Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng phát triển ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.44 KB, 12 trang )

;Đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ ”
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, mà cịn là
tương lai của đất nước, xã hội. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sơng Việt Nam
có trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc Việt Nam có trở nên sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ ở phần lớn cơng học tập
của các cháu”...
Đúng như thế, non sơng Việt Nam có được lớn mạnh hay khơng, xã hội
Việt Nam có trở nên phồn vinh được hay khơng, điều đó phụ thuộc phần lớn vào
sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là
chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, sự nghiệp giáo dục đã và đang được
Đảng và nhà nước ta quan tâm, coi trọng hàng đầu. Giáo dục Mầm non là khâu
đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách con người. Hơn ai hết, bản thân Tôi là một giáo viên Mầm non,
Tơi hiểu rõ vai trị, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ,
giúp trẻ phát triển hài hòa, cân đối về mọi mặt “đức - trí - thể - mỹ”.
Trong q trình chăm sóc và giáo dục trẻ, ngôn ngữ là công cụ để giao
tiếp, khơng có ngơn ngữ con người khơng thể giao tiếp được. Nhất là trẻ em,
nhưng sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc và bảo vệ của người lớn, của cơ
giáo. Ngơn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ em trở thành
một thành viên của xã hội lồi người. Ngơn ngữ là cơng cụ hữu hiệu để trẻ có
thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi cịn rất nhỏ để người lớn, cơ giáo
có thể chăm sóc, điều khiển và giáo dục trẻ. Đây là một điều kiện quan trọng để
trẻ có thể tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách
trẻ. Vậy làm thế nào để giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ? Đó là điều
mà Tơi băn khoăn suy nghĩ, để tìm ra những giải pháp cách làm hay để giúp trẻ
24 - 36 tháng phát triển ngơn ngữ. Đó cũng chính là lý do mà Tôi chọn đề tài
“Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ”.
1



1.2. Điểm mới của đề tài:
Qua từng năm cũng có rất nhiều giáo viên đã đưa ra nhiều giải hình thức để
nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Mỗi giáo viên đều đưa
ra các giải pháp, cách thực hiện để phù hợp với hoàn cảnh của trường, đặc điểm
và trình độ nhận thức của trẻ ở lớp mình và phù hợp với điều kiện, hồn cảnh
của bản thân giáo viên đó. Riêng bản thân Tơi chọn đề tài này vì những điểm
mới và những lý do sau:
Như ta đã biết, ngơn ngữ giữ đóng vai trò quyết định trong việc phát triển
nhân cách của trẻ. Sự phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả về sự phát triển về
đạo đức, chuẩn mực về hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải ứng
xử giao tiếp như thế nào cho phù hợp...? Đó khơng chỉ là sự bắt chước máy móc
mà điều này giúp trẻ có điều kiện học hỏi những gì tốt đẹp xung quanh bởi giai
đoạn nhà trẻ là giai đoạn siêu tốc phát triển ngôn ngữ.
Mặt khác, trong những năm qua, hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã
được Bộ GD, Sở GD - ĐT Quảng Bình, Phịng GD Lệ Thủy triển khai rộng về
các trường học, đến tận từng giáo viên với nhiều giải pháp tích cực và thực hiện
có hiệu quả. Trong q trình thực hiện, cơ cở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ
dùng, đồ chơi được tăng trưởng đáng kể, môi trường trong và ngồi lớp phong
phú, lơi cuốn trẻ học tập. Từ đó, chất lượng giáo dục trên trẻ được tăng lên rõ
rệt. Trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong mọi hoạt động, trẻ biết tự lập, chủ động thực
hiện các nhiệm vụ của mình, có hứng thú giao tiếp và có nhu cầu giao tiếp. Các
kỹ năng nói, kỹ năng nghe, hiểu, đọc, giao tiếp... của nhiều trẻ được phát triển
tốt hơn. Song việc nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng
là một việc làm hết sức khó khăn. Vì vậy, trong q trình thực hiện địi hỏi bản
thân Tơi phải linh hoạt sáng tạo có những đổi mới trong việc giáo dục trẻ.
* Phạm vi áp dụng:
Đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn
ngữ” được áp dụng cho tất cả trẻ trong toàn trường từ lứa tuổi Nhà trẻ đến Mẫu
giáo nhưng đặc biệt là lứa tuổi trẻ Nhà trẻ 24 - 36 tháng.

2


2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng:
Năm học 2014 - 2015, Tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp nhà
trẻ 24 - 36 tháng, bản thân Tôi xác định rõ vai trị, trách nhiệm của mình. Để làm
được điều đó Tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36
tháng phát triển ngôn ngữ”. Trong q trình thực hiện Tơi đã gặp những thuận
lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Bản thân Tơi được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu nhà
trường về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm và được trang cấp
các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học cho trẻ.
Nội dung hoạt động giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ đã được nhiều phụ
huynh quan tâm, đặc biệt là một số phụ huynh đã nhận thức rõ tầm quan trọng
của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Bản thân Tôi nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và khả năng tiếp thu kiến thức
của trẻ độ tuổi này.
Bản thân Tơi ln nhiệt tình, u nghề, mến trẻ, ham tìm tịi, học hỏi. Với
vai trị là người mẹ hiền thứ hai của trẻ Tôi luôn có tấm lịng bao dung, độ
lượng, thường xun nghiên cứu các tài liệu, sáng tạo nhiều cái mới trong công
tác giảng dạy, có ý thức vươn lên, cố gắng rèn luyện bản thân, nhanh nhẹn, hoạt
bát trong mọi lĩnh vực, có năng lực và trình độ chun mơn vững vàng, ln có
ý thức cố gắng rèn luyện về chuẩn mực đạo đức, nhân cách, hành vi để làm
gương cho trẻ noi theo.
Điều may mắn nhất là Tôi được sống trong một tập thể chị em đoàn kết, yêu
thương, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống cũng như trong công việc,
cùng nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm. Từ đó, Tơi học được những điều hay lẽ
phải, những kinh nghiệm quý báu.

b. Khó khăn:

3


Trường Tơi nằm ở vùng nơng thơn, địa hình phức tạp nhiều cụm nhỏ lẻ, lớp
Tôi dạy nằm ở vùng thấp trũng thường xuyên bị ngập lụt nên đồ dùng đồ chơi,
cơ sở vật chất bị hư hỏng nhiều.
Phần lớn trẻ là con em của các gia đình làm nghề nơng, cuộc sống cịn gặp
nhiều khó khăn, vất vả, lam lũ nên việc chăm sóc, giáo dục trẻ chưa được coi
trọng. Nhất là việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa được quan tâm đúng mức.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm để nắm được đặc điểm nhận thức của trẻ
cho thấy:
- Tỷ lệ trẻ nói chưa rõ từ, trẻ nói cịn ê a chiếm 80%.
- Trẻ nói chưa trọn câu: 85%
- Tỷ lệ trẻ mạnh dạn giao tiếp với cơ với bạn: 30%.
- Nhìn chung vốn từ của trẻ chưa phong phú.
Một khó khăn nữa là trẻ trong cùng lớp có cùng một độ tuổi nhưng có cháu
sinh đầu năm, có cháu sinh cuối năm nên trình độ nhận thức của trẻ không đồng
đều, nhiều trẻ phát âm chưa rõ, chỉ bập bẹ khi trẻ trả lời, chưa tự giác giao tiếp
cùng cơ cùng bạn, cịn rụt rè. Chưa hứng thú tham gia hoạt động.
Với tình hình thực tế của lớp Tôi phụ trách như vậy, nên Tôi rất băn khoăn lo
lắng và trăn trở làm thế nào để giúp trẻ 24-36 phát triển ngôn ngữ một cách tốt
nhất và Tôi đã sử dụng một số biện pháp sau:
2.2. Các giải pháp:
a. Tìm hiểu về đặc điểm tình hình nhận thức của trẻ, xây dựng kế hoạch
giáo dục phát triển ngôn ngữ.
Để giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ thì trước hết giáo viên phải nắm vững
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và hoàn cảnh của trẻ. Vào đầu năm học, Tơi đã gần
gũi trị chuyện tích cực với trẻ, cùng chơi, cùng hoạt động với trẻ. Tôi thường

đặt ra các câu hỏi, tình huống để trẻ trả lời như: Con tên gì nào? Ba của con tên
gì? Hơm qua, được nghỉ học con ở nhà có vui không? Chủ nhật được nghỉ ba
đưa con đi chơi ở đâu? Con đang làm gì đó? ...
Ví dụ: Qua các giờ hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, Tôi
chú ý xem mức độ tiếp thu của từng trẻ, xem trẻ đã hiểu nội dung câu chuyện
4


hay chưa, trẻ đọc thuộc thơ chưa, với cách luyện như thế thì những trẻ nào đã
thuộc thơ, đã hiểu nội dung câu chuyện, trẻ nào chưa thuộc, chưa hiểu. Trẻ đọc
thơ, trả lời câu hỏi của cô như thế nào để từ đó Tơi nắm bắt được đặc điểm nhận
thức và mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ để xây dựng kế hoạch giáo dục phát
triển ngôn ngữ cho trẻ lớp Tôi.
Về lập kế hoạch phát triển: Được sự đồng ý của Ban giám hiệu, trên cơ sở
kế hoạch chuyên đề của nhà trường, Tôi đã xây dựng kế hoạch cho cả năm học.
Tôi phân công cụ thể nội dung, phần hành công việc cho giáo viên cùng lớp và
triển khai kế hoạch cụ thể trong từng chủ đề. Dựa vào những nội dung đã đề ra,
kết thúc chủ đề Tơi đánh giá lại những gì mình đạt được và chưa đạt được. Từ
đó, rút kinh nghiệm cho chủ đề sau. Kế hoạch Tôi xây dựng phải đi từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp.
b. Chuẩn bị đầy đủ, đẹp, sáng tạo các dụng cụ trực quan trong các giờ
hoạt động chung.
Lứa tuổi Mầm non là lứa tuổi tư duy trực quan hình tượng, trẻ thường bị
hấp dẫn bởi đồ chơi đẹp, hành động chơi, vẻ bề ngồi màu sắc, hình dạng, kích
thước, âm thanh của đồ chơi... đặc biệt là trẻ Nhà trẻ, khi cho trẻ làm quen vào
câu chuyện, bài thơ, hay mở rộng vốn từ cho trẻ thì ta sử dụng đồ dùng trực
quan sẽ tạo hứng thú cho trẻ dễ ghi nhớ, trẻ nắm bắt nội dung của vấn đề một
cách thoải mái, đem lại hiệu quả cao. Khi trẻ đã nhớ tên, nội dung câu chuyện,
nhớ tên bài thơ thì khả năng diễn đạt ngơn ngữ của trẻ sẽ tốt hơn....
Ví dụ: Khi dạy trẻ câu chuyện, bài thơ Tôi sử dụng vật thật có màu sắc đẹp,

an tồn để trẻ được sờ nắn, được xem và được nhìn ngay trước mặt. Như quan
sát quả cà chua, quả cam, cái bát, cài thìa... Trong khi xem xét, cơ giáo kết hợp
chỉ vào vật hoặc từng chi tiết, đặc điểm của vật với từ được gọi, trẻ gọi tên, diễn
đạt các từ đó.
Hoặc khi dạy trẻ quan sát, Tơi hướng cho trẻ tập trung vào các sự vật hiện
tượng, các mối liên hệ giữa chúng như quan sát trời mưa... Điều đó, giúp cho trẻ
suy nghĩ mạch lạc hơn và có biểu hiện những ấn tượng lời nói của mình một
5


cách trơi chảy như “mưa thì nước trên trời rơi xuống sân làm cho sân ướt, vườn
rau cũng ướt”...
Thuận lợi nhất là trong những năm gần đây, trường Tôi đã áp dụng cơng
nghệ thơng tin để đưa các hình ảnh thông tin vào bài dạy, giáo viên chúng Tôi
cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm về làm đồ dùng đồ chơi áp dụng vào cơng
tác của mình nên trẻ rất hứng thú.
Ví dụ: Tơi cho trẻ xem những đoạn phim về các con vật, cây xanh... tạo
điều kiện cho trẻ tham quan những nơi mà trẻ không đi được để cung cấp kiến
thức vốn từ cho trẻ.
c. Sử dụng có hiệu quả phương pháp dùng lời nói:
Đọc thơ, ca dao, tục ngữ... cho trẻ nghe. Lời thơ mang tính nhịp điệu cao,
có vần có điệu. Vì vậy khi đọc thơ, đồng dao Tôi thường đọc chậm rãi, chú ý
ngắt giọng sau mỗi câu, giải thích một vài từ khó cho mỗi trẻ...
Tôi đọc và kể chuyện cho trẻ nghe phải chậm rãi, chú ý các yếu tố minh
họa trong lúc kể chuyện.
Khi đàm thoại với trẻ bản thân Tôi chú ý đàm thoại thích ứng với tâm lý
của trẻ. Đàm thoại được tiến hành nhẹ nhàng, thoải mái và tự nhiên, đáp ứng
được yêu cầu của trẻ. Câu hỏi mà Tôi đưa ra thường dễ hiểu, đơn giản để cũng
cố kiến thức chứ khơng phải là nhồi nhét kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy chuyện “Cây Táo” Tôi đưa ra câu hỏi: Tên câu chuyện là

gì? Câu chuyện có những nhân vật nào? Ai đã trồng cây Táo?...
Tơi cịn thường xun sử dụng lời nói mẫu và giảng giải cho trẻ hiểu về từ
ngữ đó, câu nói đó.
Ví dụ: Tơi nói mẫu “Con đói bụng, con muốn ăn cơm” và giảng giải cho
trẻ hiểu từ “đói bụng” là gì?
d. Tạo nhiều cơ hội cho trẻ giao tiếp.
Để tạo cơ hội cho trẻ giao tiếp, Tơi thường trị chuyện với trẻ, hỏi để trẻ
trả lời, tạo hình huống câu chuyện để trẻ nói chuyện.
Ví dụ: Tơi hỏi: Hơm nay, con ăn gì? Ai nấu cho con ăn? Để được bố mẹ
khen thì khi ăn cơm con phải làm gì?...
6


Ví dụ: Có lúc Tơi dùng tình huống như sau: Bạn Nam nói rằng sẽ khơng
chơi với bạn Gấu nữa vì bạn Gấu khơng có áo quần đẹp, con thấy bạn Nam nói
như vậy có đúng khơng? Con có chơi với bạn Gấu khơng? Con sẽ nói gì với bạn
Nam nào?...
Trong q trình CS - GD trẻ, bản thân Tơi thường xuyên chú ý đến từng
cá nhân trẻ, tạo điều kiện cho trẻ mạnh dạn tự tin khi giao tiếp cũng như khi
tham gia hoạt động. Đa số trẻ rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp
nên Tơi thường xun trị chuyện với trẻ một cách tình cảm, gần gũi, gọi trẻ lên
trả lời và luôn chú ý khen ngợi động viên trẻ để trẻ cảm thấy tự tin khi làm một
việc gì đó.
* Trị chuyện với trẻ mọi lúc mọi nơi.
Các hoạt động ngoài giờ học cũng góp phần rất lớn vào việc cho trẻ phát
triển ngôn ngữ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở đây nhằm thoả mãn nhu cầu
giải trí cho trẻ, bổ sung nhiều mặt về kiến thức của các tiết học trên lớp, giúp trẻ
hiểu sâu và nhớ lâu các từ được biết, biết cách phát âm đúng, khơng nói ngọng,
từ đó giúp trẻ trau dồi về ngơn ngữ của mình.
* Thơng qua giờ đón - trả trẻ:

Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề: Cha mẹ bé làm nghề gì? Tơi trị chuyện với
trẻ về gia đình trẻ. Gia đình con có bao nhiêu người? Ba mẹ con làm nghề gì,
làm ở đâu, làm ra những sản phẩm gì?
Trong lúc trị chuyện cô đã cung cấp cho trẻ nhiều vốn từ giúp trẻ hiểu
nghĩa của câu, nói trọn câu, diễn đạt mạch lạc. Vì vậy, trong lúc trị chuyện với
trẻ Tơi phải nói rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, đủ nghĩa giúp trẻ học nói tốt hơn.
* Thơng qua lúc dạo chơi, tham quan:
Ví dụ: Khi tiếp xúc với thiên nhiên Tơi có thể cho trẻ ơn luyện, cũng cố kiến
thức cho trẻ qua việc tìm hiểu một số loại cây, hoa và rau có trong vườn trường,
cho trẻ nói tên các loại cây, hoa, rau đó.
Cho trẻ di dạo vườn rau. Hỏi trẻ:
+ Đây là rau gì? (Rau dền)
+ Màu gì đây? ( Màu đỏ)
7


e. Lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ vào trong
các nội dung giáo dục khác.
Tôi lên kế hoạch tổ chức lồng ghép tích hợp các mơn học một cách hợp lý
để trẻ phát huy tính tích cực chủ động say mê trong tiết học. Ngồi việc dẫn dắt
bằng ngơn ngữ thì sự linh hoạt sáng tạo, ứng xử nhanh của cô giáo trong hoạt
động mang lại sự chú ý cho trẻ, ngồi ra cơ giáo phải kết hợp nhuần nhuyễn các
bộ môn khác vào phát triển ngôn ngữ một cách khéo léo.
* Phát triển ngôn ngữ thơng qua hoạt động LQVH:
Tơi thường tích hợp bộ môn văn học vào phát triển ngôn ngữ qua các bài
thơ, câu chuyện có các nhân vật, sự vật, con vật có tên gọi quen thuộc với trẻ.
Ví dụ: Câu chuyện “Cây táo” cơ kể tóm tắt nội dung cho trẻ nghe sau đó
đưa tranh “Ơng trồng cây táo xuống đất” cho trẻ quan sát và đặt câu hỏi để trẻ
trả lời, trẻ hiểu và nói được nội dung câu chuyện.
Thơ, hò, vè dễ nhớ, dễ đọc rất gây hứng thú cho trẻ như bài “Dung dăng

dung dẻ”, “Con voi” hay một số bài thơ cô tự sáng tác.
* Môi trường xung quanh:
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây bàng cơ hỏi trẻ:
+ Đây là cây gì?
+ Cây bàng có những bộ phận nào?
+ Thân cây như thế nào?
+ Lá có màu gì?
g. Chú ý giáo dục đến từng cá nhân trẻ.
Tôi luôn chú ý đến việc giáo dục từng cá nhân trẻ vì thực tế của lớp có trẻ
nhanh, trẻ chậm. Cùng một câu hỏi nhưng vẫn có nhưng trẻ trả lời rõ ràng nhưng
có những trẻ chưa trả lời được hoặc chưa biết cách diễn đạt. Bản thân Tôi chú ý
bồi dưỡng rèn luyện cho những trẻ yếu, phát huy cho trẻ giỏi.
Ví dụ: Với cháu Nam khả năng phát âm tốt, trơi chảy thì Tơi cố gắng
động viên trẻ nói đúng ngữ pháp và đọc thơ diễn cảm. Cháu Lan cịn rụt rè thì
Tơi cố gắng động viên để trẻ tự tin khi trả lời, biết dùng từ, câu để trả lời.
8


Đặc biệt, trong q trình tổ chức hoạt động, Tơi luôn chú ý rèn luyện cho
những trẻ cá biệt, dạy trẻ vào mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Cháu Tiến ít nói trong giờ học cơ động viên khích lệ trẻ để trẻ hứng
thú tham gia vào giờ học.
Khi đang học chuyện: “Ơ tơ con học bài” cơ cho trẻ phát âm những từ
khó. Cháu Tường Vy phát âm chưa chuẩn từ “tt cịi” mà trẻ đọc “ Cht coi”.
Cơ đọc mẫu rịi rau đó cho trẻ phát âm theo 3 - 4 lần.
h. Phối hợp với phụ huynh.
Gia đình là nhịp cầu nối rất quan trọng đối với nhà trường, vai trị của phụ
huynh có tác động lớn trong việc nâng cao chất lượng cho trẻ phát triển ngôn
ngữ. Đây là nét đặc trưng của bậc học Mầm non. Gia đình, nhà trường đều là
mơi trường giáo dục trẻ nên người và cần phải có sự giáo dục đồng bộ, kết hợp

chặt chẽ để thống nhất biện pháp giáo dục đạt kết quả cao.
Để việc giáo dục trẻ đem lại hiệu quả cao, trước hết Tơi nhanh chóng nắm
bắt tình hình, điều kiện, đặc điểm của lớp mình phụ trách rồi lên kế hoạch triển
khai họp phụ huynh, trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho trẻ
“Phát triển ngơn ngữ”. Báo cáo tình hình chất lượng của trẻ qua đợt khảo sát đầu
năm, thông báo chương trình kế hoạch, thời gian hoạt động của trẻ ở lớp, ở nhà
mua sắm đầy đủ các loại đồ dùng phục vụ bộ môn. Giáo dục mọi lúc, mọi nơi,
bố mẹ người lớn luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Trong lời nói phải
ln dùng từ ngữ chính xác, nếu trẻ có biểu hiện nói lắp, nói ngọng, chớt...
người lớn phải kịp thời sửa ngay, thường xuyên trao đổi tình hình học tập vào
giờ đón, trả trẻ để nắm bắt thơng tin từ hai phía từ đó có biện pháp giáo dục kịp
thời.
Ví dụ: Cơ dạy cho trẻ bài thơ “Bàn tay cô giáo”. Khi trẻ đọc chưa thuộc
bài, cơ có biện pháp trị chuyện trao đổi với phụ huynh, hướng dẫn thêm cho trẻ
ở nhà để trẻ có thể thuộc thơ.
Thơng qua bảng những điều cha mẹ cần biết, Tôi thông báo nội dung hoạt
động, mục tiêu của chủ đề.
2.3 Kết quả đạt được:
9


Qua quá trình thực hiện và áp dụng các biện pháp trên, Tôi đã thu được
những kết quả đáng phấn khởi so với đầu năm học.
*Chất lượng phát triển ngôn ngữ trên trẻ nâng lên rõ rệt:
- Tỷ lệ khá giỏi chiếm 75 - 80%. Tỷ lệ từ trung bình trở lên đạt 98,3 %
- Tỷ lệ trẻ phát âm đúng khơng nói ngọng, khơng nói chớt đạt: 90%.
- Trẻ biết độc thuộc một số bài thơ: 85%.
- Trẻ mạnh dạn tự tin, trả lời được các câu hỏi của cô.
*Đối với giáo viên:
Giáo viên đã nắm chắc phương pháp, tự tin linh hoạt hơn trong các tiết

dạy. Bản thân Tôi cũng đã biết lập kế hoạch thực hiện phù hợp với nhóm tuổi
mình phụ trách, nắm vững được đặc điểm tâm lý, tình hình của từng trẻ để từ đó
đưa ra những biện pháp có hướng giáo dục trẻ được tốt hơn.
* Đối với phụ huynh:
Từ những kết quả đạt được như trên, bản thân Tôi đã tạo được lòng tin với
phụ huynh, làm cho phụ huynh cành tin tưởng, yên tâm cho con đến trường. Bản
thân Tôi cũng đã nâng cao nhận thức cho phụ huynh về việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ là rất cần thiết. Phụ huynh rất quan tâm phấn khởi, thường xuyên chăm
lo, trao đổi hỏi thăm tình hình học tập của con mình.
2.4 Bài học kinh nghiệm:
Qúa trình thực hiện bản thân Tơi rút ra những kinh nghiệm sau:
- Cần nắm vững đặc điểm tình hình nhận thức của trẻ, hồn cảnh sống của
trẻ, đề ra kế hoạch giáo dục phát triển ngôn phù hợp với điều kiện, tình hình của
trẻ, của lớp.
- Cần chuẩn bị đầy đủ, đẹp, sáng tạo các dụng cụ trực quan trong các giờ
hoạt động chung để kích thích sự hứng thú tham gia hoạt động.
- Cơ giáo cần chú ý sử dụng lời nói của mình đúng, nhẹ nhàng để làm mẫu
cho trẻ học theo.
- Giáo viên cần linh hoạt, gần gũi để tạo nhiều cơ hội cho trẻ giao tiếp.
- Giáo viên cần biết tổ chức lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục phát
triển ngơn ngữ vào trong các nội dung giáo dục khác.
10


- Qúa trình tổ chức hoạt động cần chú ý giáo dục đến từng cá nhân trẻ trong
tập thể.
- Giáo viên cần phối hợp với phụ huynh để tạo sự thống nhất trong quá
trình giáo dục trẻ.
3. PHẦN KẾT LUẬN:
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài:

Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng. Vì
vậy, để trẻ phát triển tốt thì giáo viên cần tổ chức các hoạt động một cách khéo
léo để phát triển tư duy, trí tưởng tượng cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ
của trẻ. Thực tế từ lớp Tơi phụ trách, với những khó khăn mà bản thân Tôi gặp
phải, Tôi đưa ra biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng.
Ngôn ngữ được coi là một trong những phương tiện tạo nên sự hình
thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Trẻ nghe, nói, hiểu, biết giao
tiếp và nắm được một số kỹ năng cơ bản của giao tiếp. Ngôn ngữ tác động đến
nhân cách trẻ. Trẻ sẽ biết lựa chọn đánh giá tác phẩm, biết nội dung ý nghĩa của
lời nói, câu chuyện bài thơ đơn giản. Ở trường Mầm non, bước đầu trẻ được tiếp
cận với nền văn hóa lồi người. Ngôn ngữ là phương tiện sắc bén để bồi dưỡng
tình cảm dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, bè bạn. Vì
vậy, muốn giúp trẻ phát triển ngơn ngữ thì giáo viên phải có nhiệt huyết, yêu
nghề mến trẻ, linh hoạt trong giảng dạy. Vì hiệu quả của việc làm đó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến trẻ. Để nâng cáo chất lượng phát triển ngôn ngữ thì giáo
viên phải biết được đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của trẻ, các đặc điểm của cơ
quan phát âm của trẻ để có phương pháp dạy thích hợp.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Việc tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ từ 24 - 36
tháng có hiệu quả cao là việc làm khơng hề đơn giản. Để trẻ đạt được kết quả
như mong muốn Tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề sau:
* Đối với giáo viên:
11


1. Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích hợp các mơn học, các trị chơi một
cách khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để trẻ phát huy tính tích cực và sáng tạo.
2. Tìm hiểu về đặc điểm tình hình nhận thức của trẻ, xây dựng kế hoạch giáo
dục phát triển ngơn ngữ.

3. Lập kế hoạch thực hiện cho nhóm lớp một cách cụ thể, rõ ràng.
4. Chuẩn bị đầy đủ, đẹp, sáng tạo các dụng cụ trực quan trong các giờ hoạt
động.
5. Rèn luyện lời nói, sử dụng đúng từ ngữ khi nói để trẻ học tập và bắt
chước.
6. Biết vận dụng và tạo nhiều cơ hội cho trẻ giao tiếp.
7. Chú ý giáo dục đến từng cá nhân trẻ.
8. Phối hợp với phụ huynh để thống nhất các nội dung giáo dục phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Trên đây là: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng phát triển ngôn ngữ”
mà Tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi
mặt: Đạo đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngơn ngữ. Với một bài
viết nhỏ, vấn đề chỉ dừng lại ở một phạm vi hạn chế, chưa thể bao quát hết được
tất cả, đồng thời trong q trình viết vẫn cịn những thiếu sót, Tơi rất mong được
sự góp ý xây dựng của các đồng nghiệp, của Ban giám hiệu để việc nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày một tốt hơn, đáp ứng với nhu cầu giáo
dục trong giai đoạn hiện nay./.

12



×