Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Bài giảng Bảo hiểm - Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 24 trang )

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

BÀI 1

TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM

Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
 Học đúng lịch trình của mơn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
 Đọc tài liệu:
1. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2012, Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2009, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm,
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
3. C. Arthur Williams, JR. Richard. M. Heins, 1989, Risk Management and
Insurance, McGrawn-Hill International Editions, Singapore.
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
 Tham khảo các thông tin từ trang Web mơn học.
Nội dung
Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập mơn, trình
bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trị của bảo hiểm,
hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận dụng vào việc
quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội dung bài 1 tập
trung vào các vấn đề sau:
 Rủi ro và quản trị rủi ro;
 Khái niệm và bản chất của bảo hiểm;
 Các loại bảo hiểm;
 Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.
Mục tiêu


Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:
 Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro;
 Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro;
 Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm;



Phân biệt được các loại bảo hiểm;
Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

1


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Tình huống dẫn nhập
Con tàu huyền thoại Titanic
Tàu Titanic, con tàu nổi tiếng nhất trong lịch sử, rời cảng
Southampton, Anh Quốc, hướng về New York, Hoa Kỳ ngày
10/04/1912. Ngày 11/04, Sau khi đón khách ở Cherbourg, Pháp
và ở Queenstown (nay gọi là Cobh), Ai Len, tàu Titanic hướng
về Đại Tây Dương. Ngày 14/4, khoảng 11h40 tối, tàu Titanic
va vào một tảng băng trôi. Ngày 15/04, lúc 2h20 sáng,
tàu Titanic chìm. Trên tàu có 16 thuyền cứu đắm và 4 thuyền
gập lại được với sức chứa tối đa khoảng 1.170 người. Nhưng có khoảng 2.200 hành khách và
những người làm việc trên tàu. Trong vụ đắm tàu Titanic chỉ có 705 người được cứu, khoảng
1.500 người thiệt mạng. Toàn bộ con tàu Titanic chìm xuống đáy đại dương.
/>

Tàu Titanic có được bảo hiểm bồi thường không?

2

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

1.1.

Rủi ro và quản trị rủi ro

1.1.1.

Khái niệm và phân loại rủi ro

1.1.1.1.

Khái niệm rủi ro

Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, chúng ta
ln có thể gặp các sự kiện nằm ngồi dự kiến. Có
những sự kiện ngồi dự kiến mang lại những tốt đẹp,
thuận lợi cho cuộc sống con người. Nhưng cũng có thể
là những biến cố khơng mong muốn với các thiệt hại
có thể là rất lớn. Các biến cố không mong đợi này
được gọi là rủi ro. Nhiều ý kiến cho rằng, rủi ro là sự
cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay cịn gọi là

tính bất định của một biến cố nào đó. Nghĩa là rủi ro có khả năng xảy ra hay khơng
xảy ra, và rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian và không gian nào với quy mô thiệt
hại lớn hay nhỏ mà ta không xác định trước được.
Để làm rõ khái niệm rủi ro, cần phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.
 Rủi ro (risk): là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một vụ cháy
thiêu trụi kho hàng của một doanh nghiệp kinh doanh hóa chất, gây thiệt hại về tài
chính cho chủ doanh nghiệp.
 Hiểm họa (peril): là nguyên nhân chính gây tổn thất. Trong ví dụ trên, “cháy” là
hiểm họa.
 Nguy cơ (hazard): là một hay nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất. Nguy cơ
không phải là nguyên nhân gây ra tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm khả
năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “kho hàng chứa hóa chất” là một nguy cơ
vì khả năng xảy ra cháy của hóa chất cao hơn nhiều mặt hàng khác. Có 2 loại nguy
cơ là nguy cơ vật chất và nguy cơ đạo đức. Trong vụ cháy kho hóa chất nói trên,
nguy cơ vật chất là loại hàng hóa chứa trong kho hoặc kết cấu ngôi nhà, nguy cơ
đạo đức là ý thức trách nhiệm của thủ kho và các biện pháp phòng cháy chữa cháy
của doanh nghiệp.
1.1.1.2.

Phân loại rủi ro

Rủi ro được phân thành nhiều loại tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau.
 Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro
đầu cơ (rủi ro suy đoán).
o Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến việc có bị tổn thất hay khơng. Ví dụ kho
hàng bị cháy, thiệt hại về hàng hóa là 10 tỷ đồng. Nếu không bị cháy, doanh
nghiệp sẽ không bị thiệt hại 10 tỷ đồng.
o Rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đốn) liên quan đến 3 kết quả có thể xảy ra: tổn thất,
có lãi hoặc khơng thay đổi. Ví dụ: mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ, người mua cổ
phiếu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ do giá cổ phiếu tăng hoặc giảm, và cũng có

thể khơng được cũng như khơng mất gì do giá cổ phiếu đó khơng thay đổi.
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

3


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

 Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
o Rủi ro tài chính là rủi ro có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được
thành tiền.
o Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không xác định bằng tiền mà liên quan
đến tâm sinh lý con người.
Ví dụ bị tai nạn giao thơng làm tinh thần hoảng hốt, cảm giác bất an là rủi ro phi
tài chính. Chi phí y tế phải trả là rủi ro tài chính.
 Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
o Rủi ro cơ bản là những rủi ro có ngun nhân nằm ngồi tầm kiểm soát của
con người và gây ảnh hưởng đến nhiều người. Nguyên nhân dẫn đến các rủi ro
cơ bản thường do thiên nhiên, như bão lụt, động đất, hạn hán… Hoặc do các
biến động trong môi trường kinh tế – chính trị – xã hội như thất nghiệp.
o Rủi ro riêng biệt có ngun nhân và hậu quả mang tính cá biệt, xảy ra với một
hoặc một số ít người. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động là những ví dụ điển
hình về rủi ro riêng biệt.
1.1.2.

Quản trị rủi ro

Trong mọi hoạt động, con người ln có nguy cơ gặp
phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão
lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật tai nạn… Mỗi khi gặp

phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường
làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ
của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội lồi người
xuất hiện thì nhu cầu an tồn đối với con người cũng
xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu.
Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản
thân và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất.
Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn
luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ dể được yên ổn, an toàn. Và chẳng
bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức. Các nhà khảo cổ
học đã tìm thấy những vết tích chứng minh sự tồn tại của các tổ chức cứu hộ tương hỗ
đối với các thợ tạc đá Ai Cập cổ đại từ 4.500 năm trước công nguyên. Hay người BaBi-Lon đã đưa ra những quy tắc trong việc tổ chức các phương tiện vận tải bằng xe
kéo và đặc biệt đã quy định phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các
thương gia cùng gánh chịu. Thời La Mã cổ đại đã có những hội đồn kết tương trợ của
các tập đồn lính có cùng nhu cầu, bằng cách người ta đã dùng quy chế của toàn tang
lễ Lanuvium tổ chức tang lễ cho tất cả các thành viên đã có tiền đóng góp cho hội từ
khi họ cịn sống. Đến thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình
thành và phát triển với bằng chứng là người ta đã tìm thấy các bản hợp đồng bảo hiểm
cổ xưa nhất ở các cảng biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương…
Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con
người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ
phát triển, một mặt đã làm tăng năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc

4

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm


sống của con người, nhưng mặt khác, nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày
càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con
người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phịng vệ. Từ góc độ quản trị rủi ro,
theo mục đích và các biện pháp xử lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở
hai nhóm biện pháp là kiểm sốt rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.1.2.1.

Kiểm sốt rủi ro

Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa
tổn thất, giảm thiểu rủi ro.
 Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi
cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh
rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né
tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn
lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn… Tuy vậy, trong
cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay, biện pháp này rất khó thực
hiện và thậm chí là khơng thể thực hiện được.
 Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ
động bằng cách thực hiện các hành vi và hành động
cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm
mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm
bớt tai nạn lao động, các khố học cho người lao
động về an tồn, vệ sinh lao động được tổ chức.
Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực
hiện tốt cơng tác phịng cháy chữa cháy…
 Giảm thiểu tổn thất: Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các
biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn
thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, để giảm thiểu các
thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và

điều trị…
Các biện pháp kiểm soát rủi ro nhìn chung đều mang tính chủ động và có tác dụng trong
việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất nhưng vẫn không ngăn được rủi ro xảy ra
cũng như ngăn cản xảy ra thiệt hại. Hơn nữa, chi phí thực hiện các biện pháp kiểm sốt
rủi ro có thể là rất lớn và nằm ngoài khả năng tài chính của các doanh nghiệp.
1.1.2.2.

Tài trợ rủi ro

Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.
 Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp
phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự
lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi
gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, để khắc phục hậu quả cho người ta có thể đi
vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả.
 Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều
người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

5


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một
hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.
Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất
cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con
người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua

bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm
không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó cịn là sự giảm thiểu
rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp
giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế – xã hội với các tổ chức bảo hiểm.
Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh rằng, bảo hiểm ra đời là một đòi hỏi khách
quan của cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt động bảo
hiểm cũng ngày càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, tổ chức
và mỗi quốc gia.
1.2.

Khái quát về bảo hiểm

1.2.1.

Bản chất của bảo hiểm

1.2.1.1.

Khái niệm bảo hiểm

Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa
có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người
ta đã đưa ra khái niệm về bảo hiểm ở nhiều góc độ
khác nhau.
 Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “Bảo
hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân
phối lại những chi phí mất mát khơng mong đợi”.
 Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một nghiệp
vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo
hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để

trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên
khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền
bù những thiệt hại theo Luật Thống kê”.
 Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm thương mại
trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một
người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo
hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm
vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm”...
Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo hiểm trên các
khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo hiểm và người bảo
hiểm thơng qua phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo
hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh đó, khái niệm về bảo
hiểm có thể được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thơng
qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả
6

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo
hiểm cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một
tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù
trừ chúng theo quy luật thống kê”.
Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao qt được phạm
vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm (BHTM, BHXH, BHTN và BHYT).
1.2.1.2.


Bản chất của bảo hiểm

Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những
người tham gia, và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội
giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi
rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, phân phối trong
bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, và phần lớn khơng mang tính bồi hồn trực
tiếp (loại trừ một số loại hình bảo hiểm, như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tiền hưu trí).
Ngồi ra, bản chất của bảo hiểm cịn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:
 Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Có nhiều cách tiếp cận
khái niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại
và khơng mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người ln phải tìm cách phịng vệ.
Trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro cịn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm,
như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người
được bảo hiểm còn sống đến một thời điểm xác định trên hợp đồng BHNT…
 Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực
hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm
thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này,
bên tham gia phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo
hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm
khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm
gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên, rủi
ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thoả thuận.
 Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước
khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả
cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo
hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. Khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm thường
được pháp luật quy định trong loại hình BHTM.
 Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính tốn và

quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo
hiểm mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
 Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ khơng phải là hoạt động sản xuất.
Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hố rất cụ thể và vai trị quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi
quốc gia.

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

7


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

1.2.2.

Các loại hình bảo hiểm

Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM);
Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội và mơ hình tổ chức ngành bảo hiểm mà mỗi nước
có thể triển khai tất cả hoặc chỉ triển khai một số loại hình trong số 4 loại hình bảo
hiểm nói trên.
1.2.2.1.

Bảo hiểm xã hội

BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trị hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến
người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt động BHXH không nhằm mục đích
kiếm lời và chịu sự chi phối chủ yếu của Luật BHXH cũng như định hướng chính sách

kinh tế – xã hội của từng quốc gia. BHXH có tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo,
nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống ASXH của mỗi nước.
BHXH ra đời từ giữa thế kỷ 19. Năm 1850 một số bang của nước Phổ (Cộng hoà liên
bang Đức ngày nay) lần đầu tiên đã thành lập quỹ trợ giúp nỗi đau. Năm 1883, họ lại
tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm TNLĐ, sau đó là đạo luật về hưu trí. Người
khởi xướng đạo luật này là Tể tướng Bismark, với cơ chế 3 bên (nhà nước – giới chủ –
giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo vệ cho người lao động trong các trường hợp gặp
rủi ro. Ở Pháp, ý tưởng về bảo hiểm TNLĐ cho công nhân ngành đường sắt đã được
Klaves taing đề xuất năm 1850 nhưng đã bị giới thượng lưu từ chối, bác bỏ. Đầu năm
1860, ông buộc phải chuyển sang Bỉ để thành lập một cơng ty của mình là
Dveservatrice. Nửa đầu thế kỷ 20, BHXH phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước
Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ. Tại Mỹ, năm 1935 đã ban hành đạo luật về ASXH với nội
dung đều tương tự như các chế độ BHXH ngày nay. Sau chiến tranh thế giới thứ 2,
Liên Hợp quốc được thành lập (1945) và một loạt các công ước, các khuyến nghị về
BHXH đã được khuyến cáo. Ngày 04 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) thuộc Liên Hợp quốc đã ký công ước Giơ ne vơ (Công ước số 102) về “BHXH
cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động
tuỳ theo khả năng và điều kiện kinh tế – xã hội của mình. Từ đó, hầu hết các nước trên
thế giới tham gia cơng ước đã vận dụng và ban hành chính sách BHXH cho người lao
động và BHXH đã không ngừng phát triển cho đến ngày nay.
1.2.2.2.

Bảo hiểm y tế

BHYT có thể được triển khai độc lập với các loại hình
bảo hiểm khác và cũng có thể chỉ là một chế độ trong
hệ thống các chế độ BHXH. Về cơ bản, loại hình bảo
hiểm này mang đầy đủ tính chất của BHXH. Xã hội
càng phát triển và văn minh thì BHYT cũng ngày càng
phát triển, bởi nhu cầu được bảo vệ, được chăm sóc

sức khoẻ, được khám chữa bệnh một cách bình đẳng là
những nhu cầu chính đáng và có tính xã hội rất cao – đối với mọi tầng lớp dân cư.
BHYT ra đời vào cuối thế kỷ 19 ở Cộng hoà liên bang Đức và một số nước Châu Âu.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển (1883 – 1914), BHYT chỉ được tổ chức mang

8

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

tính đơn lẻ nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi người lao động và gia đình họ gặp những rủi ro
về sức khoẻ. Sau đó, BHYT đã được một số nước Châu Âu ban hành những đạo luật
riêng. Năm 1941, BHYT đã được luật hoá tương đối chặt chẽ ở CHLB Đức và sau đó
phát triển sang các nước Bắc Mỹ, Châu Á và vùng Caribê. Từ khi có cơng ước 102 về
BHXH đến nay, có một số nước triển khai BHYT độc lập và cũng có khá nhiều nước
coi BHYT chỉ là chế độ chăm sóc y tế ban đầu nằm trong hệ thống các chế độ BHXH.
1.2.2.3.

Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN cũng có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có
thể triển khai kết hợp với BHXH. Khi triển khai kết hợp, nó chỉ là một chế độ trong hệ
thống các chế độ BHXH. Vì thế, mục đích, đối tượng và tính chất của BHTN cũng
tương tự như BHXH. Có thể nói, Châu Âu là cái nơi của tất cả các loại hình bảo hiểm,
trong đó có cả BHTN. BHTN ra đời năm 1883 tại Thuỵ Sỹ và xuất phát nghề thuỷ
tinh và gốm sứ. Năm 1990 và 1910 Na Uy và Đan Mạch lần đầu tiên ban hành các đạo
luật về BHTN, tiếp đến là Anh, Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2,
BHTN cũng được một số nước triển khai độc lập và khá nhiều nước coi BHTN chỉ là

một chế độ BHXH thuần tuý. Mặc dù vậy, nội dung, tính chất và cách thức quản lý
đều tương tự nhau. Theo số liệu của ILO năm 2005, trên thế giới có 72 nước triển khai
BHTN và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
Các nội dung chi tiết về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp sẽ
được trình bày chi tiết trong bài 2.
1.2.2.4.

Bảo hiểm thương mại

a. Khái niệm bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại (BHTM) còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh
doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý các rủi
ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động này có từ
rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thủa con người biết săn bắn tìm kiếm
thức ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phịng khi khơng kiếm được hay khi có chiến tranh…
Khi xã hội phát triển hơn, nhu cầu được bảo đảm an toàn cũng lớn hơn. Với những
tác dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn cộng đồng,
hoạt động BHTM càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được trong cuộc
sống của con người.
BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục
tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh
BHTM chịu sự chi phối chủ yếu của Luật Kinh
doanh Bảo hiểm, các điều ước và tập quán quốc tế.
Phạm vi hoạt động kinh doanh BHTM rất rộng do
đối tượng của nó chi phối. BHTM là loại hình bảo
hiểm chủ yếu và rất phát triển. Đã từ lâu, BHTM không chỉ xâm nhập vào các hoạt
động kinh tế – xã hội ở phạm vi một nước mà nó cịn phát triển và mở rộng ra
phạm vi thế giới thông qua hoạt động tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm…
Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thoả thuận,

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

9


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

qua đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản
tiền gọi là phí bảo hiểm; Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi
trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn
thất”. Nhìn nhận bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn
của Mỹ cho rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh
nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, cơng ty
đó sẽ chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo
hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG).
Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất
của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quĩ chung bằng
tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi ro đó
thơng qua hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như
vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên
không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia
bảo hiểm. BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ
kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp
bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định
đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm thương mại
Sự ra đời và quá trình phát triển của BHTM được thể hiện ở những loại hình bảo
hiểm chủ yếu dưới đây:
 Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm mà chúng ta biết tới hôm nay bắt đầu từ loại hình
bảo hiểm hàng hải. Tại Genor và Venice tỉnh Lombardy nước Italia người ta đã

tìm thấy bản HĐBH đầu tiên ký kết giữa các thương gia, các chủ tàu với các nhà
bảo hiểm vào ngày 23/10/1347. Đến năm 1385, người ta lại tìm thấy một bản
HĐBH nhằm bảo hiểm cho những tổn thất của hàng hoá và tàu thuyền do các
nguyên nhân bất khả kháng, tai nạn trên biển, hoả hoạn, hàng hoá bị vứt bỏ xuống
biển, bị chính quyền hoặc các cá nhân tịch thu, bị trả đũa hay do gặp phải bất kỳ
rủi ro nào (CLayton, Bảo hiểm Anh 1971). Tại nước Anh, HĐBH đầu tiên được
tìm thấy và cịn lưu giữ đến ngày nay được ký kết năm 1547. Đây cũng là một
HĐBH hàng hải.
 Bảo hiểm nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm rất thông dụng và phát triển khá
nhanh trên thế giới. Hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết tại nước Anh vào năm
1583. Các công ty BHNT cũng xuất hiện lần đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 17.
Ngày nay BHNT đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới.
 Bảo hiểm hoả hoạn. Các nhà bảo hiểm trên thế
giới đều cho rằng, BHHH xuất hiện lần đầu tại
Hamburg (CHLB Đức). Tuy nhiên, điều làm cho
BHHH phát triển nhanh chóng cho đến ngày nay là
vụ cháy lớn tại Luôn Đôn năm 1666. Sau vụ cháy
này các thương gia, các tổ chức bắt đầu quan tâm
đến rủi ro bảo hiểm. Vào năm 1670, ông Barbon người Anh đã thành lập công ty
BHHH đầu tiên trên thế giới. Công ty chỉ bảo hiểm cho các căn nhà xây bằng
gạch. Tại Mỹ, Công ty BHHH đầu tiên ra đời năm 1732. Công ty này bảo hiểm
10

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

cho cả nhà cửa và bất động sản trong dân chúng. Với cái tên lúc đầu chỉ là “Tổ
chức thân thiện”. Năm 1752 Benjamin Franklin thành lập Công ty BHHH với cái

tên “Đóng góp bảo hiểm cho nhà cửa do hoả hoạn Philadephia”.
 Bảo hiểm tai nạn. Loại hình này chính thức ra đời vào đầu thế kỷ 19. Năm 1848
tờ thời báo nước Anh đưa tin rằng, hầu như ngày nào cũng xảy ra tai nạn đường
sắt. Những tai nạn này thường dẫn đến thương tật hoặc tử vong. Năm 1849 công ty
bảo hiểm hành khách đường sắt đã được thành lập tại Anh quốc để bảo hiểm cho
mọi hành khách đi trên tàu hoả.
 Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay, cịn có rất nhiều loại hình BHTM khác đã
ra đời, như: bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng khơng, bảo
hiểm dầu khí, bảo hiểm vệ tinh… Và cũng từ cuối thế kỷ 19 đến nay, BHTM đã
thực sự trở thành một ngành kinh doanh phát triển và không thể thiếu được đối với
mỗi quốc gia.
c. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm thương mại
Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu an
toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi
vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau.
 Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít
o Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi
có khả năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường
cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi
thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các
doanh nghiệp bảo hiểm nhận được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM
phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không
thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào, theo đó hậu quả của rủi
ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy
động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.
o Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho
các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn.
Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quĩ bảo hiểm

tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ
cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được
triền khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm đó.
 Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
o Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ
chức có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp
bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm
nào đồng ý thoả thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý
của người được bảo hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp
nhận bảo đảm cho những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ơtơ ở trong tình
trạng khơng an tồn về kỹ thuật hay không được phép lưu hành.
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

11


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
o

Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn
hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự
nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thơng, cố
ý tự tử… Nói cách khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro
bất ngờ, không lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì
yếu tố ngẫu nhiên được xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó,
nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách
quan, khơng cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro là một yếu tố khác giúp doanh
nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay khơng. Trên cơ
sở tính đồng nhất của rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính tốn được phí

bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp toán học.

o

Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm ln có các rủi ro loại trừ tuỳ
thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo
hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu
cần thiết) và áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra
lớn hơn thì mức phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ
(BHNT), những người khơng ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do
đó phải đóng mức phí khác nhau. Chính vì vậy, một u cầu đặt ra đối với người
tham gia bảo hiểm là phải trung thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh
nghiệp bảo hiểm có thể xác định chính xác rằng rủi ro đó có thể chấp nhận bảo
hiểm hay khơng, nếu có thì với mức phí như thế nào.
Ngun tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải
bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc
chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp
bảo hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo
hiểm đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi
cho các doanh nghiệp bảo hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm
cũng thấy cơng bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.

o

 Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
o Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ
người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này
sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có
thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo
hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự

đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số
đông và như vậy, với tư cách là người huy động
và quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi
trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm
cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những
trường hợp quĩ bảo hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm
mới thành lập hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có qui mơ nhỏ) trong khi đó giá trị
bảo hiểm (GTBH) lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra
gây tổn thất lớn.
12

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
o

Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi
ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của cơng ty. Tuy nhiên, để tránh được
điều tối kị là phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh
doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai
phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu
trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn
thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm
cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà
bảo hiểm khác.

 Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
o Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu
để soạn thảo một HĐBH đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện

giao dịch kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm).
o

o

Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải
có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo
đảm cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản
phẩm dịch vụ nên khi mua, người tham gia bảo hiểm khơng thể cầm nắm nó
trong tay như các sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả…
mà chỉ có thể có được một hợp đồng hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo
hiểm có bảo đảm hay khơng, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay khơng, quyền
lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ, cơng bằng hay không… đều
chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía doanh nghiệp bảo hiểm.
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo
hiểm là phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp
doanh nghiệp bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận.
Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai
báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa
ngày tháng của HĐBH…) sẽ được xử lý theo pháp luật.

 Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
o Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo
hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối
tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác,
người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ
với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật
cơng nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được

bảo hiểm. Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản
được bảo hiểm thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn đề sẽ phức tạp hơn. Trong
trường hợp này, cả chủ sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm.
Chẳng hạn, chủ xưởng sửa chữa ôtô có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm
cho chiếc xe ôtô mà anh ta đang đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu.
Đồng thời chủ xe ơtơ cũng có thể tham gia bảo hiểm cho chiếc xe này.

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

13


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
o

Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo
hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu
lợi từ một đơn bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm
các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như nguyên tắc bồi
thường, nguyên tắc khoán…

d. Phân loại bảo hiểm thương mại
Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều sản
phẩm bảo hiểm khác nhau. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các sản phẩm bảo
hiểm được phân loại thành từng nhóm có cùng đặc trưng. Việc phân loại như vậy
trước hết sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo
hiểm khác nhau. Mặt khác, phân loại bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm
quản lý tốt nghiệp vụ, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Phân loại BHTM thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu sau:

 Theo phương thức quản lý: BHTM có thể phân loại
thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự
nguyện. Việc tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc vào
nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm có đáp ứng được hay
khơng cũng tuỳ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của cơng
ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật
pháp có những qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu
mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ
phải thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất
không chỉ ảnh hưởng đến một đối tượng hay một chủ thể mà cịn ảnh hưởng đến
lợi ích của tồn xã hội. Ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) chủ xe
cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người lao động…
 Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân
loại BHTM thành bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn
tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là
một năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi
thọ con người. Khi có rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì
quĩ bảo hiểm được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các
bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ
khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia. Kết quả thu – chi của các bảo
hiểm này được phân bổ hết hàng năm.
 Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua
nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo
đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường
gắn liền với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tổn tích.
 Theo đối tượng được bảo hiểm: Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM thành ba
loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con
14


TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

người. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng nếu phân loại một cách
chi tiết hơn, BHTM có thể được phân chia thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi
hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới…
 Sau đây là ba loại bảo hiểm được phân chia theo đối tượng được bảo hiểm: bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người.
o

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng là tài sản của người được bảo hiểm. Ví dụ:
bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá của các chủ hàng
trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà
trong bảo hiểm trộm cắp.
Một số vấn đề liên quan đến BHTS:
 Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh
toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường
(STBT) mà người được bảo hiểm nhận được
trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại
thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe
máy tham gia bảo hiểm cho tồn bộ chiếc xe
của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt
hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào
cũng chỉ là 8 triệu đồng.

 Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp” khi xuất hiện người thứ ba có lỗi
và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo
nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được
thay quyền của người được bảo hiểm để thực hiện việc truy địi trách nhiệm
của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo
quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của
người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.
 Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi
ngược chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách
nhiệm của ông chủ xe ô tô sẽ là: 70%  8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi
bồi thường 8 triệu đồng theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, doanh
nghiệp bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm
5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng. Và người được
bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận STBT vượt quá
thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm bảo.
 Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp.
Đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha
mẹ… của người được bảo hiểm.
 Bảo hiểm trùng: Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được
bảo đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp
bảo hiểm khác nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau,
thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này
lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trùng.

15


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

 Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để

giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của
người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc,
doanh nghiệp bảo hiểm có thể huỷ bỏ HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm
trùng có gian lận. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì
lúc này, trách nhiệm của mỗi cơng ty đối với tổn thất sẽ được phân chia
theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:
STBHcủa HĐ KH A
STBTcủa HĐ KH A = Giá trị thiệt hại thực tế 
 STBH
Trên thực tế, một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho
đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số
thiệt hại thực tế, sau đó sẽ địi lại các doanh nghiệp bảo hiểm khác phần
trách nhiệm của họ.


Chế độ bồi thường bảo hiểm
Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách
nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị
thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả
thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn
thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn
thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ
được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp
miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức
miễn thường không chỉ tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường
những tổn thất q nhỏ so với GTBH mà cịn có ý nghĩa trong việc nâng cao
ý thức và trách nhiệm đề phịng hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm.
Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường

có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi
trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBT
sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải
lớn hơn mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ
bị khấu trừ theo mức miễn thường này.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường
Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ
Có hai loại tỷ lệ được áp dụng: Tỷ lệ Số tiền bảo hiểm/Giá trị bảo hiểm
(STBH/GTBH) và tỷ lệ Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp.
Tỷ lệ STBH/GTBH được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị:
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế 

16

STBH
GTBH

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Cịn trong trường hợp có sự khai báo khơng chính xác rủi ro, bên bảo
hiểm thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/Số phí bảo hiểm lẽ ra
phải nộp” để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế 

Phí bảo hiểm đã nộp

Phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp

Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo
một giới hạn đã thoả thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm
trong giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất
đầu tiên. Còn tổn thất vượt quá giới hạn thoả thuận này có thể sẽ được
bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm Vượt quá. Chế độ bồi thường này
thường được áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp. Người ta lý luận rằng, ít
khi tồn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài sản thường chỉ muốn bảo
hiểm cho phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn thất đầu tiên.
o

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) có đối tượng được bảo hiểm là trách
nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví
dụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, Bảo hiểm trách
nhiệm sản phẩm, Bảo hiểm trách nhiệm công cộng…
Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ
thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp…) được
hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại
về tài sản, về con người… gây ra cho người khác
do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự có
thể là trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách
nhiệm dân sự ngồi hợp đồng. Thơng thường các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp
sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng.
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người
được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong
loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần
được bảo đảm thường chính là người tham gia bảo hiểm. Cịn người thụ hưởng

quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong
BHTNDS là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm
và được quyền nhận bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là người
thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được
bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm.
BHTNDS và BHTS đều được xếp vào loại bảo hiểm thiệt hại, là loại bảo hiểm
bảo đảm cho các thiệt hại phát sinh. Do vậy, BHTNDS cũng áp dụng nguyên
tắc bồi thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm.

o

Bảo hiểm con người
Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính
mạng, tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống
và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người.

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

17


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Nếu như trong bảo hiểm thiệt hại, việc thanh
toán bồi thường bảo hiểm được dựa vào nguyên
tắc bồi thường thì trong BHCN, nguyên tắc chi
phối việc giải quyết thanh tốn tiền bảo hiểm là
“ngun tắc khốn”. Khi có sự kiện được bảo
hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực
hiện chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã

được thoả thuận lựa chọn khi ký kết hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào
thiệt hại thực tế. Việc thanh tốn chi trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang
tính trợ giúp về tài chính cho người được bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con
người phi nhân thọ) hoặc “hồn lại” khoản tiền tích luỹ được của người được
bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra các sự kiện được bảo hiểm. Điều này
đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ của con người là vô giá nên
không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. STBH trong các HĐBH
con người hoàn toàn không phải là sự biểu hiện giá trị của bản thân người được
bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà người tham gia bảo
hiểm “khoán” cho doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Trong các HĐBH con người, do vậy cũng không tồn tại điều khoản giá trị bảo
hiểm. Thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để
thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Số tiền này do các
bên tham gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo khả năng tài chính cũng như nhu cầu
của người tham gia bảo hiểm.
Ở các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật, dịch vụ
BHCN rất phát triển. Khi người dân tham gia các dịch vụ bảo hiểm này, họ
thường lập nên một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác định số tiền
bảo hiểm cần chọn lựa. Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và
các thiết bị điện tử rộng khắp, họ có thể đánh giá chính xác nhu cầu về lượng
tiền trong tương lai. Bao gồm cả việc đánh giá trạng thái biến động của lạm
phát, số con, tình hình tăng trưởng… vì thế STBH trong BHCN, nhất là trong
BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp. Phần lớn STBH khi lựa chọn, đều dựa
vào một số nhu cầu tài chính trong tương lai đã được đánh giá cụ thể. Các nhu
cầu này thường bao gồm:
 Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết;
 Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái;
 Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình bị
chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương
của anh ta;

 Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng;
 Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản…
Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn
STBH để mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu
cầu trong tương lai để hồn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản
hiện có để đáp ứng nhu cầu.

18

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Số tiền bảo hiểm
lựa chọn để mua

=

Tổng giá trị các
nhu cầu trong tương lai



Tổng giá trị
tài sản hiện có

Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau cái
chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa
chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài

chính được lập, cịn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và phương
thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần…). Phần này hoàn toàn phải dựa vào mức
thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc, khả năng
tăng lương… Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn chế, thì
STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là STBH mà
người tham gia bảo hiểm sẽ được cơng ty bảo hiểm thanh tốn ln tỷ lệ thuận với
số phí bảo hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà người bảo
hiểm chi trả thực chất là một số tiền đã được “khốn” tương ứng với một mức phí
phải nộp và phương thức nộp phí. Tất cả đều được thể hiện rõ trong bản hợp đồng.
Khác với các BHTS, trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời
được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm khác nhau. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của
từng hợp đồng độc lập nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH
sinh mạng cá nhân với doanh nghiệp bảo hiểm X có STBH: 10 triệu đồng, và
ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm Y một HĐBH trợ cấp nằm viện phẫu thuật
có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007, trong một vụ tai nạn, anh A bị
thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị tử vong. Trong trường
hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất
bằng tổng STBH từ hai hợp đồng: 10 triệu đồng + 5 triệu đồng = 15 triệu đồng.
Trong BHCN, khơng có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm. Điều đó có
nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép
thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để
khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một
người có thể đồng thời nhận được khoản thanh tốn chi trả của cơng ty bảo hiểm
và những khoản thanh toán bồi thường của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại.
Mặc dù vậy, thực tế hiện nay, phạm vi bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo
hiểm con người phi nhân thọ bảo đảm cho cả các chi phí y tế thực tế phát sinh.
Do vậy, bên cạnh nguyên tắc khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng kết
hợp nguyên tắc bồi thường để giải quyết chi trả cho các khoản thiệt hại chi phí
y tế khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.

1.2.3.

Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm

1.2.3.1.

Vai trò kinh tế

Bảo hiểm nói chung và từng loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh
tế – xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, bảo hiểm có những vai trị rất to lớn sau đây:
 Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư
Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp
phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham
gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN. Cũng
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

19


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

có thể là ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTN. Bởi lẽ, khi rủi ro
hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan
hay DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng
khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất,
làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình
thường. Vai trị này đáp ứng được mục tiêu kinh tế
của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo
hiểm ngày càng đông đảo. Trong các nền kinh tế
hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm bảo cho các

khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome
Yeatman đã viết: “Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên
New York, chính là vì khơng một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đơ la cần
thiết để xây dựng những tồ nhà chọc trời ở Manhattan mà lại khơng có đảm bảo
được bồi thường nếu hoả hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà
bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế bảo hiểm”. Điều này đúng với hầu
hết các loại đầu tư, như: đầu tư xây dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và
sản xuất các loại vệ tinh; đầu tư xây dựng siêu thị… Chủ đầu tư không thể mạo hiểm
ngồi nhìn số tiền đầu tư của mình “tan thành mây khói” một khi khơng có bảo hiểm.
Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đã địi hỏi phải có bảo hiểm. Khơng có sự đảm
bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư, mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không
dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. Bởi vậy, bảo hiểm là một hoạt động kích thích
đầu tư.
 Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát
triển kinh tế – xã hội
Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy
ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải
quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra,
giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường ln
có một khoảng cách. Khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong
BHTN và BHXH. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải
đem đầu tư để thu lãi. Thêm vào đó là các loại hình BHTN và BHXH lại ngày phát
triển nhanh chóng và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng
định thêm vai trị huy động vốn để đầu tư của tồn ngành bảo hiểm là vơ cùng
quan trọng đối với các nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2005, số tiền do các
DNBH thương mại đang quản lý và đầu tư là rất lớn, ở Mỹ là 2.500 tỷ đô la, ở
Anh là 1119 tỷ bảng Anh còn ở Pháp là 630 tỷ Ero… Ở Anh, các DNBH đầu tư
chủ yếu vào cổ phiếu nhờ quỹ hưu trí, cịn ở Mỹ và Pháp danh mục đầu tư đa dạng
hơn và cũng chủ yếu vào quỹ dự phịng từ BHTN và BHXH.
 Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy

phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước
Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ quan,
DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất,
nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân sách
Nhà nước khơng phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi

20

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

gặp rủi ro, (trừ những trường hợp tổn thất mang tính xã hội rộng lớn). Mặt khác,
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực BHTM cịn có trách nhiệm đóng góp vào ngân
sách thơng qua các loại thuế mà các DNBH phải nộp. Và cũng trong hoạt động này,
mối quan hệ quốc tế giữa các DNBH ngày càng được mở rộng thông qua tái bảo
hiểm hoặc đồng bảo hiểm để phân tán rủi ro. Điều đó cho thấy, vai trị ổn định và
tăng thu cho ngân sách, đồng thời phát triển được các mối quan hệ quốc tế của hoạt
động bảo hiểm là rất đáng kể trong điều kiện thế giới ngày nay.
1.2.3.2.

Vai trò xã hội

Bên cạnh vai trò về kinh tế, vai trò xã hội của bảo hiểm cũng không hề thu kém. Điều
này thể hiện ở chỗ:
 Bảo hiểm góp phần ngăn ngừa, đề phịng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc
sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn.
Trong quá trình tham gia bảo hiểm, các cơ quan,
DNBH sẽ cùng với người tham gia bảo hiểm phối

hợp để thực hiện các biện pháp đề phịng hạn chế
tổn thất thơng qua một loạt các hoạt động như:
o Tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phịng
tránh tai nạn, vệ sinh, an tồn lao động;
o Xây dựng thêm các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn
giao thông;
o Tư vấn và hỗ trợ tài chính để xây dựng và thực hiện các phương án phòng
cháy, chữa cháy;
o Tiêm chủng và chăm sóc y tế cộng đồng…
Tất cả những hoạt động nói trên của bảo hiểm đều nhằm mục đích góp phần ổn
định cuộc sống, sản xuất và từ đó góp phần đảm bảo ASXH.
 Các loại hình bảo hiểm phát triển đã tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động, đồng thời còn tạo nên một nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội
Tiết kiệm trong bảo hiểm thường là tiết kiệm một cách có kế hoạch từ nội bộ mỗi gia
đình, mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Với những khoản tiền rất nhỏ, các cá nhân, các hộ
gia đình vẫn có thể tiết kiệm được thơng qua loại hình BHTN. Hay trong BHXH, thì
tiết kiệm hơm nay là để bảo đảm cuộc sống cho ngày mai khi người lao động về
hưu… Có thể nói, vai trị xã hội của bảo hiểm ở đây đã góp phần làm giảm tình trạng
thất nghiệp cho người lao động và tạo dựng một nếp sống đẹp trên phạm vi xã hội.
 Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế – xã hội
Thật vậy, chỉ với một mức phí bảo hiểm rất khiêm tốn mà các cơ quan, các DNBH
thu được, họ vẫn có thể giúp đỡ cho các cá nhân, các gia đình, các cơ quan doanh
nghiệp khắc phục được hậu quả rủi ro, cho dù đó là những rủi ro khơn lường trong
cuộc sống và sản xuất. Đó cũng chính là chỗ dựa để họ yên tâm hơn, tin tưởng hơn
vào cuộc sống tương lai. Chính vì thế, ơng Wisston Clurcholl – một chính khách
đã nói: “Nếu có thể, tơi sẽ viết từ “bảo hiểm” trong mỗi nhà và trên trán mỗi
người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn, bảo hiểm có thể
giải phóng các gia đình ra khỏi thảm họa không lường trước được”.

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


21


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Tóm lược cuối bài
 Rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản. Rủi ro có đặc
điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay cịn gọi là tính bất định của một
biến cố nào đó. Cần phân biệt rủi ro với nguy cơ là nguyên nhân chính gây tổn thất và hiểm
họa là nhân tố ảnh hưởng đến hậu quả tổn thất. Có nhiều loại rủi ro, bao gồm rủi ro thuần và
rủi ro đầu cơ; rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính; rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt.
 Để đối phó với những thiệt hại do rủi ro gây ra, có hai nhóm biện pháp là kiểm sốt rủi ro và
tài trợ rủi ro. Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn
ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm.
 Bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hiệu quả. Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo
hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế
(BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Mỗi loại hình ra đời trong những hồn cảnh, thời
gian và điều kiện khác nhau. Bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với sự phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước.
 BHTM là hoạt động kinh doanh bảo biểm nên có các nguyên tắc hoạt động riêng và có nhiều
loại BHTM. Hiện nay phổ biến là phân loại BHTM thành bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, và bảo hiểm con người. Các loại BHTM có đối tượng bảo hiểm, nguyên tắc
tham gia bảo hiểm và nguyên tắc bồi thường không giống nhau.
 Bảo hiểm có vai trị kinh tế và xã hội to lớn, góp phần mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội
thiết thực cho cá nhân, cho tổ chức, cho các doanh nghiệp và cho toàn xã hội.

22


TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Câu hỏi ôn tập
1. Anh/chị hiểu rủi ro là gì?
2. Phân loại rủi ro?
3. Doanh nghiệp có thể áp dụng những cơng cụ quản trị rủi ro nào?
4. Có những loại hình bảo hiểm nào?
5. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại?
6. Vai trò của bảo hiểm?

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230

23


Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm

Danh mục chữ viết tắt
1. BH: Bảo hiểm
2. BHXH: Bảo hiểm xã hội
3. BHYT: Bảo hiểm y tế
4. BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
5. BHTM: Bảo hiểm thương mại
6. GTBH: Giá trị bảo hiểm
7. STBH: Số tiền bảo hiểm
8. STBT: Số tiền bồi thường
9. HĐBH: Hợp đồng bảo hiểm

10. TTBP: Tổn thất bộ phận
11. TTTB: Tổn thất toàn bộ
12. TTC: Tổn thất chung
13. TTR: Tổn thất riêng
14. TNDS: Trách nhiệm dân sự
15. BHCN: Bảo hiểm con người
16. BHNT: Bảo hiểm nhân thọ
17. BHPNT: Bảo hiểm phi nhân thọ

24

TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230



×