Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tài liệu ôn tập môn Ngữ văn 11- học kì II (1-4-2020)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.78 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH PHƯỚC
<b>TRƯỜNG THPT NGUYỄN KHUYẾN</b>


<b>ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HK2</b>
<b>NĂM HỌC 2019-2020</b>


<b>MÔN NGỮ VĂN 11</b>


<b>MÔN</b> <b>BÀI/ NỘI DUNG</b>


<b>TỰ HỌC</b>


<b>HƯỚNG DẪN CỦA GV </b> <b>U</b>


<b>CẦU</b>
<b>CỦA GV</b>
<b>TÀI LIỆU</b>
<b>HỌC TẬP</b>
<b>GHI</b>
<b>CHÚ</b>
NGỮ
VĂN


- Ơn tập một sơ
tác phẩm HKII,
chú ý các vấn đề
trong tâm:


+ Vội vàng
+ Tràng giang
+ Đây thôn Vĩ Dạ


<i>+ Chiều tối</i>
<i>+ Từ ấy</i>


- Ôn tập kĩ năng
Làm văn


- Xem lại các bài đã học, chú
ý những nội dung trọng tâm.
Có thể soạn, hệ thống lại kiến
thức theo sơ đồ tư duy.


- Đọc và tóm tắt các tác phẩm,
trả lời các câu hỏi trong phần
Hướng dẫn học bài.


- Tham khảo các đề thi
THPTQG, đề minh họa của bộ
các năm 2016 – 2017, 2017 –
2018, 2018 – 2019, rút ra cách
làm bài Nghị luận xã hội và
Nghị luận văn học.


- HS
nắm vững
những
kiến thức
trọng tâm
của các
tác phẩm
HKII.


- HS xác
định
được
cách viết
đoạn
Nghị luận
xã hội và
cách làm
một số
dạng bài
Nghị luận
văn học.


- Hướng dẫn
học Ngữ văn
theo chuẩn kiến
thức kĩ năng lớp
11.( Lê Anh
Xuân, Vũ Thị
Dung, Đỗ Lê
Hoàn)


- Sách giáo
khoa Ngữ văn
<i>11 tập 2</i>


- <i>40 đề luyện</i>
<i>tập thi THPT</i>
<i>Quốc gia môn</i>
<i>Ngữ văn năm</i>


<i>2019 – 2020</i>
(Triệu Thị Huệ
-Vũ Thị Nương)
- <i>Hướng dẫn ôn</i>
<i>thi THPT môn</i>
<i>Ngữ văn Phần</i>
<i>Văn học Việt</i>
<i>Nam hiện đại</i>
(TS Trịnh Thu
Tuyết)


<b> NỘI DUNG ÔN TẬP</b>
<b>I. PHẦN ĐỌC – HIỂU: Ôn tập lại kiến thức về:</b>


<b>1. Các phương thức biểu đạt (tự sự, biểu cảm, miêu tả, thuyết minh, nghị luận)</b>
<b>2. Các biện pháp tu từ </b>


<i>- Các phép tư từ từ vựng: so sánh, nhân hóa, hốn dụ, ẩn dụ, tương phản, phóng đại, nói giảm,</i>
nói tránh, chơi chữ.


<i>- Các phép tu từ cú pháp: Lặp cú pháp, liệt kê, chêm xen, câu hỏi tu từ, đảo ngữ, đối, im lặng</i>
<i>- Các phép tu từ ngữ âm: điệp âm, điệp vần, điệp thanh,… (tạo âm hưởng và nhịp điệu cho</i>
câu)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>4. Các phong cách ngơn ngữ (khoa học, nghệ thuật, báo chí, chính luận, khoa học và hành</b>
chính)


<b>5. Yêu cầu xác định nội dung chính của văn bản/ Đặt nhan đề cho văn bản.</b>
<b>6. Yêu cầu nêu cảm nhận nội dung và cảm xúc thể hiện trong văn bản.</b>
- Cảm nhận về nội dung phản ánh.



- Cảm nhận về cảm xúc của tác giả.


<b>7. Yêu cầu xác định từ ngữ, hình ảnh biểu đạt nội dung cụ thể trong văn bản. </b>
- Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh thể hiện nội dung cụ thể/ nộidung chính của văn bản.
- Chỉ ra từ ngữ chứa đựng chủ đề đoạn văn.


<b>8. Yêu cầu xác định từ ngữ, hình ảnh biểu đạt nội dung cụ thể trong văn bản. </b>
- Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh thể hiện nội dung cụ thể/ nội dung chính của văn bản.
- Chỉ ra từ ngữ chứa đựng chủ đề đoạn văn.


<b>II. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI. </b>


<b>1. Dạng bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí </b>
<b>a. Kiến thức chung </b>


- Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí là dạng đề thường bàn về một quan điểm, một tư tưởng
như: lòng dũng cảm, lịng khoan dung, thói vơ cảm, vơ trách nhiệm,…


- Dấu hiệu để nhận biết kiểu bài này là thường là những câu nói trực tiếp để trong ngoặc kép
của các nhà tư tưởng, các danh nhân nổi tiếng hoặc những câu văn, câu thơ, ý kiến trích dẫn
trong tác phẩm văn học,…


<b>b. Cách làm </b>


- Cần tìm hiểu tư tưởng trong câu nói là tư tưởng gì? đúng sai như thế nào? Từ đó xác định
phương hướng bàn luận (nội dung) và cách bàn luận (sử dụng thao tác lập luận nào).


<b>c. Hình thức: Viết đoạn văn 200 chữ</b>



<b>2. Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống </b>


<b>a. Kiến thức chung Nghị luận về một hiện tượng đời sống là dạng đề mang tính thời sự, bàn</b>
về một vấn đề của xã hội (tốt – xấu) đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày như: tai nạn giao
thông, bạo lực học đường, tiêu cực trong thi cử, …


<b>b. Cách làm </b>


- Cần nêu rõ hiện tượng, phân tích mặt đúng, sai, lợi, hại. Chỉ ra nguyên nhân.
- Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết bằng các thao tác lập luận phù hợp.
- Bàn luận và đưa ra những đề xuất, giải pháp của mình trước hiện tượng đó.
<b>III. PHẦN VĂN HỌC</b>


<b>VỘI VÀNG</b>



<b> XUÂN DIỆU </b>
<b>-Giới thiệu tác giả và tác phẩm:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Khái quát về bài thơ:</b>


<b> “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng, in trong tập “Thơ</b>
thơ” (năm 1938), là bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà thơ. Bài thơ gồm bốn đoạn
thơ, có thể chia làm hai phần. Phần một gồm ba đoạn thơ đầu, là niềm ngất ngây trước cảnh
sắc trần gian và nêu những lí giải vì sao phải sống vội vàng; phần hai là đoạn thơ cuối, nêu
cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”.


<b>Nội dung, nghệ thuật bài thơ:</b>


<i><b>Phần đầu: Niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và nêu những lí giải vì sao phải sống</b></i>
<i><b>vội vàng.</b></i>



<i><b>Khổ thơ ngũ ngôn đầu bài thơ: thể hiện một ước muốn kì lạ của </b></i>
<i><b>thi sĩ – ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên:</b></i>


<i> “Tôi muốn tắt nắng đi</i>
<i> Cho màu đừng nhạt mất;</i>
<i> Tơi muốn buộc gió lại</i>
<i> Cho hương đừng bay đi.”</i>


Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” là những ước muốn kì lạ, chỉ có ở Xuân Diệu. Bởi thi sĩ sợ
“màu nhạt mất”, “hương bay đi” – sợ rằng hương sắc, vẻ đẹp của trần gian sẽ phai nhạt mất.
Ông muốn níu giữ tất cả hương sắc, vẻ đẹp của trần gian. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật,
làm sao con người tắt được nắng và buộc được gió, đó thật sự là một ước muốn không thể. Cái
ước muốn lạ lùng, kì dị ấy đã hé mở một tình yêu vô bờ với trần gian thắm đượm hương sắc
này.


<i><b>Khổ thơ thứ hai: Phát hiện và say sưa ca ngợi một thiên đường ngay trên mặt đất với bao </b></i>
<i><b>nguồn hạnh phúc kì thú:</b></i>


<i> “Của ong bướm này đây tuần tháng mật;</i>
<i> Này đây hoa của đồng nội xanh rì;</i>
<i> Này đây lá của cành thơ phơ phất;</i>
<i> Của yến anh này đây khúc tình si;</i>
<i> Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,</i>
<i> Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;</i>
<i> Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;</i>
<i> Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.</i>
<i> Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.</i>
Bảy câu thơ đầu khổ thơ là cảnh sắc trần gian:



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i> Này đây hoa của đồng nội xanh rì;</i>
<i> Này đây lá của cành tơ phơ phất;</i>
<i> Của yến anh này đây khúc tình si;</i>
<i> Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,</i>
<i> Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;</i>
<i> Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”</i>


Bằng những điệp từ “này đây”; nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, trần gian hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp,
sắc hương của nó. “Này đây” là “tuần tháng mật” của ong bướm, là thời gian chúng hút nhụy
hoa để lấy mật, thời gian chúng vui sống mãnh liệt nhất. “Này đây” là “hoa” của đồng nội
“xanh rì”. Đó là hoa cỏ tươi thắm giữa một cánh đồng xanh mơn mởn, tràn đầy sức sống. “Này
đây” nữa là “lá” của một “cành tơ” căng tràn nhựa sống, phơ phất trong gió xn. Cịn những
đơi chim “yến anh” đang say đắm trong “khúc tình si”. “Và này đây” nữa là “ánh sáng chớp
hàng mi”. Một liên tưởng độc đáo: ánh sáng trần gian tựa như hàng mi của một cô gái đẹp,
mỗi khi cơ gái chớp mắt thì cả trần gian như si mê. Còn nữa, mỗi sáng sớm, thần Vui lại gõ
cửa trần gian, mang đến niềm vui cho nhân loại. Bởi vì thế mà “tháng giêng” “ngon” như “cặp
môi gần”. Tháng giêng mơn mởn non tơ, tháng giêng quyến rũ như một người tình rạo rực.
Trần gian hiện lên trong cảm nhận của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” là như thế:
tươi đẹp, mơn mởn sức sống, chan chứa niềm vui, niềm hạnh phúc, ngập tràn tình yêu. Trần
gian này chính là một thiên đường thực thụ, khơng phải tìm đâu xa. Trần gian này lúc nào
cũng tươi xanh mơn mởn như đang giữa mùa xuân. Thi sĩ như ngất ngây, say đắm trong hương
sắc của nó.


Trần gian là một thiên đường, vì thế mà Xuân Diệu tuyên bố:


<i> “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.</i>
<i> Tôi khơng chờ nắng hạ mới hồi xn”. </i>


Tơi khơng “sung sướng” sao được khi được sống giữa một thiên đường như thế? Nhưng cũng
vì thế mà tơi phải “vội vàng một nửa”. Khơng vội vàng thì sợ khơng kịp mất. Tôi “không chờ”


cho đến “nắng hạ” mới tiếc nhớ “mùa xuân”, tôi sẽ không để cho tuổi xuân qua đi rồi mới tiếc
nhớ thời tươi đẹp ấy. Tôi phải sống ngay từ bây giờ, ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân,
khi tâm hồn còn ngập tràn tình yêu. Lời tuyên bố này thể hiện một quan niệm mới: trong thế
giới này, đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.


<i><b>Khổ thơ thứ ba: Trần gian tươi đẹp là thế, tại sao lại phải “vội vàng”? Khổ thơ thứ ba lí </b></i>
<i><b>giải cho sự “vội vàng” ấy:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Mà xn hết, nghĩa là tơi cũng mất.</i>
<i>Lịng tơi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,</i>
<i>Không cho dài thời trẻ của nhân gian,</i>
<i>Nói làm chi rằng xn vẫn tuần hồn,</i>
<i>Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !</i>
<i>Còn trời đất, nhưng chẳng cịn tơi mãi,</i>
<i>Nên bâng khng tơi tiếc cả đất trời;</i>
<i>Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,</i>
<i>Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…</i>
<i>Con gió xinh thì thào trong lá biếc,</i>
<i>Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?</i>
<i>Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,</i>
<i>Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?</i>


<i>Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…”</i>


Ba câu đầu là quan niệm về sự trôi chảy của thời gian, sự phôi pha của kiếp người:
<i>“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua</i>


<i> Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già;</i>
<i>Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”</i>



Từ “xuân” trong ba câu thơ trên có thể được hiểu là mùa xuân, cũng có thể là “tuổi xuân”, tuổi
trẻ của con người. Những cụm từ “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – “sẽ già” diễn tả sự
trôi chảy của thời gian. Nếu như con người thời trung đại thấy thời gian tuần hồn với chu kì
bốn mùa xn, hạ, thu, đơng; hết một vịng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu; thì
Xuân Diệu đem đến một quan niệm mới mẻ: thời gian tuyến tính. Thời gian là một dịng chảy
vơ thủy vô chung, mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Và cuộc đời tôi cũng sẽ chẳng
cịn gì nếu tuổi xn qua mất.


Bởi thế, mà có chút trách móc, tiếc nuối trong bốn câu tiếp:
<i> “Lịng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,</i>


<i>Không cho dài thời trẻ của nhân gian,</i>
<i>Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,</i>
<i>Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

người khơng có hai lần tuổi trẻ thì làm gì có chuyện thời gian tuần hồn ! Tuổi trẻ, tuổi đẹp
nhất của đời người lại ngắn ngủi quá !


Niềm tiếc nuối ấy thể hiện rõ hơn trong hai câu tiếp:
<i>“Cịn trời đất, nhưng chẳng cịn tơi mãi,</i>


<i>Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”</i>


Vũ trụ, đất trời cứ trường tồn mà lại “chẳng cịn tơi mãi”, thế nên tôi “bâng khuâng”, ngậm
ngùi “tiếc” cả đất trời.


Thời gian cứ thế trôi đi không thể trở lại, kiếp người lại ngắn ngủi, hữu hạn, tất cả rồi sẽ phải
phai tàn theo thời gian:


<i>“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phơi,</i>


<i>Khắp sơng núi vẫn than thầm tiễn biệt…</i>
<i>Con gió xinh thì thào trong lá biếc,</i>
<i>Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?</i>
<i>Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,</i>
<i>Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?”</i>


“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” là một cảm nhận mới lạ, độc đáo. “Tháng năm”, thời
gian được cảm nhận bằng “mùi”, “vị chia phôi”. Thi sĩ thấy hiển hiện mỗi khoảnh khắc của
thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ. Chính thời gian cũng đang chia tay với tất
cả, mỗi phút giây của nó qua đi là đang mất đi vĩnh viễn. Cho nên, thi sĩ nghe thấy một lời
than luôn âm vang khắp núi sông, một lời than triền miên, bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Thời
gian trôi qua mau chóng, tất cả rồi sẽ phai tàn, héo úa theo nó. “Con gió xinh” tưởng khơng
bao giờ mất, thế mà cũng phải “bay đi”; tiếng chim hót “reo thi” tưởng không bao giờ ngừng
nghỉ, thế mà cũng phải “đứt”. Tất cả, tất cả đều phôi pha, phai tàn trước dòng chảy nghiệt ngã
của thời gian. Thế nên, câu thơ cuối khổ thơ vang lên đầy nuối tiếc: “Chẳng bao giờ, ôi !
Chẳng bao giờ nữa…”. Chẳng thể nào kịp nữa nếu không nhanh lên, gấp lên, khơng “vội
vàng” lên. Đến đây, nhà thơ đã hồn thành xong lời lí giải vì sao phải sống “vội vàng” : cuộc
sống trần gian đẹp như một thiên đường; trong khi đó, thời gian một đi khơng trở lại, và đời
người – đặc biệt là tuổi trẻ của con người – lại quá ư ngắn ngủi, hữu hạn, nên chỉ còn một cách
là phải sống vội. Đây là quan niệm nhân sinh mới mẻ của một tâm hồn luôn khát khao giao
cảm với đời.


<i><b> Phần hai: cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”.</b></i>


<i><b>Khổ thơ cuối: Nhà thơ nêu cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i> Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn.</i>
<i> Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,</i>
<i> </i>



<i> Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,</i>
<i> Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,</i>
<i> Và non nước, và cây, và cỏ rạng.</i>


<i> Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,</i>
<i> Cho no nê thanh sắc của thời tươi.</i>


<i> Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”</i>
Mở đầu đoạn thơ là lời giục giã :


<i> “Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.”</i>


Nhà thơ giục giã mọi người mà cũng là giục giã chính mình: hãy mau lên, gấp lên để tận
hưởng cuộc sống. “Mau đi thôi!” là câu cảm thán thể hiện sự khẩn trương, hối hả. “Mùa chưa
ngả chiều hơm” là cách nói hình ảnh chỉ con người khi đang còn trẻ, chỉ trần gian khi đang ở
độ xuân, chưa phai tàn hết hương sắc. Nhà thơ giục giã hãy nhanh lên, gấp lên khi đang còn
trẻ, đang còn tràn trề nhựa sống, đừng hồi phí giây phút nào nữa. Giục giã đã trở thành môtip
quen thuộc trong thơ Xuân Diệu:


“Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.”
(“Giục giã”)


“Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai,


Đời trơi chảy, lịng ta khơng vĩnh viễn.”


Lời giục giã khẩn trương, gấp gáp này đã hé mở lòng yêu đời, ham sống đến tha thiết, rạo rực
của một con người luôn sợ thời gian.



Sáu câu thơ tiếp theo bộc lộ những hành động sống vội vàng:
<i>“Ta muốn ôm,</i>


<i> Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,</i>
<i> Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,</i>
<i> Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,</i>
<i> Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,</i>
<i> Và non nước, và cây, và cỏ rạng.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thu nhận hết hương sắc của trần gian. “Ta muốn ôm” là một câu thơ đặc biệt: chỉ có ba tiếng,
lại được đặt ngay giữa dịng thơ, gợi cho người đọc hình dung ra một con người ham hố đang
đứng giữa đất trời, dang rộng vịng tay, mở rộng tâm hồn để đón nhận hết tất cả sự sống, tất cả
đất trời vào lòng mình. Câu thơ có cấu tạo đặc biệt này đã thể hiện rõ lòng yêu đời cuồng
nhiệt, đắm say của Trảo Nha.


<i>Hệ thống động từ “ôm, riết, say, thâu” chỉ những hành động sống vội vàng, mãnh liệt có mức </i>
độ tăng tiến đã diễn tả đầy đủ quan niệm “Sống tồn tâm, tồn trí, tồn hồn; Sống tồn thân và
thức nhọn giác quan”. Qủa thực, đó là lòng yêu đời đến cuồng nhiệt của thi nhân.


<i>Thêm nữa, nhà thơ miêu tả trần gian bằng những hình ảnh “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, </i>
<i>“mây đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm – tình yêu”, “non nước”, “cây”, cỏ rạng”. Trần gian ấy</i>
thật tươi đẹp, tràn đầy sức sống, rạo rực tình yêu. Cách miêu tả trần gian ấy cũng bộc lộ lòng
yêu đời đến đắm say, rạo rực của Xuân Diệu.


<i>Đặc biệt, câu thơ “và non nước, và cây, và cỏ rạng” là một câu thơ độc đáo cho thấy Xuân </i>
Diệu xứng đáng với mệnh danh “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Câu thơ lặp lại ba
lần từ “và” (nếu như trong văn học trung đại sẽ là một câu thơ dở) là dụng ý nghệ thuật của
nhà thơ. Ông muốn thể hiện một “cái tôi” ham hố, tham lam muốn vơ hết, thu hết, ôm hết tất
cả trần gian, đất trời. Tóm lại, nhữ ng hành động sống vội vàng, mạnh mẽ muốn “ôm, riết,
thâu” cả trần gian, Trảo Nha khẳng định, với ông “vội vàng” là sống hết mình, cống hiến hết


mình, là “Sống tồn tâm, tồn trí, tồn hồn; Sống tồn thân và thức nhọn giác quan”.


Với Xuân Diệu, sống là hành động thật mãnh liệt, hết mình để có thể :
<i>Cho chếnh chống mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,</i>


<i> Cho no nê thanh sắc của thời tươi.</i>


<i> – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”</i>


Với ông, sống là phải cảm nhận, hưởng thụ hết “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc của thời
tươi”, nghĩa là phải hưởng thụ hết vẻ đẹp, hương sắc của trần gian, phải sống sao cho “thời
tươi” của đời người thật ý nghĩa, thật đẹp để sau này khơng hối tiếc. Các tính từ “chếnh
<i>chống”, “đã đầy”, “no nê” có mức độ tăng tiến khiến chúng ta hình dung Xuân Diệu như </i>
một con ong lảo đảo vui sướng sau khi hút mật ngọt từ nhụy hoa. Ông muốn sống thật hăng
say, sống thật mãnh liệt, lúc nào cũng căng tràn nhiệt huyết, để “thời tươi” – tuổi trẻ – được
đẹp đẽ nhất, được “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” với niềm vui sướng từ mật ngọt hương
đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đắm say như yêu người yêu của mình.


Tóm lại, với những câu thơ độc đáo, những từ ngữ và nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả,
cuồng nhiệt, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” đã nêu ra cách “thực hành” lẽ sống
“vội vàng” của mình: Vội vàng là chạy đua với thời gian, là quý trọng từng giây phút của tuổi
trẻ, đừng để hồi phí giây phút nào; vội vàng là sống mạnh mẽ, đủ đầy với từng phút giây của
sự sống, “Sống toàn tâm, tồn trí, tồn hồn; Sống tồn thân và thức nhọn giác quan”.


<b>Nghệ thuật cả bài:</b>


Bài thơ có sự kết hợp hài giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí. Mạch cảm xúc thể hiện ở
lòng yêu đời đắm say, tha thiết, rạo rực của nhà thơ; mạch luận lí là lời lí giải về lẽ sống vội


vàng. Mạch cảm xúc làm cho lí lẽ khơng trở nên khơ khan, triết học, cịn mạch luận lí làm cho
mạch thơ được tự nhiên, nhuần nhị. Cùng với cách nhìn, cách cảm mới, những sáng tạo độc
đáo về hình ảnh thơ và cách sử dụng ngôn từ, nhịp điệu sôi nổi dồn dập, hối hả, cuồng nhiệt,
nhà thơ đã trình bày một quan niệm nhân sinh mới mẻ mà vẫn dạt dào cảm xúc, sục sôi nhiệt
huyết.


<b>Ý nghĩa văn bản:</b>


Quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu – nghệ sĩ của niềm
khát khao giao cảm với đời.


<b>TRÀNG GIANG</b>



<b> - HUY </b>


CẬN- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương


Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tình Hà Tình.


 Năn 1939, ơng ra Hà Nội học ở trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, ơng tích


cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh. Ông tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào, được bầu
vào ủy ban Dân tộc giải phóng tồn quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia
chính quyền cách mạng, giử nhiều trọng trách khác nhau. Năm 1996, ông được Nhà nước
tặng Giải thưởng Hổ Chí Minh về văn học nghệ thuật.


 Trước Cách mạng, Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu nhấtcúa phong trào


Thơ mói, nổi tiêng vói tập Lửa thiêng. Sau Cách mạng, ông sáng tác dồi dào và có nhiêu đổi
mới, tìm thấy sự hịa điệu giữa con người và xã hội tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày


lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời,…


 Huy Cận vốn yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh của văn học


Pháp. Thơ của Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.


<b>TÁC PHẨM TRÀNG GIANG</b>


<b>Hồn cảnh ra đời</b>


Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biếu nhất Huy Cận, được viết vào mùa
thu năm 1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hổng
mênh mang sóng nước…


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b> a, Nhan đề Tràng giang và lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã thâu tóm </b>
được mạch cảm xúc chủ đạo vừa gọi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ. Tràng giang miêu tả
một con sông vừa dài vừa rộng, lại vừa gợi ra cảm giác mênh mang và đượm buồn. “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” vừa mang nghĩa khái quát về không gian nghệ thuật của bài
thơ – khung cảnh sơng nưóc mênh mơng, vô biên – vừa khái quát lên tâm trạng buồn, cô đơn
giữa “trời rộng” “sông dài”. Cả nhan đề và câu đề từ gợi cho ta cảm nhận được sự đối lập giữa
không gian rộng dài, mênh mông với cái mong manh, bé nhỏ của con người. Toàn bộ bài thơ
thấm đẫm một nỗi buồn của con người trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Mỗi một khố thơ là
một sự triển khai và cũng là một nét biếu hiện của nỗi buồn lớn đó.


<b>b) Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã miêu tả khơng gian sơng nước mênh mang với hình ảnh </b>
của “sóng gợn tràng giang”,”nước… trăm ngả ‘, lạc mấy dịng”. Trong khơng gian sơng nước
mênh mơng ấy, hình ảnh của cõi nhân thế con người -bắt đầu hiện ra. Hình ảnh “Con thuyền
xi mái” gợi sự nổi trơi, phó mặc trước dịng đời đến đâu thì đến. “thuyền về nước lại” gợi sự
chia li, không cùng chung hướng đi. Đặc biệt, hình ảnh “Củi một cành khơ lạc mấy dịng” đã
gợi sự liên tưởng đen hình ảnh lẻ loi, trơ trọi và nhỏ bé của con người trước dịng đời xi


ngược:


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
<i>Con thuyền xuôi mái nước song song</i>


<i>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</i>
<i>Củi một cành khô lạc mấy dòng</i>


Cả khổ thơ đã gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nồi buồn triền miên kéo dài theo
không gian (tràng giang, trăm ngả) và theo thời gian (điệp điệp). Với nghệ thuật đối của thơ
Đường, thanh điệu hóan vị bằng trắc đều đặn đà tạo nên một âm điệu, tiết tàu nhịp nhàng,
chậm rãi, trầm buồn cho cả khổ thơ.


<b>c) Bức tranh tràng giang tiếp tục được cảm nhận cụ thể và có thêm nhiều chi tiết ở </b>
<b>khổ thơ thứ hai. Ở hai câu đầu, không gian được thu về một tiêu điểm: “cồn nhỏ”. Các từ láy </b>
“lơ thơ”, “đìu hiu” đi liền với hình ảnh “cồn nhỏ” đã cho thấy cảnh vật nơi đây rất hoang sơ và
vắng lặng. Câu thơ thứ hai càng tô đậm thêm nét tĩnh lặng ủa cảnh vật: “Đâu tiếng làng xa vãn
chợ chiều”. Câu này có hai cách hiểu. Cách thứ nhất: đâu (đâu đây) tiếng làng xa vãn chợ
chiều. Cách thứ hai: đâu (khơng có, đâu có) tiếng làng xa vãn chợ chiều. Dù hiểu theo


cách nào thì khơng gian ở đây cùng mang vẻ vắng lặng cơ tịch, chỉ có thiên nhiên trong khi sự
sống của con người thì xa vắng, mơ hồ:


<i>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,</i>
<i>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.</i>


Đến hai câu sau, không gian tràng giang được mờ ra ba chiều đến mênh mơng, vơ tận:
<i>Nắng xuống trời lên sâu chót vót </i>


<i>Sơng dài trời rộng bến cô liêu</i>



Không gian được mở ra nhiều chiều khác nhau: chiều cao (trời lên), chiều dài (sông dài) và cả
chiều rộng (trời rộng). Một không gian càng rộng, càng dài, càng sâu thì cảnh vật càng trở nên
vắng lặng, bờ bên càng trở nên bé nhỏ, lẻ loi: “bến cô liêu”. Nỗi buổn trong khổ thơ này như
bao trùm khắp không gian, vũ trụ, lan sang cả mọi vật và thấm sâu vào lòng người.


<b>d) Khổ thơ thứ ba tiếp tục hòa điệu cùng hai khổ tho đầu càng làm tăng thêm cảm giác </b>
<b>buồn:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.</i>
<i>Không cầu gợi chút niềm thân mật,</i>


<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>


Hình ảnh những cánh bèo trơi dạt trên sơng nước cùng với những hình ảnh “con thuyền xi
mái”, “củi một cành khơ lạc mấy dịng” càng gợi ấn tượng về sự lênh đênh, phiêu dạt vô định
và sự tan tác, chia li. Thêm vào đó, cảnh vật càng gợi buồn hơn bời cái vắng vẻ, tĩnh lặng, chỉ
có thiên nhiên sơng nước mà khơng có sự sống của con người: khơng chuyến đị, khơng cầu,
chi có bờ xanh tiếp bãi vàng. Chuyến đị ngang và cấy cầu bắc qua sông là những phương tiện
kết nối đôi bờ, giúp con người qua lại tượng trưng cho sự giao hòa, kết nối sự sống. Thế mà
bây giờ cũng đều “khơng” có! Cái tơi trữ tình ờ đây khơng những buồn vơ tận mà còn rất
khao khát những dấu hiệu của sự sống, sự hòa hợp giữa con người với nhau,


<b>e) Khổ thơ cuối của bài thơ vừa vẽ ra một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa thể hiện </b>
<b>tâm lòng của thi nhân. Bức tranh ấy được dựng bằng hình ảnh lớp lớp mây chồng xếp lên </b>
nhau thành núi mây trắng trơng như dát bạc. Ở đó xuất hiện một cánh chim nhỏ, tương phản
với “lớp lớp mây cao” càng làm cho khung cảnh thêm hùng vĩ hơn nhưng cũng càng gợi ra sự
cô đơn, bơ vơ và nhỏ nhoi đên tội nghiệp:


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>


<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.</i>


Hai câu cuối diễn tả một nỗi niềm nhớ quê da diết của nhà thơ. Hai câu này nhà thơ “học” ý từ
hai câu thơ trong bài Hồng Hạc lâu của Thơi Hiệu: “Q hương khuất bóng hồng hơn – Trên
sơng khói sóng cho bn lịng ai” (Tản Đà


dịch)-Nhưng Huy Cận đã có sáng tạo riêng: I
<i>Lịng q dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.</i>


Vói ơng, ơng khơng hể thây “khói hồng hơn” mà vẫn nhớ nhà. Vậy, nỗi nhớ ấy đã luôn
thường trực ở ơng cịn gì? Và suy rộng ra, ông nhớ nhà cũng là nhớ quê, một trong những biểu
hiện của tình yêu nước.


<b>Đặc sắc nghệ thuật</b>


Bức tranh Tàng giang mang đầy tâm trạng được vẽ ra bằng bút pháp cổ điển và bút pháp hiện
đại.


Chủ đề tư tưởng


Qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên sông nước mênh mông, nhà thơ bộc lộ nỗi sâu của một
cải tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tinh người, tình đời, lịng u
nước thầm kín mà thiết tha.


<b>ĐÂY THƠN VĨ DẠ</b>



<b> – Hàn Mặc Tử –</b>
<b>Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>Khái quát về bài thơ:</b>


Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đã mắc căn bệnh nan y. Thi phẩm được in trong
tập “Thơ điên”, được khơi nguồn cảm hứng từ tấm bưu ảnh mà Hoàng Thị Kim Cúc (cô gái
thôn Vĩ mà thi sĩ đã yêu, một tình đơn phương) gửi cho ơng. Bài thơ viết theo thể thơ thất
ngôn, gồm ba khổ thơ.


<b>Nội dung và nghệ thuật:</b>


<i><b>Khổ thơ đầu: là bức tranh thôn Vĩ vào buổi bình minh:</b></i>


<i> “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?</i>
<i> Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.</i>
<i> Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.</i>
<i> Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”</i>


Câu thơ mở đầu là câu hỏi : sao anh lại không trở về thôn Vĩ chơi? Đây là câu hỏi tu từ, hỏi
không yêu cầu trả lời. Ở đây, nhà thơ tự phân thân ra để tự hỏi mình. Câu hỏi thống chút
trách móc, hờn giận, nhưng chủ yếu là bộc lộ nỗi lịng nhà thơ. Câu thơ bảy tiếng thì có sáu
tiếng đầu liên tục là thanh bằng. Sáu thanh bằng liên tục ấy tạo ra âm hưởng chơi vơi. Có lẽ
nỗi nhớ chơi vơi về thôn Vĩ khiến Hàn Mặc Tử đã mở đầu bài thơ bằng âm hưởng chơi vơi ấy.
Cuối câu hỏi là một thanh sắc chói gắt, xốy vào lịng người, làm người đọc cảm nhận được
nỗi xót xa, tiếc nuối vì đã khơng trở về thôn Vĩ thân yêu. Câu thơ bộc lộ rõ nỗi nhớ chơi vơi và
niềm xót xa tiếc nuối của thi sĩ khi khơng có cơ hội trở về thơn Vĩ.


Sau câu hỏi như mời gọi ấy là bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ. Đó là cảnh ở một khu vườn thơn
Vĩ vào buổi sáng bình minh, có những ánh nắng đầu tiên của một ngày chiếu dọi lên hàng cau
và cả khu vườn ánh lên sắc xanh như ngọc. Cảnh thơn Vĩ được nhìn từ xa nên sự vật đầu tiên
mà tác giả trông thấy là “nắng hàng cau” – nắng ban mai chiếu trên hàng cau cao vút. Đó là
thứ “nắng mới lên”, thứ nắng gợi ra sự ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. Điệp từ “nắng” hai lần


trong câu hai gợi tả một không gian tràn ngập ánh nắng, dường như cả khu vườn đang tắm gội
dưới ánh bình minh. Tới gần hơn, nhà thơ nhìn thấy vườn “xanh” “mướt” “như ngọc”. “Mướt”
là từ tả độ bóng, sự óng ả, mượt mà tràn đầy sức sống của cây lá trong vườn. Từ cảm thán
“quá” như một tiếng reo vui kinh ngạc trước vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Nó lại ánh lên sắc
“xanh như ngọc”. Có lẽ, vào buổi sáng sớm, cây lá còn đẫm sương đêm, được ánh nắng dọi
lên nên ánh lên long lanh “như ngọc”. Cảnh thôn Vĩ hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ thật gần
gũi, thật đẹp, thật trong trẻo, tinh khơi.


Thấp thống sau cảnh vật là hình ảnh con người. Con người thôn Vĩ hiện ra với khuôn “mặt
chữ điền” – khuôn mặt của người phúc hậu, hiền lành. Khn mặt ấy lại thấp thống đằng sau
“lá trúc” nên càng trở nên duyên dáng, đáng yêu.


Cả khổ thơ một là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ vào buổi bình minh đẹp trong trẻo, tinh khơi,
tràn đầy sức sống và con người thôn Vĩ phúc hậu, duyên dáng, đáng yêu. Đằng sau bức tranh
có cảnh và người đó, người đọc cảm nhận được tấm lịng u đời, yêu người đáng quý của nhà
thơ bất hạnh.


<i><b>Khổ thơ thứ hai : chuyển sang một cảnh khác: cảnh dịng sơng đêm trăng</b></i>
<i> “Gió theo lối gió, mây đường mây</i>
<i> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.</i>
<i> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó</i>
<i> Có chở trăng về kịp tối nay?”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

quy luật tự nhiên. Nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử thì “gió theo lối gió, mây đường
mây”, gió – mây chia lìa đơi nẻo. đây khơng cịn là hình ảnh của thị giác nữa, mà là hình ảnh
của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa của một con người ln sợ sẽ phải xa rời trần thế. Mặc cảm ấy
đã chia lìa cả những thứ tưởng như khơng thể chia lìa. Ở câu hai, “dòng nước” được miêu tả
“buồn thiu”. Dịng nước trơi chậm, lững lờ đến tĩnh lặng. “Hoa bắp” thì chỉ “lay” nhẹ, chuyển
động khẽ khàng, vơ hồn. Cảnh thật tĩnh lặng, mang đậm nỗi buồn, hiu hắt. So với khổ thơ đầu,
cảnh ở đây hoàn toàn khác. Nắng tắt, chiều xuống, rồi trăng lên. Câu ba, câu bốn tả cảnh dịng


sơng có trăng soi chiếu. Chắc trăng sáng lắm nên soi tỏ con thuyền. Thuyền “chở” đầy trăng,
cả dòng nước tràn đầy ánh trăng trở thành dịng “sơng trăng”. Đêm trăng thật đẹp, thật lung
linh, huyền ảo. Thế mà có gì đó nghe da diết mà khắc khoải : “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Câu hỏi tu từ và động từ “kịp” gợi ra sự chờ đợi đến khắc khoải. Có về “kịp” tối nay không?
Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi trong đau khổ ấy sẽ hoàn toàn
tuyệt vọng, đau thương. Với các thi nhân, trăng là người bạn thân thiết. Lí Bạch bất chợt bắt
gặp ánh trăng ở đầu giường thì nhớ về quê hương (“Tĩnh dạ tứ” – Cảm nghĩ trong đêm thanh
tĩnh). Bác Hồ của chúng ta ở trong tù có trăng làm bạn (“vọng nguyệt” – Ngắm trăng), khi ra
tù làm cách mạng lại có trăng cùng “bàn bạc việc quân” (“Nguyên tiêu” – Rằm tháng giêng)…
Còn với Hàn Mặc Tử lúc này, trăng là tri âm tri kỉ, là cứu cánh duy nhất để con người bất
hạnh này thốt khỏi cơ đơn và mặc cảm chia lìa. Nỗi niềm khắc khoải chờ đợi trăng ấy của nhà
thơ khiến người đọc nhận ra khát khao giao cảm với đời, với người của thi nhân.


<i><b>Khổ thơ cuối: Nếu như khổ một, khổ hai nỗi nhớ chủ yếu hướng về cảnh thì khổ thơ thứ </b></i>
<i><b>ba lại hướng về con người:</b></i>


<i> “Mơ khách đường xa, khách đường xa</i>
<i> Áo em trắng quá, nhìn không ra.</i>
<i> Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,</i>
<i> Ai biết tình ai có đậm đà?”</i>


Con người hiện ra trong “mơ” hư ảo, chập chờn. Đó lại là “khách đường xa”, là khách ở nơi xa
xôi. Phép điệp lặp lại hai lần cụm từ “khách đường xa” càng tô đậm thêm sự xa xôi, hư ảo.
Đến câu thơ thứ hai, dường như thiếu nữ thôn Vĩ hiện ra rõ ràng hơn trong màu “trắng” của
“áo em”. Sắc “trắng” được cực tả “trắng quá” để miêu tả vẻ đẹp trong trắng, trinh khiết của
“em”. Nhưng sắc trắng ấy cũng làm tơi “nhìn khơng ra”. Thì ra là vậy. “Em” vẫn chập chờn,
hư ảo quá, xa xôi quá, khó với tới q. Với tơi, em là như vậy. Niềm đau ấy khiến thi sĩ quay
trở lại với thực tại của mình: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây”, nơi tôi đang sống
đây, trong cõi lịng tơi đây, thì chỉ cịn là “sương khói mờ nhân ảnh”, chỉ cịn sự u ám, lạnh
lẽo, cơ đơn. Cuối bài thơ là một câu hỏi : “Ai biết tình ai có đậm đà?” Tình u đơn phương


với Hoàng Cúc khiến nhà thơ day dứt, băn khoăn: Khơng biết, em có biết tình tơi dành cho em
đậm đà lắm hay khơng? Khơng biết tình cảm của em với tơi có chút gì đậm đà chưa? Câu thơ
chứa đựng niềm day dứt mà vẫn rất tha thiết của một con người đang yêu nhưng lại sợ tình u
khơng thành. Nó khiến cho người đọc thêm cảm thương cho thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh, yêu
say đắm mà suốt đời lại phải sống trong cô đơn, tật bệnh.


<i><b>Cuối cùng, không thể không nhắc đến đại từ “ai” rải rác trong bài thơ: Cả bốn lần, đại từ </b></i>
phiếm chỉ này xuất hiện trong bài thơ đều mơ hồ, ám ảnh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Con người nhà thơ nói đến là phiếm chỉ, xa vắng trong hồi niệm, mơng lung trong cảm xúc.
Hi vọng về mối tình đơn phương ấy như đang nhạt nhịa theo sương khói. Khơng chỉ thế, đại
từ “ai” cịn tạo ra nét duyên dáng “rất Huế” cho cả bài thơ.


<b>Nghệ thuật cả bài thơ:</b>


Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật so sánh, nhân hóa; thủ pháp lấy động tả
tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ và những hình ảnh sáng tạo, có sự hịa quyện giữa thực và ảo, Hàn
Mặc Tử đã dẫn người đọc trở về với thơn Vĩ thơ mộng, hữu tình; đồng thời thể hiện lòng yêu
đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ.


<b>Ý nghĩa văn bản:</b>


Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ và lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà
thơ.


<b>TỪ ẤY – TỐ HỮU</b>


<b>Giới thiệu về tác giả và bài thơ:</b>


Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Con đường thơ
của Tố Hữu gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh


nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Ơng có nhiều tập thơ lớn với nhiều bài
thơ hay, trong đó có “Từ ấy”. (Nêu vấn đề theo đề bài).


<b>Khái quát về bài thơ:</b>


“Từ ấy” là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, được sáng tác từ năm 1937 đến năm 1946. Tập thơ có
ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Gỉai phóng. Bài thơ “Từ ấy” nằm trong phần “Máu lửa” của tập
thơ này. Bài thơ được viết để ghi nhận một kỉ niệm đáng nhớ, tạo nên một bước ngoặt trong
cuộc đời Tố Hữu, đó là khi nhà thơ được đứng vào hàng ngũ những người cộng sản, phấn đấu
vì một lí tưởng cao đẹp. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn, chia làm ba khổ, ghi lại những
tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng của Đảng.


<b>Nội dung, nghệ thuật bài thơ:</b>


<i><b>Khổ thơ đầu, nhà thơ diễn tả niềm say mê, vui sướng khi gặp lí tưởng Cộng sản:</b></i>
<i> “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ</i>


<i> Mặt trời chân lí chói qua tim.</i>
<i> Hồn tôi là một vườn hoa lá.</i>


<i> Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng âý không phải là ánh thu vàng
nhẹ hay ánh xuân dịu dàng, mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày “nắng hạ”. Hơn thế, nguồn
sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường – “mặt trời chân lí”. Nếu mặt trời của đời
thường tỏa ánh sáng, hơi ấm và sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư
tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải. Cách gọi lí tưởng là “mặt trời chân lí” như thế thể hiện thái độ
thành kính, ân tình của nhà thơ. Thêm nữa, những động từ “bừng” – chỉ ánh sáng phát ra đột
ngột, “chói” – chỉ ánh sáng có sức xuyên mạnh, càng nhấn mạnh: ánh sáng của lí tưởng đã
hồn tồn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một


chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.


Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả
cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Nhà thơ
thấy tâm hồn mình như một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi
xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với vườn hoa lá ấy thì cịn gì đáng
quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu
đời” thì cịn gì đáng q hơn khi có một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt. Tóm lại, Tố Hữu
sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng
cộng sản đã làm tâm hồn nhà thơ tràn đầy sức sống, niềm yêu đời, làm cho cuộc đời có ý nghĩa
hơn.


<i><b>Khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức mới về lẽ sống:</b></i>
<i> “Tôi buộc hồn tôi với mọi người</i>
<i> Để tình trang trải với trăm nơi,</i>
<i> Để hồn tôi với bao hồn khổ,</i>


<i> Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”</i>


Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái “tôi” cá nhân chủ
nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống của ơng là sự
gắn bó hài hịa giữa cái “tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người. Với động từ buộc, câu
một thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua
giới hạn của “cái tơi” cá nhân để sống chan hịa với mọi người “trăm nơi”. Với từ ‘trang trải”
ở câu hai cho thấy tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa
với những kiếp người cùng khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu : khi “cái tơi” chan hịa trong “cái ta”, khi cá
nhân hịa mình vào một tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội “mạnh khối
đời”. Tóm lại, Tố Hữu đã đặt mình giữa dịng đời và trong môi trường rộng lớn của quần


chúng lao khổ, ở đấy nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới.


<i><b>Khổ thơ cuối cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu:</b></i>
<i> “Tôi đã là con của vạn nhà,</i>


<i> Là em của vạn kiếp phôi pha,</i>
<i> Là anh của vạn đầu em nhỏ,</i>
<i> Không áo cơm cù bất cù bơ.”</i>


Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản
khơng chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà cịn vượt qua tình cảm ích kỷ, hẹp hịi của giai
cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó cịn là tình
cảm thân u ruột thịt. Những điệp từ “là” cùng với các từ “con, em, anh” và số từ ước lệ
“vạn” (chỉ số lượng đông đảo), nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm,
thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc mình là một thành viên của đại gia đình quần
chúng lao khổ. Cách gọi quần chúng là “kiếp phôi pha” – chỉ những người lao động vất vả,
thường xuyên dãi nắng dầm mưa để kiếm sống; là “vạn đầu em nhỏ, không áo cơm cù bất cù
bơ” – chỉ những em bé không nơi nương tựa, phải sống lang thang vất vưởng nay đây mai đó,
đã cho thấy tấm lịng đồng cảm, xót thương chân thành của nhà thơ, đồng thời cũng thấy được
lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất cơng, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những
kiếp người “phôi pha”, những em bé “không áo cơm cù bất cù bơ” âý mà Tố Hữu sẽ hăng say
hoạt động cách mạng. Họ cũng chính là đối tượng sáng tác của nhà thơ.


<b>Nghệ thuật cả bài thơ:</b>


“Từ ấy” là tuyên ngôn cho tập thơ “Từ ấy” nói riêng và cho tồn bộ sáng tác của Tố Hữu nói
chung. Với những ẩn dụ, so sánh độc đáo; những hình ảnh thơ tươi sáng, giàu ý nghĩa tượng
trưng; ngôn ngữ gợi cảm giàu nhạc điệu và giọng thơ sảng khoái, nhịp điệu thơ hăm hở, bài
thơ đã thể hiện thành công niềm vui sướng, say mê rạo rực của người thanh niên yêu nước Tố
Hữu trong buổi đầu bắt gặp lí tưởng cộng sản. Từ “Từ ấy” trở đi, Tố Hữu sẽ đấu tranh hết


mình cho giai cấp cần lao.


<b>Ý nghĩa văn bản:</b>


Niềm vui lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cộng sản.


CHIỀU TỚI

- HỒ CHÍ MINH


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Người
không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người để lại
một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Một trong số đó là bài thơ “Chiều
tối”. (Nêu vấn đề theo đề bài)


Khái quát về bài thơ:


Bài thơ thuộc tập thơ “Nhật kí trong tù” – viết trong khoảng thời gian người bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải đi khắp các nhà lao ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
“Chiều tối” là bài thứ 31 trong 134 bài của tập thơ, được gợi cảm hứng trong lần Người bị giải
đi từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt.


Nội dung và nghệ thuật:


<i><b>Hai câu đầu: khung cảnh thiên nhiên núi rừng Quảng Tây buổi chiều tối.</b></i>
<i> “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,</i>


<i> Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không”.</i>
<i> (“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,</i>
<i> Cô vân mạn mạn độ thiên không”.)</i>



Bằng bút pháp chấm phá trong thơ cổ, chỉ với vài nét vẽ “chim” và “mây”, Bác đã vẽ ra bức
tranh núi rừng Quảng Tây buổi chiều tối. Trong thơ ca cổ, hình ảnh cánh “chim” thường tượng
trưng cho thời gian chiều tối:


“Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao)


“Chim hôm thoi thót về rừng” (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)


Thế nên, ngay đầu bài thơ, dù khơng có một từ chỉ thời gian nhưng người đọc vẫn cảm nhận
được không gian sắp về tối. Tuy nhiên, thi liệu cổ ấy (“chim”) đã được Bác vận dụng sáng tạo.
Trong thơ xưa, hình ảnh cánh chim thường được miêu tả qua trạng thái bên ngồi của nó
(bay). Cịn trong thơ Bác, Người cảm nhận sâu sắc trạng thái bên trong của nó : “chim mỏi”
sau một ngày kiếm ăn vất vả. Tấm lịng thương u vơ bờ bến của con người “chỉ biết quên
mình cho hết thảy” đã đồng cảm với cánh chim mỏi mệt ấy. Bức tranh núi rừng buổi chiều
muộn cịn có “mây”. Đây cũng là thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển:


“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” ( Thu điếu – Nguyễn Khuyến)
“Cô vân độc khứ nhàn” (Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình –
Thơ Lí Bạch)


Nếu như hình ảnh đám mây trong thơ ca xưa thường gợi ra sự nhàn tản, thốt tục của một nhà
nho tìm về với chốn làng q ẩn dật thì trong thơ Bác, nó là hình ảnh của hiện thực. Trên
đường chuyển lao, ánh mắt Bá hướng lên cao và bắt gặp đám mây trôi chầm chậm, lơ lửng
(“mạn mạn”) trên bầu trời. Đám mây ấy gợi ra không gian tĩnh lặng nhưng cũng thanh bình,
thơ mộng của vùng rừng núi buổi chiều muộn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

vẻ đẹp tâm hồn của người tù – chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là “chất tình”
dào dạt và chất “thép” cứng cỏi thường gặp trong thơ Người.


<i><b>Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống con người miền sơn cước:</b></i>


<i> “Cơ em xóm núi xay ngơ tối,</i>


<i> Xay hết lò than đã rực hồng”.</i>
<i> (“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,</i>
<i> Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”.)</i>


Trên con đường chuyển lao, ánh mắt người tù cộng sản nhận ra người lao động trong cơng
việc: cơ gái xóm núi xay ngơ. Cũng như các nhà thơ, nhà văn xưa, tấm lòng nhân đạo của họ
hướng về những con người yếu đuối: người phụ nữ có số phận bất hạnh (Thúy Kiều trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du; nàng Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ; nàng chinh phụ lẻ loi chờ chồng trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần
Côn…); Bác cũng hướng tới người phụ nữ, nhưng trong thơ Bác, đó lại là một người phụ nữ
lao động bình thường, giản dị trong lao động. Đó chính là tình u thương của một chiến sĩ
cộng sản đối với con người thuộc giai cấp vô sản, nhân dân lao động – đối tượng mà người
dành cả cuộc đời mình đấu tranh vì họ. Điệp ngữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được lặp lại ở
đầu câu bốn, gợi tả những vòng xoay liên tục, liên tục của cái cối xay ngơ. Những vịng xoay
liên tục ấy gợi ra khơng khí làm việc miệt mài, chăm chỉ và vẻ đẹp khỏe khoắn trong lao động
của cơ gái xóm núi. Cuối bài thơ là chữ “hồng”, được xem là “nhãn tự” của bài thơ. Một chữ
“hồng” gợi không gian sáng rực, gợi khơng khí ấm áp, tươi vui. Thế đấy, dù đang mệt mỏi, cô
đơn là thế, chỉ cần nhìn thấy người lao động cần cù, chăm chỉ trong cuộc sống đời thường, tâm
hồn Bác đã rực lên niềm vui, ấm áp trở lại. Không như quy luật thông thường, chiều rồi


chuyển dần về tối, cuối bài thơ lại là khơng gian sáng rực. Cái tài tình của Bác cũng là ở chỗ
này. Cả bài thơ khơng có một chữ “tối”, thế mà người đọc vẫn thấy thời gian đã về tối rồi.
Chính cái ánh lửa đỏ rực của lò than khiến người ta nhận ra điều đó, bởi trời có tối thì nhìn từ
xa mới thấy được ánh lửa đỏ rực lên. Cùng với sự vận động của thời gian là sự vận động trong
tư tưởng của Người: từ buồn sang vui, từ lạnh lẽo cơ đơn sang ấm nóng tình người. Bác là thế
đấy: dạt dào tình yêu – yêu con người, yêu cuộc sống mà vẫn luôn cứng cỏi, kiên cường, luôn
lạc quan, yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, tương lai. Hình ảnh con người trở thành trung tâm
của bức tranh thiên nhiên và mạch thơ vận động hướng về sự sống, về ánh sáng ấy khiến hai


câu sau đậm tính hiện đại.


Cả bài thơ chỉ với hai mươi tám chữ mà chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc, ý nghĩa. Người
đọc không thể nào quên được một tâm hồn thi sĩ chan chứa tình yêu thiên nhiên, tình yêu con
người, yêu cuộc sống và cũng không thể nào quên được bản lĩnh “thép” của người chiến sĩ
cộng sản Hồ Chí Minh – dù trong hồn cảnh nào vẫn ln ung dung tự tại, lạc quan, yêu đời,
vượt lên trên tất cả để vui với niềm vui của người lao động, để hướng về phía ánh sáng, tương
lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Nghệ thuật cả bài thơ:


Với hệ thống từ ngữ cô đọng, hàm súc, thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn…bài thơ bộc lộ vẻ đẹp
tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.


Ý nghĩa văn bản:


</div>

<!--links-->

×