Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vấn đề hủy phán quyết trọng tài theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
B. NỘI DUNG......................................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.....................................................................1
1. Khái niệm và đặc điểm của phán quyết trọng tài.................................1
2. Khái niệm và đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài.........................2
3. Bản chất và ý nghĩa của hủy phán quyết trọng tài...............................2
II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỦY
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI.........................................................................3
1. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài...........................................................3
.....

1.1. Khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu

.......................................................................................................................3
1.2. Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả
thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này.........................4
1.3. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp
PQTT có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó bị
huỷ.................................................................................................................4
1.4. Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra phán
quyết là giả mạo; TTV nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một
bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của PQTT.
.......................................................................................................................5
1.5. PQTT trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam..........6
2. Trình tự, thủ tục hủy phán quyết trọng tài...........................................6
2.1. Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài............................6
a. Quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài............................................6
b. Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài...............................................6
c. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài........................................7
2.2. Trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong việc


hủy phán quyết trọng tài................................................................................7
1


a. Tồ án có thẩm quyền giải quyết u cầu huỷ phán quyết trọng tài. .7
b. Trình tự, thủ tục Tòa án nhận đơn và chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy
PQTT.............................................................................................................7
c. Phiên họp của Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài...8
d. Tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.....9
e. Quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án...............................9
3. Hệ quả pháp lý của việc hủy phán quyết trọng tài...............................9
3.1. Đối với các bên tranh chấp................................................................9
3.2. Đối với trọng tài...............................................................................10
3.3. Đối với Tòa án..................................................................................10
3.4. Đối với xã hội, doanh nghiệp...........................................................10
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN..........................................................................11
1. Nhận xét các quy định của pháp luật hiện hành về hủy phán quyết
trọng tài và hướng hoàn thiện..................................................................11
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài và giải
pháp............................................................................................................13
C. KẾT LUẬN...................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................16

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
2
3

4
5
6
7

TTTM
PQTT
HĐTT
TTV
TAND (TANDTC)

- Trọng tài thương mại
- Phán quyết trọng tài
- Hội đồng trọng tài
- Trọng tài viên
- Tòa án nhân dân (Tòa án nhân dân tối

BLDS
BLTTDS

cao)
- Bộ luật dân sự
- Bộ luật Tố tụng dân sự

A. MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình hội nhập, các hoạt động thương mại ngày càng phát
triển và được mở rộng với những hình thức, phương thức đa dạng. Tranh chấp
3



phát sinh vì vậy cũng ngày một nhiều hơn, đa dạng và phức tạp hơn. Để giải
quyết tranh chấp thương mại, phương thức giải quyết bằng trọng tài nhờ những
ưu thế vượt trội của nó so với các phương thức khác. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi có Luật TTTM 2010, tình trạng hủy PQTT
ngày càng gia tăng. Phải chăng các quy định của pháp luật về hủy PQTT còn tồn
tại những bất hợp lý? Có những giải pháp nào để hạn chế tình trạng hủy PQTT
trong thời gian tới nhằm đem lại lòng tin cho các doanh nghiệp Việt Nam khi
quyết định lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại,
mặt khác tạo sự tin tưởng để các doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn trọng tài
Việt Nam làm cơ quan giải quyết tranh chấp từ các thương vụ có đối tác Việt
Nam? Với chủ đề “Vấn đề hủy phán quyết trọng tài theo pháp luật hiện
hành”, bài viết sẽ trả lời cho những câu hỏi trên một cách thỏa đáng.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm và đặc điểm của phán quyết trọng tài
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật TTTM năm 2010: “PQTT là
quyết định của HĐTT giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố
tụng trọng tài”. Từ khái niệm có thể rút ra các đặc điểm của PQTT:
Thứ nhất, PQTT là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp được nêu
trong đơn kiện và chấm dứt tố tụng trọng tài của HĐTT. Khi PQTT được tun
thì HĐTT hồn thành nhiệm vụ của mình và tố tụng trọng tài chấm dứt. Trừ
những trường hợp phán quyết cần được chỉnh sửa một số lỗi chính tả hoặc lỗi
tính tốn, HĐTT khơng thể thay đổi những quyết định của họ trong PQTT.
Những vấn đề đã được quyết định bởi PQTT sẽ không bị yêu cầu xét xử lần nữa,
trừ trường hợp PQTT bị hủy bởi Tòa án.
Thứ hai, PQTT là chung thẩm và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên.
Khoản 5 Điều 61 Luật TTTM 2010 quy định “PQTT là chung thẩm và có hiệu
lực kể từ ngày ban hành”. Điều đó có nghĩa là khơng có thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hay tái thẩm đối với PQTT; giúp phân biệt tố tụng trọng tài với
tố tụng tại Tòa án khi mà bản án của Tịa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để

4


xét xử lại ở cấp cao hơn. Tính ràng buộc là đặc điểm cơ bản của PQTT. Thay vì
đưa tranh chấp ra Tòa án, các bên chọn con đường giải quyết bằng trọng tài.
Hơn nữa, HĐTT đưa ra kết quả giải quyết tranh chấp dựa trên quy định của pháp
luật, cũng giống như Tòa án áp dụng pháp luật để ra bản án của mình. Chính vì
thế, phán quyết cần phải có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp, tương tự như
bản án của Tịa án.
Thứ ba, PQTT khơng thể được trình bày một cách tùy tiện mà phải tuân
theo quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy định của
pháp luật.
2. Khái niệm và đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài
Hủy PQTT là một chế định của pháp luật TTTM, theo đó, một trong các
bên tranh chấp được quyền yêu cầu tòa án bác PQTT nếu có đủ căn cứ chứng
minh rằng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp bị hủy
theo quy định của pháp luật. Hủy PQTT có một số đặc điểm sau: Thứ nhất,
PQTT chỉ có thể bị hủy nếu thỏa mãn các quy định liên quan đến căn cứ hủy
PQTT theo quy định của pháp luật TTTM. Thứ hai, việc hủy PQTT phải tuân
theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Thứ ba, cùng với
quyết định hủy PQTT của tòa án, hàng loạt hệ quả sẽ phát sinh liên quan đến rất
nhiều đối tượng như các bên tranh chấp, tổ chức trọng tài, HĐTT hoặc TTV giải
quyết vụ việc...
3. Bản chất và ý nghĩa của hủy phán quyết trọng tài
Bản chất của việc hủy PQTT là PQTT đó sẽ bị hủy bỏ và khơng có hiệu
lực thi hành đối với các bên tranh chấp.
Việc hủy PQTT không chỉ mang đến tác động tích cực mà cịn tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực. Trước hết, đây là quy định vừa đảm bảo đáp ứng sự
tự do thoả thuận vừa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, ngăn chặn sự lạm
dụng hoặc giải quyết một cách tuỳ tiện của các HĐTT. Bên cạnh đó, việc hủy

PQTT buộc Tịa án phải cẩn trọng xem xét lại PQTT, xem xét kỹ đơn đề nghị
hủy, xem xét từng căn cứ hủy và nếu PQTT đã vi phạm pháp luật, tức là có đủ
căn cứ hủy thì Tịa án phải tun hủy PQTT. Tuy nhiên, việc hủy PQTT cũng sẽ
5


có tác động tiêu cực trước hết là đối với bên thắng kiện, cũng tức là bên mà khi
PQTT được thực thi sẽ có lợi cho họ, bởi vì điều mà họ chờ đợi khi PQTT được
thi hành sẽ không cịn và nếu muốn bảo vệ quan điểm của mình thì họ lại phải
bắt đầu một thủ tục mới kéo dài, tốn kém về cả thời gian và công sức là khởi
kiện ra Tòa án và điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, phá vỡ chiến lược và kế hoạch kinh doanh, xáo trộn về cơng việc,
ách tắc về tài chính, uy tín và thương hiệu bị ảnh hưởng.
II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỦY PHÁN
QUYẾT TRỌNG TÀI
1. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài
1.1. Khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Căn cứ này được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010.
Một nguyên tắc cơ bản là không thể tiến hành tố tụng trọng tài nếu không có
thỏa thuận trọng tài. Vì thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài khơng
mang tính đương nhiên, mà trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên trao quyền
giải quyết tranh chấp cho trọng tài, việc trao quyền giải quyết tranh chấp cho
trọng tài được thể hiện bằng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một
thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài. Vì lẽ đó, việc khơng có
thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu là căn cứ hủy PQTT.
Theo Điểm a Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP thì
““Khơng có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu” là thỏa
thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 6 và Điều 18
Luật TTTM và hướng dẫn tại các Điều 2, 3 và 4 Nghị quyết này”.
Cụ thể, theo quy định này, trường hợp tranh chấp khơng có thoả thuận

trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án hoặc
quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của trọng tài xác định vụ tranh chấp
khơng có thỏa thuận trọng tài thì Tịa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm
quyền.
Bên cạnh đó, thoả thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận trọng tài thuộc một
trong các trường hợp quy định tại Điều 18 Luật TTTM, bao gồm:
6


Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài. Đây là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải
quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010.
Thứ hai, người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Đó là khi người xác lập thỏa thuận trọng tài không phải
là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp
pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy
quyền.
Thứ ba, người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân
sự, tức là người đó là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 Luật TTTM 2010.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình
xác lập thoả thuận trọng tài. Đây là trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép theo quy định tại Điều 127 của BLDS 20151.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. Đây là
thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 123 của BLDS 20152.
1.2. Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này
Căn cứ này được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010

và Điểm b Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014. Theo đó, PQTT bị hủy
Điều 127 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền u cầu Tịa án
tun bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao
dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia
buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân
phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình”.
2
Điều 123 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vơ hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng”.
1

7


trong trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần HĐTT, quy tắc tố tụng
trọng tài nhưng HĐTT thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên không đúng
quy định Luật TTTM 2010 mà Tịa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm
trọng và cần phải hủy nếu HĐTT không thể khắc phục được hoặc không khắc
phục theo u cầu của Tịa án.
1.3. Vụ tranh chấp khơng thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp
PQTT có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó bị
huỷ.
Căn cứ này được quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010.

Theo Nghị quyết số 01/2014 thì ““Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của
HĐTT” là trường hợp HĐTT giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc
thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật TTTM; hoặc HĐTT giải
quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải
quyết hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra Trọng tài giải
quyết”.
Theo Điều 2 Luật TTTM 2010 thì thẩm quyền giải quyết trọng tài phải
thuộc một trong ba trường hợp: tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại,
tranh chấp mà một bên có hoạt động thương mại, tranh chấp được giải quyết
bằng trọng tài theo quy định của pháp luật. Các trường hợp trên cho phép khi
phát sinh tranh chấp thì các bên được quyền chọn TTTM để giải quyết. Do đó,
ngồi ba trường hợp trên thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Bên cạnh đó, HĐTT giải quyết tranh chấp mà khơng được các bên thỏa
thuận yêu cầu trọng tài giải quyết có nghĩa là trong hợp đồng hay thỏa thuận
giữa các bên có điều khoản thỏa thuận rằng khi có tranh chấp xảy ra, các bên sẽ
giải quyết tại một trung tâm trọng tài nào đó và sẽ áp dụng các nguyên tắc tố
tụng của trung tâm đó để giải quyết tranh chấp; tuy nhiên trên thực tế khi xảy ra
tranh chấp, các bên lại giải quyết ở một trung tâm khác. Đây là một trong các
căn cứ để hủy PQTT.
“PQTT có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó
bị hủy” là căn cứ hủy PQTT mới được đưa vào Luật TTTM 2010. Quy định này
8


phù hợp với thực tiễn vì nó mở rộng thêm căn cứ hủy PQTT để các bên tranh
chấp yêu cầu, mặt khác, nó cũng buộc các TTV phải nâng cao kỹ năng và cẩn
trọng ra PQTT, bởi vì nếu PQTT có nội dung khơng thuộc thẩm quyền của
HĐTT thì nội dung đó sẽ bị hủy.
1.4. Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra
phán quyết là giả mạo; TTV nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của

một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của
PQTT.
Căn cứ này được quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010
và được hướng dẫn cụ thể tại Điểm d Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQHĐTP.
Thứ nhất, chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra
phán quyết là giả mạo. Tịa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu
có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến
việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán
quyết. Tòa án phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài,
thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà HĐTT áp
dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo. Việc ghi nhận trường
hợp hủy PQTT do sử dụng chứng cứ giả mạo của pháp luật Việt Nam là cần
thiết vì quy định này cho phép tịa án kiểm tra lại tính xác thực và đúng đắn của
các chứng cứ mà HĐTT dựa vào để ra PQTT.
Thứ hai, TTV nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên
tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, cơng bằng của phán quyết trọng
tài. Căn cứ hủy PQTT này yêu cầu phải đáp ứng đủ ba điều kiện. Một là đối
tượng mà TTV nhận từ các bên chỉ là “tiền”, “tài sản” và “lợi ích vật chất khác”.
Hai là, chủ thể mang đến các lợi ích trên cho TTV là “một bên tranh chấp”. Ba
là, việc thực hiện hành vi hối lộ phải dẫn đến hệ quả là “làm ảnh hưởng đến tính
khách quan, cơng bằng của PQTT”.

9


1.5. PQTT trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Căn cứ này được quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010,
theo đó PQTT sẽ bị hủy nếu “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”.
2. Trình tự, thủ tục hủy phán quyết trọng tài

2.1. Trình tự, thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
a. Quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài
Theo quy định tại Khoản 1 Ðiều 68, Khoản 1 Điều 69, Khoản 3 Điều 3
Luật TTTM 20101 thì quyền u cầu tịa án tun hủy PQTT chỉ trao cho “các
bên tranh chấp”, tức hai chủ thể là nguyên đơn và bị đơn.
b. Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài
 Nội dung của đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 70 Luật TTTM 2010 quy định đơn yêu cầu tòa án hủy
PQTT phải có ba nội dung: ngày, tháng, năm làm đơn; tên và địa chỉ của bên có
yêu cầu; yêu cầu và căn cứ hủy PQTT. Thiết nghĩ, một đơn yêu cầu phù hợp,
ngồi ba nội dung trên cịn cần bổ sung những nội dung thiết yếu như tên tịa án
có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu; tên, địa chỉ của những người có liên quan
đến việc giải quyết đơn yêu cầu (nếu có); người yêu cầu là cá nhân phải ký tên
hoặc điểm chỉ; nếu là doanh nghiệp thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
đó phải ký tên; nếu là cơ quan, tổ chức khác thì đại diện hợp pháp của cơ quan,
tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Ngồi ra đơn u cầu
Tịa án hủy PQTT có thể thêm nội dung mang tính tùy nghi đó là các thơng tin
khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu.
 Các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Luật TTTM 2010:
Khoản 1 Điều 68: “Tòa án xem xét việc hủy PQTT khi có đơn yêu cầu của một bên”.
Khoản 1 Điều 69: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được PQTT, nếu một bên có đủ căn cứ để
chứng minh được rằng HĐTT đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Tồ án có thẩm quyền u cầu huỷ PQTT. Đơn yêu cầu hủy
PQTT phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy PQTT là có căn cứ và hợp pháp”.
Khoản 3 Điều 3: “Các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố
tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn”.
1


10


Khoản 2 Ðiều 70 Luật TTTM 2010 quy định về các tài liệu, chứng cứ
phải gửi kèm theo đơn yêu cầu, bao gồm: Bản chính hoặc bản sao PQTT đã
được chứng thực hợp lệ; bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được
chứng thực hợp lệ; giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải
được dịch ra tiếng Việt và bản dịch phải được chứng thực hợp lệ.
c. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Thời hạn yêu cầu hủy PQTT được quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật
TTTM 2010. Theo đó, sau khi có PQTT, trong vịng 30 ngày kể từ ngày nhận
được PQTT, các bên có quyền yêu cầu hủy PQTT bằng cách gửi đơn đến Tịa án
có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cớ chứng minh cho yêu cầu là có
căn cứ và hợp pháp. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì
thời gian có sự kiện bất khả kháng khơng được tính vào thời hạn yêu cầu hủy
PQTT.
2.2. Trình tự, thủ tục liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong việc
hủy phán quyết trọng tài
a. Tồ án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài
 Thẩm quyền của Tòa án theo sự thỏa thuận
Theo Khoản 1 Điều 7 Luật TTTM 2010 và hướng dẫn tại Điều 5 Nghị
quyết số 01/2014, các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một trong các TAND
cấp tỉnh của Việt Nam để giải quyết yêu cầu huỷ PQTT. Thỏa thuận này có thể
lập thành văn bản riêng hay có thể xác lập dưới hình thức điều khoản trong hợp
đồng.
 Thẩm quyền của Tòa án theo luật định
Đối với yêu cầu hủy PQTT, nếu các bên có thỏa thuận lựa chọn Tịa án có
thẩm quyền nhưng lựa chọn sai, hoặc khơng có thỏa thuận lựa chọn Tịa án có
thẩm quyền thì xác định Tịa án có thẩm quyền theo luật định. Theo Điểm g
Khoản 2 Điều 7, trong trường hợp hủy PQTT, Tòa án có thẩm quyền là Tịa án

nơi HĐTT đã tun PQTT.

11


b. Trình tự, thủ tục Tịa án nhận đơn và chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy
PQTT
Liên quan đến vấn đề nhận đơn u cầu hủy PQTT thì khơng thể không
nhắc đến trường hợp bị trả lại đơn yêu cầu và yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu
cầu. Nội dung này cũng không được pháp luật TTTM quy định. Khoản 1 Điều
364 BLTTDS 20151 đã quy định về các trường hợp trả lại đơn yêu cầu là hợp lý
và phù hợp để áp dụng đối với việc dân sự nói chung. Sau khi thụ lý đơn yêu
cầu huỷ PQTT, Tồ án có thẩm quyền thơng báo ngay cho trung tâm trọng tài
hoặc các TTV của HĐTT vụ việc, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp.
Về trình tự, thủ tục Tòa án chuẩn bị xét đơn yêu cầu hủy PQTT. Trong thời hạn
07 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Chánh án Toà án chỉ định một Hội đồng xét
đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa theo
sự phân cơng của Chánh án Tịa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật
TTTM 2010 thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét
đơn yêu cầu phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu hủy PQTT.
c. Phiên họp của Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư
của các bên, nếu có, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp một
trong các bên yêu cầu Hội đồng xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ
mà vắng mặt khơng có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp mà khơng được Hội
đồng chấp thuận thì Hội đồng vẫn tiến hành xét đơn yêu cầu hủy quyết định
trọng tài.

Khoản 1 Điều 364 BLTTDS 2015:
“1. Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong những trường hợp sau đây:

a) Người yêu cầu không có quyền u cầu hoặc khơng có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết;
c) Việc dân sự khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án;
d) Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 363 của Bộ
luật này;
đ) Người u cầu khơng nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 4 Điều 363 của Bộ luật này,
trừ trường hợp được miễn hoặc khơng phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan;
e) Người yêu cầu rút đơn yêu cầu;
g) Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
1

12


Về sự tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu của Kiểm sát viên, pháp luật
TTTM nên học hỏi quy định của Khoản 1 Điều 367 BLTTDS 2015 2 khi quy
định về vấn đề này. Theo đó, nếu Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên họp xét đơn
yêu cầu hủy PQTT thì Tịa án vẫn tiến hành phiên họp. Quy định này sẽ góp
phần tăng trách nhiệm của Kiểm sát viên và tạo thuận lợi cho Hội đồng xét đơn
yêu cầu hủy PQTT làm việc hiệu quả.
Về quyền tham gia và sự tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu hủy PQTT
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp việc giải quyết
tranh chấp có sự tham gia của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì khi
PQTT được ban hành nhất định sẽ có ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi, nghĩa
vụ của những người liên quan này. Sẽ không công bằng và hợp lý nếu không
triệu tập chủ thể này tham gia phiên họp nên Khoản 3 Điều 71 Luật TTTM 2010
cần bổ sung thêm chủ thể này.
d. Tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 71 Luật TTTM 2010 và Khoản 2, 3 Điều

15 Nghị quyết 01/2014, chủ thể có quyền yêu cầu tạm đình chỉ việc xem xét đơn
yêu cầu hủy PQTT là một bên tranh chấp. Căn cứ để Hội đồng xét đơn yêu cầu
xem xét tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT là để tạo điều kiện
cho HĐTT khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của HĐTT nhằm
loại bỏ căn cứ hủy PQTT.
Nếu khơng tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT, Hội đồng
xét đơn tiếp tục việc xem xét đơn yêu cầu hủy PQTT. Khi xét đơn yêu cầu, Hội
đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà cần kiểm tra PQTT có
thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM hay
không. Nếu xét thấy PQTT thuộc một trong các trường hợp đó và HĐTT khơng
khắc phục hoặc không thể khắc phục được theo yêu cầu của Tịa án, thì Hội
đồng xét đơn u cầu căn cứ vào điểm tương ứng tại Khoản 2 Điều 68 để ra
quyết định huỷ PQTT. Nếu xét thấy PQTT không thuộc một trong các trường
Khoản 1 Điều 367 BLTTDS 2015: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp;
trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tịa án vẫn tiến hành phiên họp”.
2

13


hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định
không huỷ PQTT.
e. Quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án
Về tên gọi Quyết định về việc hủy PQTT, Nghị quyết số 01/2014 đã quy
định mẫu văn bản đính kèm nhằm tạo sự áp dụng thống nhất trong toàn hệ
thống. Do đó, ngay cả trong việc đặt tên văn bản cũng nên có sự thống nhất giữa
các HĐTT khác nhau đối với loại việc này. Về việc nêu tên TTV trong Quyết
định, do trọng tài vụ việc không gắn được với một trung tâm nào nên việc nêu
tên TTV là cần thiết. Nhưng đối với PQTT của trung tâm trọng tài, đối tượng bị
yêu cầu hủy là PQTT chứ không phải là các TTV đã ban hành PQTT nên để

không ảnh hưởng tới uy tín của cá nhân TTV, do đó khơng nên quy định Tịa án
nêu đích danh TTV đã ra phán quyết trong Quyết định về việc hủy PQTT mà chỉ
cần nêu số PQTT và tên của trung tâm trọng tài.
3. Hệ quả pháp lý của việc hủy phán quyết trọng tài
3.1. Đối với các bên tranh chấp
Khi PQTT bị hủy, tất cả những mục đích, những lợi ích mà ngay từ lúc
ban đầu các bên hướng đến khi thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
sẽ không đạt được, khi đó các bên sẽ hoặc đưa tranh chấp ra giải quyết trước
trọng tài một lần nữa (bằng một thỏa thuận trọng tài mới) hoặc sẽ phải giải quyết
bằng Tòa án. Việc này gây mất thời gian và lãng phí tiền của cho cả hai bên
tranh chấp.
3.2. Đối với trọng tài
Theo quy định của Luật TTTM 2010, khi TTV vi phạm các thủ tục tố tụng
thì phán quyết bắt buộc phải bị hủy. Tuy nhiên, nếu phán quyết bị hủy do các lý
do khác như chứng cứ do các bên cung cấp là giả mạo hoặc do thỏa thuận trọng
tài vô hiệu (không do lỗi cố ý của TTV) thì hậu quả “phán quyết vơ hiệu” dường
như khá nghiêm trọng đối với trọng tài. Đặc biệt, khi pháp luật hiện hành lại
không quy định cơ chế giám sát đối với hoạt động hủy PQTT của Tòa án, sự tùy
tiện khi ban hành các quyết định hủy PQTT của Tịa án là khơng thể tránh khỏi.
Điều này đặt hoạt động trọng tài vào tình trạng vơ định, các TTV phải xét xử
14


trong tình trạng khơng biết phán quyết của mình có bị hủy hay khơng. Khơng
những thế, việc Tịa án tun hủy PQTT trong nước khiến hoạt động trọng tài bị
giảm uy tín và hiệu quả, làm mơi trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam kém
hấp dẫn hơn.
3.3. Đối với Tòa án
Khi PQTT bị hủy, theo quy định tại Khoản 10 Điều 71 Luật TTTM 2010,
một bên có quyền khởi kiện vụ án ra trước Tịa án. Lúc này, tình trạng quá tải

của hệ thống Tòa án càng nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, quy định của pháp luật
hiện hành về vấn đề quyết định của tòa án về việc hủy PQTT có được giám đốc
thẩm, tái thẩm hay khơng vẫn chưa được rõ ràng, minh bạch. Điều này làm cho
các Thẩm phán lúng túng khi có nhiều trường hợp sau khi quyết định hủy phán
quyết được ban hành, bên thắng trong tố tụng trọng tài khiếu kiện quyết định
hủy đó.
3.4. Đối với xã hội, doanh nghiệp
Trong quan hệ thương mại, khi tranh chấp phát sinh giữa các bên, nhằm
hạn chế đến mức tối thiểu các thiệt hại về tiền bạc, thời gian, các bên thường
mong muốn được đưa tranh chấp ra giải quyết trước trọng tài vì những lợi ích
của hoạt động tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, phán quyết cuối cùng của trọng tài
vẫn có thể bị hủy đã khiến cho những mong muốn ban đầu của các bên không
thể đạt được. Với quy định hiện hành về hệ quả pháp lý của việc hủy PQTT, tâm
lý e dè khi quyết định đầu tư vào thị trường trong nước của các nhà đầu tư nước
ngồi là khơng thể tránh khỏi mà điều này rõ ràng gây ảnh hưởng không tốt đến
nền kinh tế và xã hội .
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1. Nhận xét các quy định của pháp luật hiện hành về hủy phán quyết trọng
tài và hướng hoàn thiện
Luật TTTM 2010 và Nghị quyết số 01/2014 đã có những quy định khá cụ
thể và chặt chẽ về hủy PQTT, từ đó các bên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình và là căn cứ để Tịa án ra quyết định cuối cùng. Tuy nhiên vẫn còn một số
vướng mắc trong quy định của pháp luật về hủy PQTT. Một số quy định chưa rõ
15


ràng, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau dẫn đến việc áp dụng tùy tiện và
PQTT bị hủy nhiều. Cụ thể:
Thứ nhất, các căn cứ hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Khoản 2
Điều 68 Luật TTTM 2010 tuy không nhiều nhưng lại tương đối rộng và không

rõ ràng khiến cho yêu cầu hủy PQTT dễ dàng được chấp nhận khi bên yêu cầu
đưa ra được căn cứ hợp lý, phù hợp với trường hợp phán quyết bị hủy theo quy
định của pháp luật.
Một là, về căn cứ hủy PQTT là “Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng
tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với quy định của Luật
TTTM”. Theo đó, PQTT bị hủy trong trường hợp các bên có thỏa thuận về thành
phần HĐTT, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng HĐTT thực hiện không đúng thỏa
thuận của các bên hoặc HĐTT thực hiện không đúng quy định Luật TTTM 2010
mà Tịa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu
HĐTT không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa
án. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thế nào là vi phạm nghiêm trọng? Quy định hiện
hành khơng có sự giải thích rõ ràng và việc xem xét đến tính nghiêm trọng của
sự vi phạm sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Điều này sẽ cho phép Tòa án được
“tự do” xác định, nếu tòa án “xét thấy” vi phạm đó là nghiêm trọng thì đó sẽ là
“vi phạm nghiêm trọng” mà khơng có một căn cứ trực quan nào nên dễ tạo cơ sở
để Tòa án lạm quyền. Từ những phân tích này, cần sửa đổi Luật TTTM và kiến
nghị bổ sung vào Điểm b Khoản 2 Điều 68 nội dung cụ thể như sau:“Nếu thành
phần của HĐTT được thực hiện phù hợp với thỏa thuận của các bên nhưng trái
với quy định của Luật TTTM 2010 (tức thỏa thuận trọng tài trái với quy định
của pháp luật) và điều này có ảnh hưởng tới PQTT thì đây là căn cứ để hủy
PQTT”.
Hai là, căn cứ “PQTT trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam” được quy định quá chung chung, không rõ ràng nên việc áp dụng tùy tiện
là không thể tránh khỏi. Hiện nay, gần như trong các Bộ luật, Luật ở nước ta đều
có những quy định về “ngun tắc”, vì thế bên yêu cầu có thể dễ dàng viện dẫn
PQTT “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và đưa ra giải thích
16


hợp lý, Tịa án sẽ căn cứ vào đó để ra quyết định hủy PQTT. Trên thực tế việc

Tòa án căn cứ vào Điểm đ Khoản 2 Điều 68 để hủy PQTT mà không nêu rõ
phán quyết sai chỗ nào, vi phạm nội dung cụ thể ra sao là không thuyết phục và
đó là tình trạng rất phổ biến. Tình trạng này gây tổn hại cho vai trò của trọng tài,
cản trở môi trường kinh doanh lành mạnh của đất nước. Do đó, Luật TTTM
2010 và Nghị quyết số 01/2014 cần được sửa đổi để giải quyết các vấn đề nêu
trên để hạn chế việc hủy PQTT. Cụ thể cần thu hẹp hơn phạm vi của căn cứ này
bằng việc quy định thế nào là nguyên tắc liên quan đến việc giải quyết tranh
chấp trọng tài, những quy định nào được xem là liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, hoặc giới hạn những nguyên tắc đó thuộc Bộ luật Dân
sự hay luật nào? Bên cạnh đó có thể liệt kê cụ thể một số nguyên tắc liên quan
đến trọng tài.
Thứ hai, về quyền yêu cầu huỷ PQTT. Theo quy định của Luật TTTM
2010 thì quyền yêu cầu tòa án tuyên hủy PQTT chỉ trao cho “các bên tranh
chấp”, tức hai chủ thể là nguyên đơn và bị đơn. Tuy nhiên, Trong vụ tranh chấp
được giải quyết tại trọng tài khơng chỉ có sự tham gia của các bên (tức ngun
đơn, bị đơn) mà cịn có chủ thể khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó,
cần bổ sung thêm một chủ thể nữa cũng có quyền u cầu tịa án tun hủy
PQTT, đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ tranh chấp. Bên
cạnh đó, về vấn đề lạm dụng quyền yêu cầu, pháp luật Việt Nam cần đưa ra cơ
chế thích hợp nhằm làm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu theo hướng
buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm thi hành PQTT nếu
họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy PQTT.
Thứ ba, về thủ tục hủy PQTT. Ngoài những bất cập trong các quy định về
căn cứ hủy PQTT thì có một sự bất cập trong thủ tục hủy quyết định trọng tài,
theo khoản 10 Điều 71 thì quyết định hủy PQTT là quyết định cuối cùng có hiệu
lực thi hành. Nghĩa là, đối với quyết định của Tịa án về hủy PQTT, HĐTT
khơng có quyền khiếu nại, các đương sự khơng có quyền kháng cáo và Viện
kiểm sát khơng có quyền kháng nghị. Theo đó, trong trường hợp quyết định của
Tịa án có vi phạm hoặc chưa thỏa đáng thì sẽ khơng có phương án xử lý, gây
17



ảnh hưởng lớn tới quyền lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Để giải quyết
tình trạng này, cần chỉnh sửa quy định theo hướng cho phép giám đốc thẩm
quyết định của Tòa án. Trong khi quy định chưa được sửa đổi, giải pháp tình thế
từ kinh nghiệm của nước ngoài là khi được yêu cầu hủy PQTT, TAND cấp tỉnh
phải báo cáo lên TANDTC và đề xuất hướng xử lý của mình để TANDTC thẩm
định. TANDTC trả lời thế nào thì TAND cấp tỉnh giải quyết thế đó. Phương án
này có thể hạn chế sự tùy tiện trong việc hủy PQTT.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài và giải pháp
Luật TTTM 2010 đã hoàn thiện một bước đáng kể về thủ tục tố tụng trọng
tài so với Pháp lệnh TTTM 2003, giúp cho việc xét xử của trọng tài được khách
quan, vô tư và chính xác hơn. Bên cạnh đó, sau 20 năm tồn tại của hệ thống
trọng tài, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử của đội ngũ TTV cũng đã
được nâng lên đáng kể, chất lượng xét xử trọng tài đang ngày càng được nâng
cao.
Tuy nhiên, sau khi Luật TTTM 2010 có hiệu lực, số PQTT bị Tịa án
quyết định hủy tăng vọt. Ví dụ cụ thể là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC). Tại buổi tọa đàm về thực trạng “Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam”
ngày 20/1/2015, ông Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký VIAC cho biết từ năm 2003
đến năm 2011 có 26 vụ u cầu Tịa án hủy trong đó chỉ có 9 PQTT bị hủy
chiếm 34,6% tổng số vụ tranh chấp yêu cầu hủy. Từ năm 2011 – 2014, tức từ khi
Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực, có 20 u cầu hủy PQTT của VIAC
thì có đến 10 PQTT được Tòa án chấp nhận hủy, chiếm 50% trong tổng số vụ
tranh chấp yêu cầu Tòa án hủy. Những con số trên cho thấy việc có quá nhiều
PQTT bị tuyên hủy như vậy sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý e dè khi quyết định
có chọn trọng tài hay khơng, đó cũng là một rào cản khá lớn trong việc các
doanh nghiệp tiếp cận với phương thức giải quyết này, một phương thức có
nhiều ưu điểm và mang lại lợi thế nhiều cho doanh nghiệp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, cụ thể là:

Thứ nhất, do những bất cập của pháp luật như đã phân tích ở phần trên
dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
18


Thứ hai, do xung đột lợi ích của các bên tranh chấp. Trong thực tế, khơng
ít trường hợp bên thua kiện khơng tự nguyện thi hành PQTT mà tìm mọi cách để
yêu cầu Tòa án hủy PQTT với hy vọng rằng PQTT sẽ bị hủy và như vậy họ sẽ
thoát hỏi việc phải thi hành PQTT mà PQTT đó bất lợi cho mình. Tuy nhiên, vẫn
có trường hợp bên thắng kiện muốn hủy PQTT. Đó là khi họ khơng hài lịng với
PQTT được tun vì cho rằng lợi ích của mình vẫn chưa được bù đắp thỏa đáng.
Cuối cùng, cũng không loại trừ trường hợp cả hai bên đều không thỏa mãn với
PQTT nên đều tìm cách để hủy PQTT với hy vọng tìm kiếm một cơ chế bảo vệ
tốt hơn lợi ích của mình. Như vậy, chính sự xung đột về lợi ích của các bên tranh
chấp cũng là một nguyên nhân.
Thứ ba, do năng lực chuyên môn của Thẩm phán và TTV. Về năng lực
chuyên môn của TTV. Hiện nay, nội dung, hình thức cũng như chất lượng của
PQTT phụ thuộc vào trình độ, sự hiểu biết, kỹ năng cũng như năng lực của TTV.
Một cách tổng quan nhất, năng lực chuyên môn của TTV được đánh giá thông
qua các tiêu chuẩn nhất định, như tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ và kỹ năng,
kinh nghiệm. Điều này đặt ra yêu cầu là TTV phải đáp ứng các tiêu chuẩn đó.
Như vậy, nếu TTV khơng đáp ứng tiêu chuẩn về đạo đức, về tính độc lập, vơ tư
hoặc khơng thực hiện nghĩa vụ giải trình để chứng minh về sự vơ tư của mình
thì đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến hủy PQTT. Bên cạnh đó, năng lực
chuyên môn của Thẩm phán cũng là một trong những nguyên nhân của hủy
PQTT, bởi vì nếu các Thẩm phán không am hiểu pháp luật về trọng tài và đặc
thù của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài thì việc hủy PQTT có thể sẽ được
xem xét một cách không thỏa đáng...
Để khắc phục thực trạng trên, một số giải pháp có thể đề cập đến như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trình độ chun mơn và đạo đức nghề

nghiệp của Thẩm phán và TTV.
Một là, về phía các Thẩm phán và Tòa án. Các Thẩm phán cần phải nắm
vững và hiểu đúng các quy định về trọng tài để tránh xảy ra những vụ việc thụ lý
sai hoặc hủy PQTT một cách đáng tiếc. Vì thế bản thân mỗi Thẩm phán cũng
cần tự trau dồi kiến thức liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài, để khi xét đơn
19


hủy PQTT khơng gặp phải những khó khăn và đưa ra những quyết định không
đúng, đồng thời nhận thức được hậu quả tiêu cực của quyết định hủy PQTT mà
mình đưa khơng chính xác. Bên cạnh đó, Tịa án cần đề cao chế độ trách nhiệm
cá nhân đối với từng chức danh cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu
Tồ án và Thẩm phán, tăng cường cơng tác kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối
với các trường hợp vi phạm.
Hai là, về phía TTV và Trung tâm trọng tài. Các TTV cần nhận thức được
rằng việc PQTT được thi hành hay bị hủy phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nghề
nghiệp của HĐTT. Nếu HĐTT thực hiện đúng thẩm quyền của mình và thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng thì bên thua kiện sẽ rất
khó để tìm ra chứng cứ để yêu cầu hủy PQTT. Tuy nhiên, trên thực tế, các TTV
vẫn thường mắc phải những sai sót trong quá trình tiến hành tố tụng khiến cho
PQTT bị hủy. Do đó, để khắc phục, mỗi TTV cần phải thức hiện tốt những quy
tắc đạo đức nghề nghiệp, tự trau dồi kỹ năng để nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ của mình, đặc biệt là nắm vững các quy định của pháp luật về tố tụng
trọng tài, đồng thời nhận thức được hậu quả của việc đưa ra PQTT không chính
xác và hậu quả của việc PQTT bị hủy. Bên cạnh đó, các trung tâm trọng tài cần
thường xuyên mở các lớp đào tạo kĩ năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và
đưa ra những chương trình đào tạo để nâng cao trình độ quản lý và xây dựng đội
ngũ TTV chuyên nghiệp; tăng cường đào tạo, tuyển dụng các TTV sử dụng
thành thạo ngoại ngữ để giải quyết những tranh chấp có yếu tố nước ngồi.
Khơng chỉ vậy, các trung tâm trọng tài cần chủ động phối hợp với các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền khác nhằm đảm bảo PQTT được thi hành đúng quy
định của pháp luật.
Thứ hai, tăng cường vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của
trọng tài. Một trong những điểm ưu việt của tố tụng trọng tài so với tố tụng Tịa
án là tính linh hoạt, nhanh gọn, hiệu quả. Nếu Tòa án áp dụng các quy định của
TTDS để xem xét và giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của trọng tài, trong
có việc PQTT thì sẽ làm mất đi những ưu điểm vốn có của tố tụng trọng tài. Do
đó, hệ thống Tịa án cần phát huy và thể hiện rõ sự ủng hộ với hệ thống trọng tài,
20


từ chối hủy các PQTT trừ khi rõ ràng có vi phạm được quy định cụ thể trong
Luật TTTM hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đến mức có thể làm sai
lệch bản chất vụ việc. Tịa án không nên căn cứ vào những lý do hết sức kỹ
thuật, không được quy định cụ thể trong Luật TTTM hoặc các lý do rất chung
chung như “không tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” mà
khơng nêu cụ thể ngun tắc đó là ngun tắc nào và bị vi phạm như thế nào để
hủy PQTT một cách tùy tiện.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói các quy định về trọng tài nói chung và hủy PQTT nói riêng
theo Luật TTTM tương đối tiến bộ và phù hợp với thơng lệ quốc tế. Tuy nhiên,
trong q trình áp dụng, các quy định về hủy PQTT vẫn còn những điểm thiếu
sót hoặc bất cập địi hỏi phải tiếp tục được hướng dẫn và giải thích một cách cụ
thể đế tránh sự hiểu nhầm, gây khó khăn trong việc áp dụng. Bên cạnh đó, nhận
thức và trình độ chun mơn nghiệp vụ của Thẩm phán và TTV còn nhiều hạn
chế, khiến cho nhiều PQTT bị hủy vì những lý do khơng đáng có. Vì vậy, việc
nâng cao nhận thức và trình độ chun mơn nghiệp vụ của Thẩm phán và TTV
là một trong yêu cầu cấp bách, cần phải thực hiện trong thời gian tới.

21



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại – Tập II, Nxb.
Công an Nhân dân, Hà Nội – 2017.
2. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
3. Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
trọng tài thương mại.
4. Bộ luật dân sự năm 2015.
5. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
6. Phan Thông Anh (2016), “Hủy phán quyết trọng tài”,
/>7. Đỗ Hữu Chiến (2017), “Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”,
/>8. “Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị”,
/>9. LawNet, “Thực trạng hủy phán quyết trọng tài thương mại hiện nay”,
/>10. PGS.TS. Vũ Thị Hồng Vân, “Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các
quy định về hủy phán quyết trọng tài thương mại và một số giải pháp khắc
phục”, Tạp chí Nghề luật, số tháng 5/2016,
/>
22



×