: Một nhập môn vào Ngữ nghĩa học
và Ngữ dụng học) đã cho thấy tính phức tạp của vấn đề sở chỉ. Có thể nhận thấy sự
phức tạp này qua những quan niệm tiêu biểu trong và ngoài nước dưới đây:
a. Quan niệm của các tác giả nước ngồi
Để xác định hiểu được nghĩa của phát ngơn, có một cách xuất phát là tìm hiểu
quy luật tương ứng giữa các biểu thức ngôn ngữ với các sự vật có trong thực tế khách
quan. Nói cách khác, sở chỉ chính là hành vi của người nói nhằm đồng nhất hóa nội
dung của một biểu thức ngơn ngữ với sự vật có trong thực tế. Như M.Green trong
Pragmatics and Natural languages understanding (1989) đã phát biểu: “Thuật ngữ
chiếu vật (sở chỉ) được dùng để chỉ cách mà người nói phát âm ra một biểu thức ngôn
ngữ với hy vọng rằng biểu thức đó sẽ giúp cho người nghe của anh ta suy ra được một
cách đúng đắn cái thực thể nào, đặc tính nào, sự kiện nào anh ta đang nói đến” [dẫn
theo 79, tr.193].

Như vậy, M.Green quan niệm sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ mà từ hành vi
này, một “thực thể”, một “đặc tính”, một “sự kiện” sẽ được người nghe nhận diện thông
qua một biểu thức ngôn ngữ.
Cùng quan điểm với M.Green, G. Yule và A. Cruse viết: “Chúng ta, tốt hơn hết
là cho rằng chiếu vật là một hành vi nhờ nó mà người nói và người viết dùng các hình
thức ngơn ngữ nhằm làm cho người nghe hoặc người đọc biết được một sự vật nào đó”
[dẫn theo 70, tr.194].
Và:
“Dưới cái đầu đề sở chỉ, chúng ta sẽ gặp một trong những bình diện cơ bản, sống
cịn nhất của ngơn ngữ và việc dùng ngơn ngữ, đó chính là mối quan hệ giữa ngôn ngữ
như là phương tiện giao tiếp giữa con người và cái thế giới mà chúng ta giao tiếp về
nó” [77, tr.137]; “Sở chỉ được quan tâm cùng với việc thể hiện các thực thể có trong
thế giới nhờ các phương tiện ngôn ngữ học” [77, tr.137].
Thừa nhận sở chỉ là một hành vi ngơn ngữ có nghĩa là các nhà ngôn ngữ học đã
đồng thuận khi cho rằng: sở chỉ không phải là “việc làm tự thân của ngôn ngữ mà là
7


của con người” [13, tr.192]. G. Yule nhấn mạnh: “Chúng ta cần phải biết rằng từ ngữ
- ở đây là biểu thức chiếu vật - tự chúng không quy chiếu được với bất cứ một cái gì
cả. Chỉ con người mới chiếu vật.” [dẫn theo 70, tr.192].
Từ sự khẳng định sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
quan tâm đến các yếu tố làm nên hành vi sở chỉ.
Yếu tố thứ nhất rất dễ nhận diện, đó chính là “cái gì đó có trong thế giới” [77,
tr.17]. Bởi suy cho cùng, mục đích của sự sở chỉ là thông qua ngôn ngữ làm nảy ra
cái thực thể có trong thế giới và để cho người nghe xác định được thực thể đó. Vậy
yếu tố thứ hai là gì? A. Cruse cho rằng, yếu tố thứ hai chính là biểu thức ngơn ngữ
(linguistic expression). Một ví dụ được ơng đưa ra để phân tích cho sự khẳng định
này:
(1) Geoge Bush is to visit Ireland in May.

(Tổng thống Geoge Bush sẽ đi thăm nước Ireland vào tháng 5)
Biểu thức Geoge Bush ở đây quy chiếu đến một vị tổng thống Hòa Kỳ. Người
nghe xác định được điều này bởi vì người nghe nhận ra được mối quan hệ giữa các yếu
tố làm nên hành vi sở chỉ, đó là một cá nhân trong thực tế (yếu tố thứ nhất) và biểu thức
ngôn ngữ Geoge Bush (yếu tố thứ hai). Tuy nhiên, ông cũng nhất mạnh: “Không có
một quan hệ một đối một đặc quyền nào giữa biểu thức Geoge Bush và ông Geoge
Bush đang là tổng thống Hoa Kì. Khơng nghi ngờ gì có hàng trăm (là ít nhất) các ơng
Geoge Bush trên thế giới. Sở dĩ Geoge Bush quy chiếu với ông tổng thống đương nhiệm
của Hoa Kì chỉ là bởi vì có một người nói nào đó định dùng biểu thức này cho cái mục
đích ở một dịp đặc biệt nào đó” [77, tr.318]. Như vậy, để có thể nhận diện được mối
quan hệ giữa hai yếu tố trên, người nghe cần phải xác định được chủ đích của người
nói trong việc tạo lập ra phát ngơn.
Tóm lại, khi nói về sở chỉ, các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận: sở chỉ là một
hành vi ngôn ngữ và sở chỉ thể hiện mối quan hệ giữa đối tượng, sự vật trong thế giới
khách quan với một hình thức biểu đạt là phương tiện ngôn ngữ.
b. Quan niệm của các tác giả Việt Nam
Cũng bàn về vấn đề sở chỉ, ở Việt Nam, có hai nhà ngơn ngữ học khơng thể
khơng nhắc tới, đó là Cao Xuân Hạo và Đỗ Hữu Châu.
- Quan niệm của Cao Xuân Hạo:
Cần phải nói ngay rằng, Cao Xuân Hạo đã dùng thuật ngữ sở chỉ để chỉ cả hành
động sở chỉ (reference) lẫn vật sở chỉ (referent). Trong cơng trình nghiên cứu của mình,
8


ông không đưa ra quan niệm cụ thể về sở chỉ như một hành động mà chỉ thể hiện quan
niệm này qua cách định nghĩa về vật sở chỉ. Chính vì vậy, những trích dẫn dưới đây
của ơng về sở chỉ phải được hiểu là vật sở chỉ (referent).
+ Cao Xuân Hạo cho rằng: “Sở chỉ là một sự vật cụ thể hay một tập hợp xác
định gồm những đối tượng cụ thể” [31, tr.104]. Sở chỉ của từ chỉ xác định được khi từ
nằm trong câu (phát ngơn). Nói khác đi, “Trong câu nói các từ ngữ mới có thể có sở

chỉ (referent)” [33, tr.105].
Chẳng hạn, một danh từ riêng như Hương chỉ có thể xác định được sở chỉ của
nó khi danh từ này nằm trong phát ngơn, kiểu như:
(2) Hương lớp 7A học rất giỏi.
Nhờ định ngữ lớp 7A mà sở chỉ của từ Hương trong trường hợp này được xác
định (với điều kiện lớp 7A chỉ có một người tên là Hương, cịn nếu lớp 2A có hai người
tên là Hương thì phải thêm các điều kiện khác). Đó là một con người cụ thể, phân biệt
với tất cả những người cụ thể khác (cũng có tên là Hương hoặc khơng có tên là Hương).
Tách từ Hương ra khỏi phát ngôn, Hương vẫn là một danh từ riêng nhưng chúng ta
không thể xác định được nghĩa sở chỉ của từ này, tức là không thể xác định được từ
Hương ở đây chỉ ai, tức chỉ đối tượng cụ thể nào.
+ Về khái niệm nghĩa sở chỉ, Cao Xuân Hạo nói rõ: Nghĩa sở chỉ của từ ngữ “là
mối liên hệ giữa từ ngữ và thế giới hiện thực”. [31, tr.104] Chẳng hạn:
(3) Cái bút ở trên bàn là của bạn Trang.
Cái bút trong trường hợp này đã xác định được sở chỉ bởi ta biết nó quy chiếu
đến đối tượng nào trong thực tế. Đây là một cái bút cụ thể của một nhân vật cụ thể.
Tuy nhiên, để hiểu được nghĩa sở chỉ của từ (cái) bút, người nghe phải có sự liên hệ
với thực tế khách quan, tức là phải biết được một vật như thế nào được gọi là (cái) bút,
nói khác đi là phải hiểu được nghĩa biểu vật của từ bút.
Cao Xn Hạo cịn nói thêm: “Việc xác định sở chỉ của từ ngữ khơng thuộc bình
diện nghĩa mà thuộc bình diện dụng pháp” [33, tr.54]. Tức là chỉ xác định được nghĩa
sở chỉ của từ ngữ khi chúng đi vào hoạt động.
Ví dụ:
(4) Tơi đói q!
Khi phát ngơn này tồn tại ở dạng tĩnh tại, người nghe sẽ không thể xác định
được nghĩa sở chỉ của từ tôi bởi không biết tôi ở đây quy chiếu vào ai. Nhưng nếu câu
này phát ra bởi chủ thể A, tại thời điểm t, khi mà A vừa đi làm về và chưa ăn gì thì
người nghe sẽ dễ dàng xác định được nghĩa sở chỉ của từ tôi.

9



Tóm lại, theo cách hiểu của Cao Xn Hạo thì sở chỉ là đối tượng cụ thể, xác
định, tồn tại trong một thế giới khả hữu (một thế giới có thể có thực và có thể khơng
có thực). Cịn nghĩa sở chỉ của từ là mối liên hệ giữa từ với đối tượng mà từ phản ánh.
Khi chưa được sử dụng, từ khơng có nghĩa sở chỉ.
- Quan niệm của Đỗ Hữu Châu:
Đỗ Hữu Châu không dùng thuật ngữ sở chỉ để chỉ cả hành động sở chỉ
(reference) và vật sở chỉ (referent) như Cao Xuân Hạo mà dùng thuật ngữchiếu vật
vàvật quy chiếu.
Ông quan niệm:
+ “Chiếu vật (reference) là quan hệ giữa phát ngôn - cũng tức là giữa biểu thức
chiếu vật - với các bộ phận trong ngữ cảnh của nó” [13, tr.192].
Vật quy chiếu (referent) là sự vật, hiện tượng tồn tại trong một thế giới khả hữu
- hệ quy chiếu. Điều này có nghĩa là bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có thể trở thành
vật quy chiếu nếu nó tồn tại trong một thế giới khả hữu nhất định. Ví dụ:
(5) Nai Nhỏ xin phép cha được đi chơi xa cùng bạn.
Đặt trong thế giới hiện thực mà ta đang sống, phát ngôn trên sẽ là sai bởi Nai
chỉ là một loài động vật bậc thấp, khơng biết nói để có thể “xin phép cha” đi chơi. Tuy
nhiên, sẽ là bình thường nếu phát ngôn trên được đặt trong hệ quy chiếu là thế giới
truyện cổ tích của trẻ em. Điều này cho thấy, ở thế giới hiện thực này, có vật quy chiếu
được chấp nhận, nhưng nếu đem sang thế giới hiện thực khác, tức hệ quy chiếu khác,
nó lại trở nên vơ nghĩa.
Đỗ Hữu Châu đã có cùng quan điểm với các tác giả nước ngồi khi chỉ rõ: “Tự
bản thân mình, từ ngữ khơng có chiếu vật. Chỉ có con người mới thực hiện hành vi
chiếu vật (sở chỉ). Bằng hành vi chiếu vật, người nói đưa sự vật hiện tượng mình định
nói tới vào diễn ngơn của mình bằng các từ ngữ, bằng câu” [12, tr.61]. Điều này có
nghĩa chỉ xác định được vật quy chiếu của từ ngữ khi chúng đi vào hoạt động.
Chẳng hạn, từ hôm nay khi đứng độc lập vẫn có nghĩa nhưng ta khơng thể biết
nó quy chiếu vào thời gian nào trong thực tế. Nhưng khi ta đưa nó vào diễn ngơn, kiểu

như “Hơm nay tôi đi Hà Nội” và diễn ngôn này được phát bởi chủ thể A, tại thời điểm
t thì ta dễ dàng xác định được hôm nay là thời gian cụ thể nào, tức là xác định được vật
quy chiếu của từ hơm nay.
Tóm lại, cách hiểu về chiếu vật và vật quy chiếu (sở chỉ) của Đỗ Hữu Châu
không có gì khác so với cách hiểu của Cao Xn Hạo.
10


+ Về khái niệm nghĩa sở chỉ, Đỗ Hữu Châu không gọi là nghĩa sở chỉ mà gọi là
nghĩa chiếu vật.
Theo ơng, có thể hiểu về nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) như sau:
Nghĩa chiếu vật là sự tương ứng giữa sự vật với một biểu thức chiếu vật. Biểu
thức chiếu vật là kết cấu ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) được dùng để chiếu vật. Ví dụ:
(6) Con mèo nhà tơi rất thích bắt chuột.
Trong phát ngơn trên, con mèo nhà tôi là một biểu thức chiếu vật và biểu thức
chiếu vật này được cấu tạo bởi một cụm từ. Ở đây, con mèo nhà tơi có nghĩa chiếu vật
là chỉ một con mèo trong thực tế, đã được xác định, phân biệt với những sinh vật khác
cũng được gọi là mèo.
Nằm trong hệ thống, các từ có nghĩa biểu vật (và nghĩa biểu niệm). Nghĩa của
từ ghi trong từ điển là nghĩa biểu vật. Khi được sử dụng, nghĩa biểu vật của từ chuyển
hoá thành nghĩa chiếu vật. Ví dụ, từ mẹ khi chưa sử dụng (trong từ điển) có nghĩa biểu
vật là “người đàn bà có con, trong quan hệ với con” [71, tr.604]. Nhưng khi chúng ta
nói:
(7) a. Mẹ Hương là bác sĩ.
b. Mẹ Trang vừa đi chợ về.
c. Mẹ Minh đang buồn.
thì ba từ mẹ ở trong ví dụ (7) có nghĩa chiếu vật khơng giống nhau bởi nó chỉ ba
đối tượng khác nhau (ba bà mẹ cụ thể, khác nhau).
Như vậy, tương tự như cách hiểu về sở chỉ, cách hiểu về nghĩa sở chỉ (nghĩa
chiếu vật) của Đỗ Hữu Châu cũng đồng nhất với cách hiểu của Cao Xuân Hạo về khái

niệm này.
1.1.1.2. Khái niệm về sở chỉ
Chúng tơi hồn tồn tán đồng với quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước
khi cho rằng sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ và sở chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa đối
tượng, sự vật trong thế giới khách quan với một hình thức biểu đạt là phương tiện ngơn
ngữ như đã phân tích ở trên. Theo đó, sở chỉ (reference) được chúng tôi định nghĩa như
sau:
“Sở chỉ là một hành vi ngơn ngữ mà nhờ nó, đối tượng/ sự vật trong thế giới khả
hữu được người nghe/ đọc nhận diện thông qua một biểu thức ngơn ngữ (cịn gọi là
biểu thức sở chỉ)”.

11


1.1.1.3. Các phương thức sở chỉ
Theo Đỗ Hữu Châu, “Phương thức chiếu vật (sở chỉ) là cách thức mà con người
sử dụng để thực hiện hành vi chiếu vật. Chúng cũng là những con đường mà người
nghe tìm ra nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) từ các biểu thức chiếu vật nghe (đọc) được”
[12, tr.64].
Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra 3 phương thức lớn để xác định nghĩa chiếu vật (nghĩa
sở chỉ), đó là 1) Dùng tên riêng, 2) Dùng biểu thức miêu tả và 3) Dùng chỉ xuất.
a. Phương thức dùng tên riêng
- Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật. Tên riêng có chức năng cơ bản là
chỉ cá thể sự vật đúng với phạm trù của cá thể được gọi tên bằng tên riêng đó. Chẳng
hạn, tên riêng chỉ người có chức năng cơ bản là chỉ cá thể người trong phạm trù người,
tên riêng của sơng, núi có chức năng cơ bản là chỉ cá thể núi, sông trong phạm trù vật
thể tự nhiên, v.v...Chính vì thế, thơng thường, trong những hồn cảnh cụ thể, cứ dùng
tên riêng là ta biết tên riêng đó sẽ ứng với người, vật hay địa danh nào. Ví dụ, trong
một hồn cảnh nhất định, khi ta nói: “Đà Nẵng thật giàu và đẹp”. Hay: “Hương có mái
tóc thật dài” là ta biết ngay Đà Nẵng là tỉnh nào và Hương là ai.

- Tên riêng có thể trùng nhau. Có thể nói, trùng tên gọi là hiện tượng rất phổ
biến, đặc biệt là ở Việt Nam. Việc trùng tên riêng sẽ dẫn đến việc mơ hồ về nghĩa sở
chỉ và làm cho người đọc khó nhận diện được đối tượng được đề cập đến.
Có hai trường hợp trùng tên riêng có thể xảy ra:
+ Các tên riêng trùng nhau nằm trong một phạm trù sự vật.
VD: Thủy là tên của nhiều người. Khi đó, để nhận diện hai đối tượng này, người ta
thường thêm tiểu danh vào sau tên riêng, kiểu như: Thủy cận, Thủy kều, v.v…
+ Các tên riêng trùng nhau không nằm trong một phạm trù sự vật.
VD: Hương Giang có thể là tên của một cơ gái, có thể là tên của một dịng sơng,
có thể là tên của một khách sạn. Để phân biệt 3 đối tượng này, người ta sẽ thêm danh
từ chung vào trước tên riêng, kiểu như: sông Hương Giang, khách sạn Hương Giang,
cơ Hương Giang.
Tóm lại, dùng tên riêng là một trong những phương thức sở chỉ.
b. Phương thức dùng biểu thức miêu tả
Không phải sự vật, đối tượng nào trong hiện thực khách quan cũng có tên riêng.
Nói cách khác, không phải sự vật, đối tượng nào cũng đặt được tên riêng cho nó. Người
ta khơng thể đặt tên cho từng cái bút, cái cây, từng ngôi nhà bởi số lượng của chúng
12


trong hiện thực là vô số. Song các sự vật, đối tượng này nếu được đưa vào phát ngơn
(dưới hình thức tên chung), chúng phải được người nghe (đọc) xác định đó là sự vật,
đối tượng cụ thể nào.
Để người nghe (đọc) hiểu được nghĩa sở chỉ của những từ ngữ khơng phải là tên
riêng đó, ngồi ngữ cảnh cụ thể, người ta còn thường dùng yếu tố miêu tả đi kèm với
tên chung và nhờ yếu tố miêu tả này mà ta tách được sự vật - nghĩa sở chỉ (nghĩa chiếu
vật) ra khỏi các sự vật cùng loại.
Chẳng hạn:
Đứng trước vài cái váy trong đó có một cái váy màu tím, A nói:
(9) “Cái váy đẹp q!”

Trong trường hợp này, ta chưa xác định được nghĩa sở chỉ của váy vì chưa biết
A muốn chỉ cái váy cụ thể nào.
Nhưng khi A nói:
(10) “Cái váy màu tím đẹp quá” .
Ở đây, ta đã xác định được nghĩa sở chỉ của váy, bởi biểu thức (cái váy) màu tím
đã tách được một cái váy cụ thể ra khỏi số váy đứng trước mặt.
Như vậy, dùng biểu thức miêu tả là “ghép các yếu tố phụ vào một tên chung,
nhờ các yếu tố phụ mà tách được sự vật - nghĩa chiếu vật ra khỏi các sự vật khác cùng
loại với chúng” [12, tr.67]. Với cách quy chiếu này, biểu thức miêu tả sẽ tương đương
với một tên riêng vì nó “đã thu hẹp phạm vi chiếu vật của tên chung đến cực tiểu: Nghĩa
chiếu vật của một biểu thức miêu tả chỉ còn là một cá thể như nghĩa chiếu vật của tên
riêng” [12, tr.67].
Biểu thức miêu tả được chia ra thành hai loại: biểu thức miêu tả xác định và biểu
thức miêu tả không xác định.
- Biểu thức miêu tả xác định
Ở các ngơn ngữ có mạo từ, biểu thức miêu tả xác định bao giờ cũng được
đánh dấu bằng những mạo từ xác định (như the trong tiếng Anh, le/ les trong tiếng
Pháp). Tiếng Việt do không có mạo từ cho nên biểu thức miêu tả thường được nhận
diện qua các yếu tố miêu tả. Theo đó, một biểu thức miêu tả xác định trong tiếng
Việt thường có hình thức là danh từ chung + yếu tố miêu tả, trong đó danh từ chung
đóng vai trị chỉ dẫn sở chỉ, “chỉ ra thế giới khả hữu - hệ quy chiếu tương thích với
biểu thức đó” [13, tr.225], còn yếu tố miêu tả sẽ giúp cho việc “tách sự vật ra khỏi
sự vật đồng loại khác trong thế giới khả hữu được chỉ dẫn bởi danh từ chung” [13,
tr.225]. Ví dụ:

13


(11) Người mặc áo tím là bạn của tơi.
Người mặc áo tím trong ví dụ trên là một biểu thức miêu tả xác định. Trong biểu

thức này, danh từ chung người có tác dụng chỉ ra thế giới khả hữu - hệ quy chiếu của
biểu thức, yếu tố miêu tả mặc áo tím có tác dụng tách đối tượng ra khỏi những đối
tượng khác đang cùng xuất hiện. Do đó, trong một ngữ cảnh cụ thể, nghe phát ngôn
trên, người nghe sẽ dễ dàng nhận diện được đối tượng mà người nói muốn quy chiếu
đến là đối tượng nào.
Cần phải nói thêm rằng, một biểu thức miêu tả được coi là xác định khi biểu
thức đó có tính duy nhất trong thế giới khả hữu - hệ quy chiếu. Chẳng hạn như để phát
ngôn (11) thực hiện được chức năng quy chiếu hồn hảo, chỉ một đối tượng được có
đặc điểm mặc áo tím. Nếu trong bối cảnh, có hai đối tượng cùng có đặc điểm này, rõ
ràng biểu thức sẽ không giúp cho người nghe xác định được đối tượng mà biểu thức
quy chiếu.
- Biểu thức miêu tả không xác định:
Khi nghĩa sở chỉ của một biểu thức chưa được người nói và người nghe biết thì
biểu thức đó sẽ là biểu thức miêu tả không xác định.
Biểu thức miêu tả không xác định được đánh dấu bằng mạo từ a/ un trong tiếng
Anh và une/ des trong tiếng Pháp. Trong tiếng Việt, “biểu thức miêu tả không xác định
thường bắt đầu bằng một với danh từ có hoặc khơng có loại từ ở giữa” [13, tr.223]. Theo
đó, một cái bút, một người đàn bà, một quyển sách sẽ được coi là những biểu thức miêu
tả không xác định.
Do nghĩa sở chỉ của biểu thức miêu tả không xác định chưa được người nói và
người nghe biết cho nên biểu thức này thường có vai trị dẫn nhập. Thơng qua biểu
thức, sự vật/ đối tượng lần đầu tiên được đưa vào diễn ngôn. Sau lần đầu tiên này, sự
vật/đối tượng sẽ được biểu thị bằng các biểu thức miêu tả xác định.
c. Phương thức dùng chỉ xuất
Chỉ xuất là phương thức xác định nghĩa sở chỉ bằng ngôn ngữ dựa trên hành
động chỉ trỏ. Ví dụ, ta có phát ngôn sau đây:
(12) Ngôi nhà này mới xây.
Từ này trong ví dụ trên đã tách được Ngơi nhà ra khỏi một tập hợp các ngơi nhà
khác để ta có thể xác định được đó là ngơi nhà nào.
Khác với các biểu thức miêu tả, các biểu thức chỉ xuất thực hiện hành vi sở chỉ

thông qua chức năng định vị, có nghĩa là “chiếu vật (sở chỉ) thơng qua việc xác định vị
14


trí của vật được nói tới, phân biệt nó với tất cả các vật khác theo quan hệ không gian,
thời gian và các quan hệ khác” [12, tr.72-73].
Trong ví dụ (12), khi nói ngơi nhà này tức là người nói đã xác định vị trí của
ngơi nhà với cái mốc là địa điểm mà người nói phát ra câu nói đó.
Trong ngơn ngữ, có ba phạm trù chỉ xuất truyền thống, đó là: phạm trù chỉ xuất
nhân xưng, phạm trù chỉ xuất không gian và phạm trù chỉ xuất thời gian. Ngồi ba
phạm trù trên cịn có phạm trù chỉ xuất diễn ngôn và phạm trù chỉ xuất xã hội. Tuy
nhiên, chúng tơi chỉ trình bày ba phạm trù liên quan đến đối tượng tượng nghiên cứu
của luận văn, đó là: phạm trù chỉ xuất nhân xưng, phạm trù chỉ xuất không gian và
phạm trù chỉ xuất thời gian.
- Phạm trù chỉ xuất nhân xưng:
+ Chỉ xuất nhân xưng chính là việc định vị vai nói/ nghe trong giao tiếp. Khi
giao tiếp, người nói bao giờ cũng dùng những biểu thức sở chỉ để tự quy chiếu mình,
tự đưa mình và đưa người giao tiếp với mình vào diễn ngơn.
+ Các ngơn ngữ khác cũng như tiếng Việt có hệ thống từ dùng để xưng hô theo
các ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Chẳng hạn, trong tiếng Việt:
Ngôi thứ nhất có các từ như: tơi, tớ, tao, chúng tớ, chúng tao,…
Ngơi thứ hai có các từ như: mày, chúng mày,…
Ngơi thứ ba có các từ như: nó, chúng nó, ơng ấy, bà ấy,…và các bán đại từ (theo
quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong [13, tr.306]) như: ơng ấy, con ấy, ơng ta, bà
ta…
Ngồi các đại từ dùng để xưng hơ, trong tiếng Việt cịn dùng cả tên riêng, các
danh từ thân tộc hay các từ chỉ chức nghiệp.
• Dùng tên riêng để xưng hơ:
(13) Hương ơi, mai Hà đến nhé!
Hà là tên riêng dùng để thay các đại từ xưng hô ngôi thứ nhất (tôi, tao, tớ…),

còn Hương là tên riêng dùng để thay cho đại từ xưng hơ ngơi thứ hai (mày, cậu…).
• Dùng danh từ thân tộc để xưng hô:
(14) Con đi học đây bố ạ.
Con là danh từ thân tộc được dùng để chỉ ngôi thứ nhất. Bố là danh từ thân tộc
được dùng để chỉ ngơi thứ hai.
• Dùng danh từ chỉ các chức vụ hoặc nghề nghiệp để xưng hô. Ví dụ:
(15) Cho tơi gặp hiệu trưởng được khơng ạ?
Hiệu trưởng là từ chỉ chức vụ được dùng để chỉ ngôi thứ ba.

15


(16) Thưa cô giáo, tôi là phụ huynh của em Hương ạ.
Cô giáo là danh từ nghề nghiệp được dùng để chỉ ngôi thứ hai.
- Phạm trù chỉ xuất không gian:
“Chỉ xuất không gian là phương thức chiếu vật (sở chỉ) bằng cách định vị sự vật
- nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) (sự vật được nói tới trong diễn ngôn) theo quan hệ
không gian với sự vật mốc” [26, tr.310].
Một ví dụ của Đỗ Hữu Châu:
(17) Cuốn sách này rất thú vị.
Trong biểu thức cuốn sách này, danh từ ở vị trí trung tâm (cuốn sách) biểu thị
sự vật được định vị; từ này định vị cuốn sách trong tương quan với người nói.
- Phạm trù chỉ xuất thời gian:
“Chỉ xuất thời gian là phương thức chiếu vật (sở chỉ) thời gian bằng cách định
vị thời gian - nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) theo quan hệ thời gian với một thời gian
mốc (thời gian trung tâm chỉ xuất)” [13, tr.329].
Ví dụ:
(18) Người lúc nãy là bạn của tơi.
Người lúc nãy là một biểu thức chỉ xuất thời gian và để xác định được nghĩa sở
chỉ của biểu thức này, người nghe phải dựa vào mốc định vị thời gian là lúc nãy.

Tóm lại, muốn hiểu được nghĩa của phát ngôn, phải nắm được nghĩa sở chỉ của
biểu thức sở chỉ trong phát ngơn đó. Có ba phương thức sở chỉ, đó là dùng tên riêng,
dùng biểu thức miêu tả và dùng chỉ xuất. Dựa vào 3 phương thức này mà người
nghe/đọc xác định được nghĩa sở chỉ của các biểu thức.
1.1.2. Khái quát về hiện tượng đồng sở chỉ
Trong thực tế giao tiếp cũng như trong tác phẩm văn chương, chúng ta thường
thấy một đối tượng hay một tập hợp các đối tượng có giới hạn cụ thể có nhiều biểu thức
để biểu thị. Ví dụ:
(19) Để chỉ nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã dùng các cách gọi như: chị Dậu,
người đàn bà lực điền, chị chàng con mọn, v.v…Những biểu thức ngôn ngữ này được
coi là đồng sở chỉ vì chúng cùng biểu thị một nhân vật cụ thể là chị Dậu.
Một ví dụ khác:
(20) Chị Sáu, người con gái đất đỏ cũng là những biểu thức đồng sở chỉ. Những
biểu thức này đều quy chiếu vào một nhân vật là chị Sáu.
R.E.Asher trong [72, tr.769] cũng chỉ ra rằng: “Mố i quan hê ̣ đồng sở chỉ có giữa
2 biể u thức nếu và chỉ nế u khi chúng biểu thị cùng mô ̣t cá thể. Chẳ ng ha ̣n, cái tên Mont

16


×