Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ KẾT QUẢ TIÊU THỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.77 KB, 21 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC KẾ
TOÁN QUẢN TRỊ QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ KẾT
QUẢ TIÊU THỤ
A/ TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
I/ Khái niệm và sự cần thiết của kế toán quản trị
1/ Khái niệm
Kế toán quản trị ( KTQT ) là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin
kinh tế - tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế - tài chính trong nội bộ đơn
vị kế toán.
Kế toán quản trị về bản chất là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống kế toán
và không thể thiếu được để kế toán trở thành công cụ quản lý đắc lực. KTQT trực tiếp
cung cấp thông tin cho các nhà quản lý bên trong tổ chức doanh nghiệp - người có trách
nhiệm điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của tổ chức đó.
KTQT không chỉ thu nhận, xử lý thông tin về các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, đã
ghi chép trong sổ kế toán mà đặt trọng tâm vào việc xử lý và cung cấp thông tin phục vụ
cho việc lập dự toán để đạt được các mục tiêu trong tương lai.
2/ Sự cần thiết của việc áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp
Tất cả các nhà kinh doanh trong cơ chế thị trường đều kỳ vọng mang lại lợi nhuận
tối đa, do vậy họ phải biết mình là ai, hoạt động SX - KD như thế nào, hiệu quả ra sao…?
Hàng loạt câu hỏi đặt ra cho nhà quản lý cần phải giải quyết một cách thoả đáng nhất. Để
thực hiện chức năng quản lý của mình, nhà quản lý cần nhiều thông tin chi tiết hơn nhiều
so với nhưng thông tin được cung cấp bởi kế toán tài chính. Có những thông tin nhà quản
lý cần nhưng đối tượng bên ngoài lại không cần. Ví dụ như: có chấp nhận một đơn đặt
hàng đặc biệt với giá thấp hơn bình thường không? Có nên vay ngân hàng để tài trợ cho
những khoản thiếu hụt trong thu - chi hàng tháng không?...Những thông tin mà nhà quản lý
cần phải phục vụ cho nhu cầu ra quyết định hàng ngày của nhà quản lý. Những thông tin
như thế được cung cấp bởi kế toán quản trị. KTQT là công cụ đắc lực cung cấp những
thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh mà nhà quản lý cần
Một vấn đề nữa hết sức quan trọng làm cho KTQT ngày càng có vị trí và vai trò
quan trọng trong việc tổ chức hệ thống thông tin kinh tế trong doanh nghiệp là khả năng sử
dụng các phương tiện kỹ thuật để thu thập, xử lý, phân tích, tổng hợp và truyền đạt thông


tin. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình này đã làm tăng tốc độ cung
cấp thông tin mà KTQT đảm nhận..
Vì vậy, KTQT ở các doanh nghiệp có ý nghĩa lớn lao để tăng cường khả năng hội
nhập, tạo nên sự an tâm cho các nhà quản trị khi có trong tay một công cụ khoa học hỗ trợ
cho quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp.
3/ Chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu của kế toán quản trị
a/ Chức năng
Nhà quản trị nhìn chung có bốn chức năng là: hoạch định, điều hành, kiểm soát và
ra quyết định. Những chức năng này thường được nhà quản trị thực hiện cùng một lúc.
 Chức năng lập kế hoạch
Trong việc lập kế hoạch, người quản lý vạch ra những việc phải làm để đưa hoạt
động của tổ chức doanh nghiệp hướng về các mục tiêu đã xác định như mục tiêu về lợi
nhuận, về sự tăng trưởng…Trong chức năng này, KTQT cung cấp những thông tin để ra
các quyết định về kế hoạch thông qua việc lượng hoá các mục tiêu của quản lý dưới dạng
các chỉ tiêu về số lượng và giá trị.
 Chức năng điều hành ( thực hiện kế hoạch)
Để việc thực hiện kế hoạch đạt được kết quả cao nhất, nhà quản trị sẽ quyết định
các phương pháp tốt nhất để tổ chức con người với các nguồn tài nguyên-vật lực. KTQT
phải cung cấp thông tin hàng ngày về tình hình hoạt động của tổ chức , về tài sản, chi phí,
thu nhập…cả về mặt hiện vật và giá trị để phục vụ đắc lực cho nhà quản trị điều hành tốt
quá trình hoạt động của tổ chức.
 Chức năng Kiểm soát
Để thực hiện chức năng này, nhà quản trị phải dùng các phương pháp quản lý cần
thiết để đảm bảo cho từng bộ phận của tổ chức đều đi theo kế hoạch đã được vạch ra. Để
cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra của nhà quản lý, KTQT sẽ thiết kế các báo cáo có
dạng so sánh được, so sánh giữa thực tế với kế hoạch đã được lập, qua đó phát hiện những
khâu, những chỗ chưa đạt được của quá trình thực hiện các kế hoạch cũng như những chỉ
tiêu chưa hợp lý trong kế hoạch đã lập, từ đó có những điều chỉnh thích hợp trong kế hoạch
và trong quá trình thực hiện kế hoạch.
 Chức năng ra quyết định

Ra quyết định tự bản thân nó không phải là một chức năng riêng biệt. Thực ra nó là
một bộ phận không thể tách rời của các chức năng mà chúng ta vừa nghiên cứu ở trên. Khi
nhà quản trị ra một quyết định về kế hoạch, về điều hành hay về kiểm tra thì cũng có nghĩa
là anh ta đã thực hiện chức năng ra quyết định hay nói cách khác thì thông qua chức năng
ra quyết định nhà quản trị thực hiện các chức năng còn lại của mình.
b/ Nhiệm vụ
KTQT được hiểu là công cụ chuyên ngành của kế toán nhằm thực hiện quả trình
nhận diện đo lường và truyền đạt thông tin hữu ích phục vụ cho việc quản lý và điều hành
hoạt động SX – KD của doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm cụ thể tổ chức quản lý, trình độ,
yêu cầu quản lý cụ thể và đặc điểm SX – KD của từng loai hình doanh nghiệp và từng
doanh nghiệp cụ thể để xác định rõ các chỉ tiêu cơ bản, chuẩn mực trong quản trị cần tuân
thủ để phối hợp hài hoà giữa hai hệ thống kế toán ( Kế toán tài chính và Kế toán quản trị).
Tuy nhiên về lý luận cũng như trong thực tế, KTQT cần phải thực hiện các công việc sau:
Thu thập, xủ lý thông tin, số liệu kế toán theo phạm vi, nội dung kế toán quản trị
của đơn vị xác định theo từng thời kỳ. Muốn vậy kế toán phải sử dụng hệ thống các chứng
từ và sổ sách để ghi chép một cách có hệ thống hoạt động kinh doanh hàng ngày.
 Kiểm tra giám sát các định mức, tiêu chuẩn, dự toán.
Cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị nội bộ của đơn vị bằng báo cáo kế toán
quản trị.
 Tổ chức phân tích thông tin phục vụ cho yêu cầu lập kế hoạch và ra quyết định
của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
c/Mục tiêu
Thông qua các nhiệm vụ của mình, KTQT cố gắng đạt được các mục tiêu sau:
 Biết được các thành phần chi phí, tính toán, tổng hợp chi phí sản xuất, giá thành
cho từng loại sản phẩm, từng loại công trình dịch vụ.
 Xây dựng các khoản dự toán ngân sách, cho các mục tiêu hoạt động.
 Kiểm soát quá trình thực hiện và giải trình các nguyên nhân chênh lệch chi phí
giữa dự toán và thực tế.
 Cung cấp các thông tin cần thiết để có các quyết định kinh doanh hợp lý.
II/ Phân loại chi phí trong kế toán quản trị

1/ Khái niệm
Chi phí được hiểu là toàn bộ những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong một thời kỳ nhất định và được biểu hiện bằng tiền.
Theo chế độ kế toán ( chuẩn mực kế toán 01- Chuẩn mực chung ) thì chi phí là tổng
giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền
chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ
sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho các cổ đông hoặc chủ sở hữu.
2/ Phân loại chi phí
Trong kế toán quản trị, chi phí dược tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau phục vụ
cho nhu cầu quản trị chi phí trong doanh nghiệp. Vì vậy, phân loại chi phí là công việc hết
sức cần thiết.
2.1/ Phân loại theo chức năng hoạt động
Mục đích của việc phân loại chi phí theo chức năng hoạt động trong KTQT là nhằm
xác định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động SX – KD ở
doanh nghiệp, đồng thời là căn cứ dể tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm cũng như
cung cấp thông tin một cách có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính.
Theo chức năng hoạt động, chi phí được phân thành chi phí sản xuất và chi phí
ngoài sản xuất.
a/ Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ những chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm
trong một kỳ nhất định. Chi phí sản xuất gồm ba khoản mục:
 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
 Chi phí nhân công trực tiếp
 Chi phí sản xuất chung
Như vậy, chi phí sản xuất là toàn bộ những chi phí cần thiết để chế tạo sản phẩm,
những chi phí khác không gắn liền với việc sản xuất sản phẩm thì không được xếp vào chi
phí sản xuất.
b/ Chi phí ngoài sản xuất
Để tổ chức và thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn phải thực hiện
một số chi phí ở khâu ngoài sản xuất, được gọi là chi phí ngoài sản xuất. Chi phí ngoài sản

xuất bao gồm: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng: Bao gồm toàn bộ chi phí cần thiết để đẩy mạnh quá trình tiêu
thụ hàng hoá và để đảm bảo việc đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Bao gồm những
khoản chi phí như chi phí tiếp thị, chi phí khuyến mãi, chi phí đóng gói sản phẩm…
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm những khoản chi phí liên quan với việc
tổ chức hành chính và các hoạt động văn phòng làm việc của doanh nghiệp. Chi phí quản
lý doanh nghiệp gồm những khoản chi phí như lương cán bộ quản lý và nhân viên văn
phòng, chi phí văn phòng…
2.2 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với báo cáo tài chính
a/ Chi phí sản phẩm
Chi phí sản phẩm là những chi phí liên quan trực tiếp đến các đơn vị sản phẩm được
sản xuất bởi một doanh nghiệp công nghiệp hoặc được mua vào bởi một doanh nghiệp
thương mại.
Đối với doanh nghiệp sản xuất chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí: nguyên vật
liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, sản xuất chung và sau đó là chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang và cuối cùng là thành phẩm nhập kho. Đối với doanh nghiệp thương mại thì chi
phí sản phẩm là giá trị hàng mua vào.
Chi phí sản phẩm được trình bày trên bảng cân đối kế toán dưới khoản mục hàng
tồn kho,bao gồm: sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi đi bán.
b/ Chi phí thời kỳ
Chi phí thời kỳ là những chi phí khi nó phát sinh thì làm giảm lợi tức của doanh
nghiệp.
Chi phí thời kỳ được trình bày trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Bao
gồm: Giá vốn hàng xuất bán, Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
c/ Mối quan hệ giữa chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ
Xác định chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ là nhằm mục đích cho việc lập báo cáo
tài chính. Trên bảng cân đối kế toán, chi phí sản phẩm là những khoản mục hàng tồn kho
và khi thành phẩm, hàng hoá được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm này trở thành chi phí thời
kỳ thể hiện ở giá vốn của hàng xuất bán được ghi nhận trong kỳ và được trình bày trên
bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

2.3/ Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Đây là cách phân loại chi phí theo khả năng phản ứng hoặc thay đổi như thế nào của
chi phí khi có những thay đổi xảy ra trong các mức độ hoạt động SX –KD. Mức độ hoạt
động có thể hiểu là số lượng sản phẩm được sản xuất ra, số lượng sản phẩm được tiêu thụ,
số giờ mày hoạt động…Theo đó, chi phí được chia thành chi phí khả biến ( biến phí), chi
phí bất biến ( định phí) và chi phí hỗn hợp.
a/ Biến phí
Đây là những chi phí mà về mặt tổng số sẽ thay đổi tỷ lệ thuận với sự thay đổi mức
độ hoạt động của doanh nghiệp. Nghĩa là, mức dộ hoạt động tăng (hoặc giảm) thì biến phí
cũng tăng (hoặc giảm) theo với cùng một tỷ lệ. Tuy nhiên, biến phí tính trên một đơn vị
sản phẩm là không đổi.
Các biến phí trong doanh nghiệp thường là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
lao động trực tiếp, tiền hoa hồng bán hàng, chi phí vận chuyển…
b/ Định phí
Định phí là những chi phí mà về mặt tổng số được coi là không thay đổi khi mức độ
hoạt động của doanh nghiệp thay đổi trong một giới hạn nhất định. Tuy vậy, định phí tính
trên một đơn vị sản phẩm thì biến đổi tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt dộng. Ví dụ: Khấu hao
tài sản cố định (theo phương pháp đường thẳng), Tiền thuê nhà xưởng và máy móc thiết
bị…
Định phí chỉ được xem là không thay đổi theo mức độ hoạt động khi mức độ hoạt
động nằm trong giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng
quy mô sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà cửa thì định phí sẽ
tăng lên đến một phạm vi hoạt động mới.
Ngày nay, xu hướng trong các doanh nghiệp là tăng dần tỷ trọng của định phí và
giảm dần tỷ trọng của biến phí. Lý do là vì hiện nay các doanh nghiệp đều sử dụng các
máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất, do vậy chi phí lao động ngày càng giảm để thay
chỗ cho các chi phí khấu hao. Tỷ trọng của định phí và biến phí trong mỗi doanh nghiệp
còn phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Ở những doanh nghiệp sản xuất do cần nhiều
máy móc thiết bị, nhà xưởng…nên tỷ trọng của định phí thường lớn hơn những doanh
nghiệp thương mại - loại hình doanh nghiệp chủ yếu là mua và bán hàng hoá nên thường

có định phí thấp.
c/ Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là những chi phí mà bao hàm cả yếu tố biến phí và định phí. Ở một
mức hoạt động này thì chi phí hỗn hợp sẽ biểu hiện đặc điểm của định phí nhưng ở một
mức độ hoạt động khác thì chi phí biểu hiện những đặc điểm của biến phí.
B/ TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ
KẾT QUẢ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ
I/ Tổng quan về tổ chức kế toán quản trị quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ
hàng hoá, dịch vụ
1/ Mục đích tổ chức kế toán quản trị quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ
hàng hoá, dịch vụ
Tiêu thụ là khâu cuối cùng cũng là khâu quan trọng và mấu chốt trong suốt quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ thông qua tiêu thụ, hàng hoá mới thể hiện
được giá trị sử dụng từ đó doanh nghiệp mới có thể thu hồi được vốn và có lãi. Mặt khác,
nhu cầu của xã hội ngày càng phong phú và đa dạng hơn, trong bối cảnh nền kinh tế phát
triển không ngừng, không một doanh nghiệp nào sản xuất một loại sản phẩm đơn điệu mà
cần sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ khác nhau thì mới có thể
thiên biến vạn hoá trong nền kinh tế năng động hiện nay.
Vấn đề đặt ra cho các nhà doanh nghiệp là kinh doanh loại sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ nào, kinh doanh như thế nào và cho ai?
Người tiêu dùng bỏ tiền ra để mua những hàng hoá mà họ thích với số lượng mà họ
cần và giá cả mà họ chấp nhận chứ không phải mua những gì mà doanh nghiệp bán. Điều
này đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét đến nhu cầu của xã hội dể sản xuất loại sản phẩm
nào, số lượng bao hiêu, giá cả như thế nào để đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp
khác. Hơn nữa, trong cuộc cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp phải sử dụng các kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến để giảm hao phí lao động cá biệt, tăng thị phần tiêu thụ, tăng
khối lượng hàng bán ra nhằm tăng doanh thu bán hàng.
Để giúp nhà quản trị có những quyết định sáng suốt nhằm đạt được các mục tiêu đề
ra, KTQT bằng những phương pháp kỹ thuật riêng có của mình sẽ cung cấp cho nhà quản
lý những thông tin hữu ích nhất.

2/ Nội dung khái quát của tổ chức kế toán quản trị quá trình tiêu thụ và kết
quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ
Như đã trình bày, KTQT phục vụ cho yêu cầu của nhà quản lý, mà mục đích yêu
cầu của mỗi doanh nghiệp cũng như đặc điểm tổ chức kinh doanh là khác nhau. Tuy nhiên,
để có đầy đủ thông tin về tình hình và kết quả tiêu thụ, tạo điều kiện cho nhà quản trị ra các
quyết định tối ưu, KTQT quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ cần thực hiện tốt các công
việc cơ bản sau:
Xây dựng kế hoạch, dự toán bán hàng và kế hoạch lợi nhuận theo từng mặt hàng
chủ yếu, theo từng địa điểm kinh doanh hoặc theo từng chỉ tiêu phù hợp với yêu cầu quản
lý của doanh nghiệp.
Tổ chức kế toán quản trị bán hàng và lợi nhuận theo từng chỉ tiêu kế hoạch, dự
toán đã xây dựng nhằm cung cấp thông tin một cách chi tiết, cụ thể, kịp thời cho nhà điều
hành.
 Tổ chức phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoach trên cơ sở nguồn số liệu
thực tế đã thu nhận được và kế hoạch dự toán đã đề ra.
 Đề xuất các kiến nghị giúp lãnh đạo doanh nghiệp có các quyết định phù hợp
nhằm đẩy mạnh quá trình tiêu thu, tăng lợi nhuận.
II/ Tổ chức hạch toán chi tiết quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ hàng hoá,
dịch vụ
Các nhà quản trị doanh nghiệp luôn luôn cần thông tin một cách chi tiết, cụ thể về
chi phí, doanh thu, và kết quả tiêu thụ của từng hoạt động, từng nhóm sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ dể đáp ứng nhu cầu quản lý vĩ mô cũng như vi mô, nhờ đó để có được những quyết
định đúng đắn, kịp thời trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp. Việc kế toán chi tiết
quá trình tiêu thụ sẽ giúp nhà quản lý lựa chọn cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý, cần mở
rộng những mặt hàng nào và thu hẹp những mặt hàng nào để có hướng đầu tư đúng trong
tương lai. Tuy nhiên, mức độ chi tiết như thế nào phụ thộc vào đặc điểm riêng của từng
doanh nghiệp.
1/ Tổ chức kế toán chi tiết doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính tổng hợp, đa

dạng. Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm, hàng hoá, dịch
vụ khác nhau. Vì vậy, đối với tổ chức kế toán chi tiết doanh thu tiêu thụ ta có thể chi tiết
như sau:
Chi tiết theo từng đơn vị, bộ phận phụ thuộc như: cửa hàng, quầy hàng, xí
nghiệp…
Chi tiết theo từng mặt hàng, nhóm hàng.
Chi tiết doanh thu bán hàng ra ngoài và nội bộ.
Chi tiết theo từng phương thức bán hàng: bán buôn, bán lẻ, bán thu tiền ngay, bán
trả chậm…
Mặt khác, việc hạch toán doanh thu cần phải tôn trọng nguyên tắc chi phí và doanh
thu của hoạt SX – KD thực tế phát sinh phù hợp với niên độ kế toán. Do vậy, doanh thu
nhận trước cũng phải hạch toán riêng.
Ngoài ra, việc chi tiết doanh thu còn phụ thuộc vào trình độ kế toán của đơn vị
nhưng phải được tổ chức chi tiết sao cho thuận tiện đối với việc cung cấp thông tin cũng
như hạch toán kết quả tiêu thụ.
a/ Tổ chức hạch toán ban đầu phục vụ KT chi tiết doanh thu tiêu thụ
Để phục vụ cho kế toán chi tiết doanh thu tiêu thụ, doanh nghiệp vẫn sử dụng các
chứng từ bán hàng trong hệ thống chứng từ do bộ tài chính ban hành. Song để đáp ứng yêu
cầu hạch toán chi tiết doanh thu bán hàng, doanh nghiệp cần có thêm những quy định chi
tiết ngay từ khâu lập chứng từ ban đầu.
Những tiêu thức cần theo dõi chi tiết đã được in sẵn trên chứng từ thì cần ghi đầy
đủ, rõ ràng, chi tiết. Chẳng hạn như tên khách hàng, tên mặt hàng, số lượng, đơn giá…
Những chi tiết cần theo dõi chi tiết nhưng chưa in sẵn trên chứng từ thì cần quy
định thêm một số chỉ tiêu bổ sung trên những chứng từ đó để phục vụ cho việc ghi sổ sau
này đồng thời đáp ứng yêu cầu của kế toán chi tiết.
b/ Tổ chức hệ thống sổ chi tiết doanh thu bán hàng
Từ đặc điểm của doanh nghiệp, sổ kế toán chi tiết doanh thu được mở theo các đối
tượng hoặc theo từng ngành hàng, mặt hàng kinh doanh sao cho đáp ứng được yêu cầu
quản lý, phù hợp với trình độ của nhân viên kế toán và hình thức kế toán mà doanh nghiệp
áp dụng. Kế toán có thể mở sổ chi tiết doanh thu bán hàng kết hợp với việc xác định kết

quả tiêu thụ trên cùng một sổ chi tiết. Mỗi sổ chi tiết doanh thu chỉ theo dõi cho một loại
hàng ( nhóm hàng ).
Hàng ngày căn cứ vào chứng từ gốc phát sinh gồm: Hoá đơn GTGT, hoá đơn bán
hàng, báo cáo bán hàng của các nhân viên bán hàng và các chứng từ khác để ghi vào sổ kế
toán chi tiết doanh thu tiêu thụ.
Tuỳ từng doanh nghiệp và yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp có thể báo cáo
doanh thu tiêu thụ riêng hoặc không lập báo cáo doanh thu mà lập báo cáo chi tiết kết quả
tiêu thụ bởi trong báo cáo này có phản ánh doanh thu bán hàng nhằm thuận tiện cho việc
theo dõi doanh thu và kết quả tiêu thụ một cách chi tiết.

×