Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

skkn một số biện pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.65 KB, 28 trang )

“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tiếng Anh là một ngơn ngữ quốc tế, có vai trị quan trọng trong nhiều lĩnh
vực như: ngoại giao, kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ, giáo dục vv... .
Trong chiến lược dạy học ngoại ngữ, việc dạy học Tiếng Anh nói chung và dạy
học Tiếng Anh ở trường Tiểu học nói riêng đang đặt ra những nhiệm vụ mới,
đòi hỏi người giáo viên phải quán triệt sâu sắc mục đích, đối tượng, nguyên tắc,
chương trình, phương pháp dạy và học ngoại ngữ cũng như khơng ngừng phấn
đấu nâng cao trình độ chun mơn, trình độ nghiệp vụ sư phạm. Hơn thế nữa, để
hồn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên khơng thể khơng có lịng u
nghề, u trị, thường xuyên đầu tư suy nghĩ, đề xuất sáng kiến và những kỹ
thuật lên lớp hiệu quả.
Là một giáo viên dạy Tiếng Anh tiểu học, tôi luôn trăn trở là làm thể nào để dạy
cho học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức chứ khơng phải chỉ truyền đạt kiến
thức có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên một cách dập khn, máy móc.
Chính vì vậy, bản thân tơi thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, đặc biệt là trau dồi phương pháp giảng dạy, từ đó đúc rút ra những
bài học, những phương pháp truyền đạt kiến thức đơn giản nhất, dễ hiểu nhất tới
học sinh, giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Vẫn biết rằng khơng có một
phương pháp nào có thể hiệu quả cho tất cả mọi đối tượng học sinh, trong mọi
hoàn cảnh khác nhau, ở những lứa tuổi khác nhau, song qua q trình thực tế
giảng dạy mơn Tiếng Anh tại Trường tiểu học tôi đã đúc rút được “Một số biện
pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng
Anh”với mong muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình trong việc đổi
mới phương pháp dạy học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề án 2020 của Bộ GD&ĐT, các trường tiểu học đang tập trung
đổi mới chương trình dạy và học Tiếng Anh. Hưởng ứng tính tích cực và tính
thiết thực của đề án, tơi cũng xin được đóng góp một vài ý tưởng cho việc dạy


và học tốt môn Tiếng Anh.
1/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

Lâu nay người Việt luôn tiếp cận với phương pháp học truyền thống như giáo
viên là trung tâm, nhồi nhét quá nhiều kiến thức, làm sai là “có tội”, áp lực, học
đối phó, giáo viên giải thích mọi thứ và học sinh chỉ là người nghe. Phương
pháp này đã khiến cho Tiếng Anh trở thành nỗi “ám ảnh” của nhiều thế hệ.
Chính vì thế bên cạnh việc thiết kế chương trình giảng dạy phù hợp cho từng đối
tượng của từng bậc học, chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy cũng cần phải
được nâng cao. Như vậy mới tạo được khả năng tư duy và phát triển khả năng
học tập một cách độc lập, tạo niềm say mê, thích thú cho cả thầy và trị trong
q trình giảng dạy và học tập môn Tiếng Anh.
Quan tâm tới phương pháp dạy - học của bậc tiểu học đang là vấn đề cấp
thiết mang tính nền tảng lâu dài cho việc học lên các cấp học sau này. Để học
sinh Tiểu học học tốt môn Tiếng Anh và quan trọng là các em biết vận dụng để
giao tiếp tốt trong cuộc sống, chúng ta cần hiểu rõ tâm lý các em trước khi áp
dụng một phương pháp dạy mới. Học sinh Tiểu học rất hiếu động, khơng tập
trung được lâu, trẻ thích học mà chơi, chơi mà học, … . Dựa vào tâm lý này của
trẻ, hãy làm cho trẻ thấy việc học Tiếng Anh như một trị chơi hay nói cách khác
lồng vui chơi trong việc dạy và học Tiếng Anh.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Học sinh lớp 3
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Các trò chơi thường được sử dụng trong các giờ dạy Tiếng Anh
+ Các hình thức tổ chức hoạt động nâng cao hiệu quả giờ dạy.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, bản thân tôi sử dụng một số giải pháp sau:

- Tự mình xây dựng cho mình một số những kĩ thuật, phương pháp dạy phù
hợp với điều kiện và đối tượng học sinh trường mình thơng qua việc giảng dạy
Tiếng Anh hàng ngày trên lớp rồi rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
- Dự giờ đồng nghiệp ở trường bạn trong và ngồi quận.
- Tích cực sưu tầm các tài liệu chuyên môn về phương pháp dạy Tiếng Anh
tiểu học- kĩ thuật dạy Tiếng Anh tiểu học, tham khảo cách dạy Tiếng Anh tiểu
2/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

học của người bản xứ trên TV, trên internet,…..
- Học tập, tiếp thu chỉ đạo trong các lớp bồi dưỡng, tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học và sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả.
- Tích cực làm đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giảng dạy hàng ngày trên
lớp đạt hiệu quả.
- Trang trí trường, lớp theo chủ điểm tạo mơi trường học tập tích cực cho
học sinh
- Làm phiếu điều tra mức độ u thích mơn Tiếng Anh của học sinh khối 3
trong trường tiểu học

3/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Nhằm bắt kịp với xu thế toàn cầu, ngành giáo dục Việt Nam đang ngày một
hội nhập cùng thế giới. Hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục hiện đại là đào tạo

ra những con người có thể bắt kịp xu thế hội nhập toàn cầu.
Luật Giáo dục đã quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Chương trình giáo dục phổ thơng do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành cũng đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh,
điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng
hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Hiện nay trong các nhà trường , việc dạy và học Tiếng Anh đang diễn ra
cùng với sự đổi mới phương pháp giáo dục, cải cách sách giáo khoa, nội dung
chương trình học nhằm làm phù hợp với nhận thức của học sinh, giúp học sinh
được tiếp cận với nội dung, kiến thức hiện đại. Vốn kiến thức Tiếng Anh trong
chương trình học cũng được sử dụng phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
Trong thực tế hiện nay, nhiều giáo viên giảng dạy mơn Tiếng Anh vẫn cịn rất lệ
thuộc vào sách giáo khoa, sử dụng những phương pháp cũ là giáo viên truyền
đạt - học sinh tiếp thu một cách thụ động, giáo viên viết từ lên bảng yêu cầu học
sinh chép đi chép lại nên học sinh khơng có cơ hội được giao tiếp nhiều bằng
4/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”


Tiếng Anh, khơng đưa học sinh vào những tình huống giao tiếp thực tế,… Điều
này không tạo cho học sinh hứng thú khi học Tiếng Anh và các em không vận
dụng được Tiếng Anh trong cuộc sống hàng ngày.
Để góp phần khắc phục tình trạng trên, tơi tiến hành thực hiện đề tài “Một
số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong mơn Tiếng
Anh” khơng ngồi mục đích duy nhất là xây dựng những phương pháp dạy học
phù hợp nhất với tư duy của trẻ, giáo dục kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ đặc
biệt là thứ ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Về phía giáo viên:
- Giáo viên đạt trình độ chuẩn B2 và được cấp chứng chỉ sư phạm về giảng
dạy Tiếng Anh tiểu học, được học tập, trao đổi kinh nghiệm từ đồng nghiệp qua
các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn, hội giảng, trao đổi kinh nghiệm,
chuyên đề.
- Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và đồng nghiệp luôn quan tâm,
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt cho việc dạy và học Tiếng Anh.
- Các em có đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập.
- Giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn phương pháp giảng dạy
Tiếng Anh tiểu học.
2. Về phía học sinh:
- Đa số các em học sinh rất chăm ngoan và hứng thú với môn Tiếng Anh.
- Học sinh luôn được phụ huynh và giáo viên quan tâm, giúp đỡ trong quá
trình học tập.
- Qua thực tế giảng dạy môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học trong nhiều năm
qua, tôi nhận thấy dù chất lượng mơn học đã có nhiều chuyển biến rất tích cực
nhưng tính chủ động và sáng tạo trong q trình học của học sinh vẫn chưa thực
sự khả quan. Qua thăm dò điều tra, hỏi ý kiến của học sinh và những đánh giá
nhìn nhận của cá nhân mình, tơi nhận thấy có một số hạn chế như sau:
a. Cơ hội thực hành Tiếng Anh chưa nhiều
Học sinh chưa được ứng dụng các kiến thức mà các em được học vào giao

5/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

tiếp hàng ngày. Phạm vi học và thực hành Tiếng Anh chỉ ở trong lớp học. Chính
vì vậy học sinh học như bị bắt buộc, học để lấy thành tích cao là chủ yếu, các em
chưa ý thức được học tiếng Anh để phục vụ cho việc giao tiếp và cho nghề
nghiệp của mình sau này.
b. Hạn chế về thời gian và hình thức trị chơi
Học sinh tiểu học cịn nhỏ nên tốc độ viết của các em còn chậm. Đây là lí
do chủ yếu dẫn đến việc hạn chế trong tổ chức trị chơi. Bên cạnh đó các hình
thức trị chơi mặc dù được tổ chức phong phú nhưng chưa bao quát đến tất cả
các đối tượng học sinh. Thời lượng của một tiết học không chỉ dành cho các trò
chơi mà còn phải tập trung vào việc truyền tải kiến thức và các kĩ năng khác.
c. Động cơ và ý thức học tập chưa cao
Môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn chưa được quan tâm đúng mực nên một
số học sinh và phụ huynh chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học này. Một
số học sinh lên lớp học Tiếng Anh là vì bắt buộc phải lên chứ các em khơng có một
động cơ học tập nào. Bên cạnh đó, học sinh yếu kém rất ngại thực hành giao tiếp vì
khả năng tiếp thu chậm, sợ thực hành sai, sợ những nhận xét không tốt của giáo
viên. Còn một số đối tượng khá, giỏi các em lại ngại giao tiếp vì các em xấu hổ khi
phải thể hiện trước đám đông. Ở lứa tuổi này các em rất ham chơi nên ý thức học
tập chưa cao, các em chưa chú trọng nhiều đến việc học.
Tại trường tơi đang cơng tác hiện nay, chương trình Tiếng Anh đã được
giảng dạy từ nhiều năm. Bản thân tôi đều được dạy các khối 3, 4, 5, vì vậy tơi
thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 4 và
5 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 3 thì
ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra
khơng hề khó với học sinh. Qua đây chúng ta thấy rằng vẫn còn một bộ phận

học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu
được học Tiếng Anh nên còn nhiều bỡ ngỡ dù rằng các em cũng rất u thích
mơn học này.
Khi chưa áp dụng những biện pháp trong sáng kiến này, kết quả khảo sát đầu
6/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

năm môn Tiếng Anh của học sinh khối 3 năm học 2017- 2018 tại trường tơi về
các mặt như sau:
Kết quả

Hồn thành tốt

Hồn thành

Chưa hồn thành

Kĩ năng nghe

21%

76%

3%

Kĩ năng nói

32%


65%

3%

Kĩ năng đọc

36%

64%

0%

Kĩ năng viết

28%

61%

1%

IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Trước tiên người thầy muốn dạy tốt và muốn đạt kết quả cao trong việc dạy học
thì việc hiểu rõ đặc điểm tâm lý của học sinh là rất quan trọng. Là một giáo viên
tâm huyết trong nghề giảng dạy tôi thấy vấn đề này rất cần sự quan tâm đúng
mức hơn của các thầy cô, các bậc phụ huynh và các cấp giáo dục. Riêng bản
thân cá nhân tơi, để đóng góp tích cực cho việc giảng dạy môn tiếng Anh tiểu
học thiết nghĩ cần có một số đổi mới trong phương pháp dạy- học cho phù hợp
với những đặc điểm tâm sinh lý của các con nhằm nâng cao chất lương môn học.
Từ việc nắm vững và hiểu rõ tâm lý học sinh, tôi đã đưa ra được những

phương pháp dạy học phù hợp nhằm giúp học sinh chủ động, tích cực và hứng
thú với việc học Tiếng Anh
1. Phương pháp TPR (Total Physical Response - Vận động toàn thân)
Tiến sỹ James J. Asher cha đẻ của phương pháp TPR đã nghiên cứu và phát
triển TPR trong hơn 50 năm và nó được mệnh danh là phương pháp học ngoại
ngữ ưu việt nhất hiện nay. Bậc Tiểu học ( Từ 6-10 tuổi) là bậc học đầu tiên trẻ
được tiếp cận chính thức với việc học Tiếng Anh – ngôn ngữ thứ hai. Học điều
mới ln được trẻ đón nhận một cách thích thú. Nhiệm vụ của người giáo viên
là làm sao cho những thích thú ban đầu đó ln kéo dài và chuyển thành hứng
thú. Trẻ yêu thích Tiếng Anh sẽ là nền tảng vững chắc để học tốt ngôn ngữ này.
7/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

Để làm được điều này chúng ta cần hiểu rõ về đặc trưng tâm lí trẻ:
1. Trẻ cảm thụ ngơn ngữ thông qua nghe.
2. Học thông qua việc làm và chơi.
3. Trẻ thích học ngơn ngữ thành tiếng, thích bắt chước và tạo ra những
tiếng động, âm thanh buồn cười.
4. Trẻ khơng có lí do để học Tiếng Anh.
5. Trẻ rất dễ hào hứng nhưng cũng rất dễ chán nếu một hoạt động bị lặp đi
lặp lại nhiều lần.
6. Trẻ có thể học từ những kinh nghiệm và những hoạt động trực tiếp.

Ví dụ 1: Trong phần khởi động bài khi cho các em hát bài “The way we go to
school” :

Giáo viên nên cho học sinh đứng dậy thay vì chỉ ngồi im tại chỗ, học sinh vừa
hát vừa làm động tác đi bộ, đi xe đạp… các em rất hứng thú và hào hứng bước

vào bài học mới. Hơn nữa cịn kích thích được sự sáng tạo của các em và góp
phần làm cho giờ học thêm ấn tượng để từ đó các em ghi nhớ bài sâu hơn.

8/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

Ví dụ 2: Trong Unit 18: Khi dạy các từ chỉ các hoạt động như:

read

cook

dance

play the piano

Giáo viên vừa phát âm các từ vừa minh họa động tác - Học sinh nhìn, lắng
nghe. Tiếp đó học sinh nghe, làm theo và nhắc lại. Tiếp theo giáo viên thực hiện
hành động - học sinh phát âm từ. Tiếp theo giáo viên đọc to từ - học sinh thực
hiện hành động. Quá trình trên sẽ giúp học sinh nhớ từ mới rất nhanh và sâu cho
dù giáo viên không cần dùng một từ Tiếng Việt nào.
TPR có thể dùng hiệu quả trong rất nhiều bài học ví dụ như khi dạy các từ:

dog

cat

9/25


rabbit


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

hay khi dạy minh họa các từ chỉ thời tiết:

cloud

sunny

rainy

windy

hoặc các câu mệnh lệnh.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy giáo viên nên áp dụng phương pháp
TPR càng nhiều càng tốt bởi vì các em ln thấy hào hứng và thoải mái. Điều
này giúp các em tiếp thu bài học một cách tự nhiên và hiệu quả.
2. Sử dụng các đồ dùng trực quan
Theo tôi tất cả các phương tiện dạy học như máy vi tính, đĩa CD, máy
chiếu và các phương tiện trực quan như tranh, ảnh, đồ vật thật... đều có thể gây
hứng thú và tạo sự chú ý đặc biệt cho học sinh trong học tập. Giáo viên có thể sử
dụng đồ dùng trực quan trong suốt quá trình dạy học, từ lúc giới thiệu ngữ liệu
đến lúc thực hành. Bởi lẽ các phương tiện đó giúp học sinh ghi nhớ một các
nhanh chóng và vững chắc những kiến thức, kĩ năng. Giáo cụ trực quan rất đa
dạng, nêú biết khai thác sẽ trở nên rất đơn giản, dễ chuẩn bị nhưng lại có hiệu
quả cao. Với các chủ đề gần gũi với cuộc sống thường ngày của sách giáo khoa
Tiếng Anh 3, giáo viên có thể giới thiệu từ mới hay tình huống thơng qua các

phương tiện trực quan như hình ảnh hay đồ vật thật.
10/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

Ví dụ 1: Khi dạy Unit 8, để dạy các từ như:

a rubber: một cái tẩy

a schoolbag: cái cặp sách

a ruler: một cái thước

a pencil: một cái bút chì

Giáo viên có thể chỉ vào các đồ vật thật có ở trong lớp và giới thiệu:
“This is my book”.
Sau đó giáo viên u cầu học sinh nhìn vào đồ vật và đốn nghĩa của từ.
Phương pháp này cho các em hứng thú học tập và sự tập trung cao vì các từ giáo
viên giới thiệu là những đồ vật rất gần gũi với các em hằng ngày và dễ đoán
nghĩa đối với các em.
11/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

Qua đó GV dạy cấu trúc câu: “This is my book” để học sinh thực hành nói
sẽ dễ dàng hơn và HS sẽ nhớ câu và từ được lâu hơn.
Bên cạnh những đồ vật, bản thân của người giáo viên cũng là “một đồ dùng

trực quan”, người giáo viên còn là một diễn viên, có thể dùng cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt hay hành động của mình để minh hoạ tình huống, trình bày nghĩa của từ,
nhóm từ.
Ví dụ 2: Khi dạy Unit 12 để dạy các từ như:

living room

bathroom

kitchen

bedroom

dining room

12/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

Không phải lúc nào cũng có thể sử dụng đồ vật thật ở trường nên giáo viên
có thể sử dụng tranh ảnh để thay thế. Trong bộ sách Tiếng Anh 3 hình ảnh đưa
ra để giới thiệu rất đẹp và sống động rất giống với hình ảnh thật trong cuộc sống.
Vì vậy, trong khi giảng dạy giáo viên không những chỉ biết khai thác và sử dụng
một cách tối đa mà còn phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo. Đây là cách
dạy nhẹ nhàng nhưng đem lại hiệu quả rất cao phù hợp với đối tượng học sinh
tiểu học.
Ngoài việc sử dụng các đồ dùng trực quan để giới thiệu từ mới, chủ đề hay
tình huống của bài, giáo viên có thể sử dụng chúng để củng cố bài học, tổ chức
trò chơi… nhằm giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức.

Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy các giáo cụ trực quan luôn làm giờ
học sôi nổi, đạt hiệu quả cao và gây hứng thú đối với học sinh trong giờ học.
3. Sử dụng các trò chơi trong giảng dạy
“ Đối với trẻ em, mọi chỗ đều là chỗ chơi, mọi giờ đều là giờ chơi, mọi thứ
đều là đồ chơi và mọi người đều là bạn chơi”
Trị chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện, củng
cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tính lũy qua hoạt động
chơi. Trị chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng trị chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui mà
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Ví dụ 1: Để củng cố vốn từ vựng đã học trong giáo viên có thể sử dụng trị
chơi “Board race - chạy đua lên bảng”
Cách chơi: Chia học sinh thành 2 đội mỗi đội khoảng tám học sinh đứng
xếp thành từng hàng. Giáo viên yêu cầu mỗi đội lên bảng viết các từ vựng chỉ đồ
dùng học tập đã học. Mỗi lượt lên bảng mỗi đội chỉ được phép một người, khi
người đứng trước lên viết xong một từ và chạy về cuối hàng thì người kế tiếp
chạy lên bảng viết thêm từ, đội nào viết được nhiều từ đúng và nhanh hơn sẽ
thắng.
13/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

Ví dụ 2: Để luyện đơn vị ngôn ngữ: Hi/Hello. I’m______. What’s your
name?
Giáo viên có thể cho học sinh tham gia trị chơi “Onion ring”
Chia lớp thành nhiều nhóm mỗi nhóm khoảng 10 học sinh đứng thành 2
hàng đối diện nhau luyện, một hàng các học sinh đứng im tại chỗ, một hàng lần
lượt các học sinh sau khi thực hiện hội thoại theo mẫu:

HS1: Hello, I am ___. What’s your name?
HS2: Hi, My name is _____.
thì bước sang phải một bước để tiếp tục thực hiện đoạn hội thoại với một bạn
khác cứ như vậy đến bạn cuối cùng trong hàng.
Ngồi các trị chơi trên, chúng ta có thể áp dụng các loại trò chơi khác như:
 Rub out and remember: xóa phần từ đã giới thiệu trên bảng và yêu cầu
học sinh tái tạo lại ở trên bảng.
 Slap the board: viết phần từ vừa giới thiệu hoặc dán tranh thể hiện từ
trên bảng. Yêu cầu học sinh vỗ vào phần từ hoặc tranh khi nghe giáo
viên đọc từ đó(từ trên bảng bằng tiếng Anh thì đọc bằng tiếng Việt và
ngược lại)
 What and where: Viết từ vừa giới thiệu vào các vòng tròn trên bảng,
cho học sinh đọc và xóa dần các từ, sau đó yêu cầu học sinh viết lại từ
đúng vị trí cũ của nó.
 Jumbed words: Giáo viên viết các từ với các chữ cái xáo trộn, sau yêu
cầu học sinh viết lại từ cho đúng.
 Word square: Giáo viên chuẩn bị ơ chữ có chứa các từ đã giới thiệu,
yêu cầu học sinh khoanh trịn các từ mà các em tìm thấy.
 Netword: Học sinh viết mạng từ theo chủ điểm.
 Bingo: Học sinh chọn 5 từ trong số các từ mà giáo viên gợi ý trên
bảng, sau khi nghe giáo viên đọc, học sinh nào có 5 từ trước nhất thì
hơ to “Bingo”.

14/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

 Guesing game: 1 học sinh viết từ vào 1 tờ giấy hoăc sử dụng hình ảnh
từ, sau đó dùng các từ khác miêu tả, diễn đạt từ dó cho các học sinh

khác đoán.
 Matching: một cột giáo viên viết từ, cịn cột thứ 2 viết khái niệm hoặc
định nghĩa khơng theo thứ tự của cột thứ nhất, sau yêu cầu học sinh
nối từ với khái niệm hoặc định nghĩa của chúng.
 Ordering: giáo viên yêu cầu học sinh viết các từ vào vở, sau đó giáo
viên đọc một đoạn văn ngắn có chứa các từ đó, học sinh nghe và đánh
dấu thứ tự theo trình tự đọc.
Và một số trị chơi khác như : Find someone who ... Noughts and crosses,
Slap the board, Pastimes, Go fishing, Guessing games, Who is quicker?,... để
cho giờ học thêm sinh động và thu hút sự chú ý của học sinh. Việc sử dụng các
trò chơi này vào từng giai đoạn hợp lí trong một tiết dạy sẽ nâng cao hiệu quả
hơn rất nhiều.
5. Sử dụng các bài hát, bài thơ trong giảng dạy.
Qua một thời gian giảng dạy môn Tiếng Anh ở trường Tiều học,tơi nhận
thấy tâm lí ở lứa tuổi này hầu hết các em đều rất thích ca hát hoặc đọc thơ có
nhịp điệu. Đặc biệt nếu các em có thể hat một bài hát ằng ngơn ngữ Tiếng Anh
thì khơng chỉ mang lại niềm hứng khởi trong học tập mà kiến thức ngơn ngữ cịn
được khắc sâu mãi mãi trong trí não các em. Nếu người giáo viên biết vận dụng
khéo léo các bài hát, bài thơ trong quá trình giảng dạy thì tiết học ln diễn ra
nhẹ nhàng, sơi nổi và tự nhiên. Các em được tiếp xúc và làm quen với nhịp điệu
Tiếng Anh rất tự nhiên thông qua các bài hát. Có thể có nhiều giáo viên khơng
có khả năng ca hát nhưng chúng ta có thể khắc phục điều này bằng cách tải các
bài hát từ Internet về và cho học sinh nghe. Người giáo viên có thể khéo léo lồng
ghép các mẫu câu vào các nốt nhạc gần gũi với học sinh, qua đó các em nhớ
mẫu câu nhất nhanh và lâu. Ngoài các bài hát có sẵn trong SGK, GV có thể soạn
các bài hát dựa theo các giai điệu quen thuộc của các bài hát Tiếng Việt.
Ví dụ 1: Khi dạy các em giới thiệu bạn: This is ___. She’s my friend.
Chúng ta vẫn có thể dựa vào giai điệu của bài hát “Kìa con bướm vàng”:
15/25



“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

This is Linda. This is Linda.
She’s my friend. She’s my friend.
Come and sing a song now. Come and sing a song now.
La… la ….la.
Ví dụ 2: Khi dạy về mầu sắc (colours) chúng ta có thể cho học sinh hát bài:
“What color is this?” dựa theo bài hát “Chú ếch con”.
What color is this?
It is orange.
What color is this?
It’s black and white.
What color is this?
It is yellow.
What color is this?
It is purple.
What color is this?
It is purple.
Ví dụ 3: Khi dạy về chủ đề gia đình (Family) chúng ta có thể cho học sinh
hát bài: “Who is she?” dựa theo bài hát “Trái đất này là của chúng mình”.
Who is she?
She’s my mother.
Who is he?
He’s my father.
Who is she?
She is my mother.
Who is he?
He is my father.
Who is she? Who is she?

She’s my mother.
She’s my mother.
Who is he? Who is he?
He’s my father.
Một lưu ý quan trọng: khi cho các em hát, giáo viên nên cho các em vận động
16/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

thay vì ngồi im tại chỗ khi đó lớp học sẽ rất sôi nổi, tất cả các em đều bị cuốn
vào bài học kể cả những học sinh hàng ngày rất rụt rè. Thêm vào đó, giáo viên
có thể tải về các bài nhạc beat để học sinh hát theo nhạc, điều này sẽ làm cho các
em hứng thú hơn khi hát và việc tiếp thu bài học của các em sẽ hiệu quả hơn.
6. Một số biện pháp khác phát huy hứng thú,tích cực của học sinh
đồng thời giúp các em ghi nhớ và vận dụng được kiến thức thong qua các
hình thức kiểm tra phù hợp.
 Chú trọng vào việc dạy từ vựng:
Sử dụng linh hoạt các kĩ năng giới thiệu từ thông dụng là;
1. Giới thiệu từ thông qua các vật dụng trực quan .
- Vật thật: doll, ball (unit twelve)…
- Tranh ảnh: a dog, a cat, a bird, a fish…..(unit eleven)
Với sách giáo khoa lớp 3 mới hiện nay có nhiều tranh ảnh đẹp, giáo viên có thể
tận dụng để giới thiệu từ vựng cho học sinh.
2. Giới thiệu từ thông qua hành động của giáo viên:
- close your book, please (unit six)…..
- open your book, please (unit six) …..
3. Giới thiệu từ thông qua ngữ cảnh:
Giúp học sinh hiểu các sử dụng từ được học và sử dụng đúng trong từng tình
huống giao tiếp.

- good morning (unit four)
4. Giới thiệu từ thông qua từ đồng nghĩa và trái nghĩa:
Là một cách kết hợp vừa giới thiệu từ mới vừa ôn luyện được từ đã học.
- Big >< small (unit five)………..
5.Giới thiệu từ thơng qua các ví dụ:
Kĩ năng này giúp học sinh có tập hợp từ theo chủ điểm.
- Miss, Mr, Mrs
6. Giới thiệu từ bằng phương pháp dịch nghĩa:
Kĩ năng này giúp giáo viên giới thiệu từ mới một cách ngắn gọn, không tốn
thời gian, nhất là với các từ có nghĩa trừu tượng.
17/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

- What : gì, cái gi? (unit three)
- He,she….(unit four)
Nói tóm lại sử dụng kĩ năng giới thiệu từ vựng chính là cách tiếp cận với sự
lĩnh hội kiến thức của học sinh một cách gần nhất, dễ dàng nhất, giúp học sinh
thu nhận kiến thức nhanh hơn, hứng thú với bài học hơn. Và để đạt được hiệu
quả cao trong phần giới thiệu từ vựng ngoài việc lựa chọn các kĩ năng giới thiệu
từ phù hợp, giáo viên còn phải thực hiện phần phát âm từ một cách chuẩn mực,
trình bày từ đúng chính xác và rõ ràng trên bảng để học sinh nhận biết từ được
dạy ở mọi góc độ khách quan.
 Sử dụng các hình thức kiểm tra phong phú, đa dạng
Kiểm tra từ vựng của học sinh cũng là một phần quan trọng trong quá
trình dạy học. Nó xác định xem học sinh nắm được từ ở mức độ nào. Việc kiểm
tra thường diễn ra dưới 2 cấp độ đơn giản và hoàn thiện.
- Kiểm tra đơn giản:
Kiểm tra đơn giản là việc kiểm tra từ vựng riêng lẻ, kiểm tra ngay sau khi hoàn

thành việc giới thiệu từ vựng. Các hoạt động kiểm tra ở từng bài giảng thường
được giáo viên nêu ra dưới dạng các trị chơi khiến học sinh thích thú, say mê
với bài học, kích thích sự ganh đua trong học tập.
Ví dụ như:
 Rub out and remember: xóa phần từ đã giới thiệu trên bảng và yêu cầu
học sinh tái tạo lại ở trên bảng.
 Slap the board: viết phần từ vừa giới thiệu hoặc dán tranh thể hiện từ
trên bảng. Yêu cầu học sinh vỗ vào phần từ hoặc tranh khi nghe giáo
viên đọc từ đó(từ trên bảng bằng tiếng Anh thì đọc bằng tiếng Việt và
ngược lại)
 What and where: Viết từ vừa giới thiệu vào các vòng tròn trên bảng,
cho học sinh đọc và xóa dần các từ, sau đó u cầu học sinh viết lại từ
đúng vị trí cũ của nó.
 Jumbed words: Giáo viên viết các từ với các chữ cái xáo trộn, sau yêu
cầu học sinh viết lại từ cho đúng.
18/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

 Word square: Giáo viên chuẩn bị ơ chữ có chứa các từ đã giới thiệu,
yêu cầu học sinh khoanh tròn các từ mà các em tìm thấy.
 Netword: Học sinh viết mạng từ theo chủ điểm.
 Bingo: Học sinh chọn 5 từ trong số các từ mà giáo viên gợi ý trên
bảng, sau khi nghe giáo viên đọc, học sinh nào có 5 từ trước nhất thì
hơ to “Bingo”.
 Guesing game: 1 học sinh viết từ vào 1 tờ giấy hoăc sử dụng hình ảnh
từ, sau đó dùng các từ khác miêu tả, diễn đạt từ dó cho các học sinh
khác đốn.
 Matching: một cột giáo viên viết từ, cịn cột thứ 2 viết khái niệm hoặc

định nghĩa không theo thứ tự của cột thứ nhất, sau yêu cầu học sinh
nối từ với khái niệm hoặc định nghĩa của chúng.
 Ordering: giáo viên yêu cầu học sinh viết các từ vào vở, sau đó giáo
viên đọc một đoạn văn ngắn có chứa các từ đó, học sinh nghe và đánh
dấu thứ tự theo trình tự đọc.
Các kĩ năng kiểm tra ở mỗi giờ dạy khác nhau để tạo ra sự mới mẻ không gây
nhàm chán cho học sinh. Song ta cũng cần chú ý đến đối tượng học sinh, hay
chính là trình độ nhận thức của học sinh nhanh hay chậm để đảm bảo việc kiểm
tra được thực hiện thường xuyên và với mọi học sinh. Đối với các học sinh khá,
tiếp thu nhanh giáo viên sử dụng các kĩ năng thường mang tính chất yêu cầu học
sinh tái tạo lại phần từ đã học như: rub out and remember, slap the board, what
and where…. Đối với học sinh yếu tiếp thu chậm hơn thì sử dụng các cách kiểm
tra mang tính gợi mở từ như: jumbed word, word square, matching….
- Kiểm tra hoàn thiện:
Bên cạnh việc kiểm tra đơn giản, cịn có kiểm tra hồn thiện. Kiểm tra hồn
thiện được thực hiện sau khi phần từ vựng được thực hành, ôn luyện và củng cố
trong các giờ thực hành nói, viết, giờ luyện kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. hình
thức kiểm tra này thường diễn ra dưới dạng kiểm tra nói hoặc viết. Giáo viên có
thể thực hiện ngay trong phần “warm up” của bài dạy hoặc dưới dạng kiểm tra
bài cũ, kiểm tra 10 phút, kiểm tra 40 phút hoặc kiểm tra học kì.
19/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

Ví dụ:
- Gapfill: học sinh điền từ vào chỗ trống để hoàn thiện một câu hoặc một đoạn
văn.
- Choose the best answer: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các đáp án
gợi ý.

- Put words in the right order: học sinh sắp xếp các từ xáo trộn thành câu hoàn
chỉnh.
- Chain game: học sinh làm việc trong nhóm, người sau bổ sung thêm ý vào
câu của người trước.
- Dictation: học sinh nghe và chép chính tả.
- Noughts and crosses: học sinh thực hiện kiểm tra từ vựng dưới dạng các mẫu
câu thực hành giao tiếp.
- Pyramid : học sinh viết các câu theo chủ điểm dưới hình thức tổ chức từ cá
nhân đến nhóm nhỏ, nhóm lớn để dần bổ xung ý cho nhau.
Mục đích của việc kiểm tra hồn thiện này nhằm kiểm tra học sinh có hiểu và sử
dụng đúng từ trong các tình huống giao tiếp cụ thể khơng, và bên cạnh đó cịn
nhằm giúp học sinh xây dựng được vốn từ vựng đầy đủ và phong phú, việc kiểm
tra có thể thực hiện theo từng yêu cầu cụ thể hoặc tổng hợp chung trong bài
kiểm tra 40 phút hoặc kiểm tra học kì.
- Kiểm tra nghe: gapfill, choose the best answer, dictation..
- Kiểm tra nói: Chain game, noughts and crosses..
- Kiểm tra đọc: Gapfill, choose the best answer..
- Kiểm tra viết: Put words in the right order, write sentences from the
words given, Pyramid.
 Khơi gợi trí tò mò, ham hiểu biết của học sinh
Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 3, sự tò mò muốn
khám phá nhiều hơn nữa những vật xung quanh, những vốn từ vựng mà mình
chưa biết rất lớn nên các em dễ bị lôi cuốn vào những vấn đề mà chúng quan
tâm.
Các đơn vị bài học trong sách Tiếng Anh 3 có chủ đề rất gần gũi, sát thực
20/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”


với học sinh, phù hợp với trình độ, tâm lý lứa tuổi, nhu cầu, sở thích cũng như
vốn sống của các em như: những đồ dùng học tập, các con vật, những câu mệnh
lệnh trong lớp, những từ giới thiệu bạn bè, những người trong gia đình... Tất cả
các chủ đề này đều gây hứng thú cho học sinh và khêu gợi tính tị mị rất cao. Vì
vậy giáo viên phải biết cách đưa ra các tình huống để lơi cuốn các em vào chủ
đề của bài cũng như những hoạt động trên lớp.
Ví dụ: Khi dạy bài về Family members
Giáo viên có thể dùng một tấm ảnh gia đình của mình và giới thiệu với cả
lớp bằng tiếng Anh “This is my mother. This is my father”... Sau đó giáo viên
cung cấp một số từ chỉ về những người có quan hệ với bản thân như: mother,
father, sister, brother, friend... học sinh sẽ dễ dàng hiểu được các nghĩa của từ.
Để thực hành tốt bài này yêu cầu học sinh mang theo ảnh chụp những người có
trong gia đình mình hay vẽ một bức tranh về những người trong gia đình và giới
thiệu cùng với các bạn trong lớp.
 Tích cực khích lệ, động viên nhằm thúc đẩy động cơ học tập của học
sinh
Như đã nói ở trên, các em học sinh tiểu học chưa có ý thức cao trong học
tập, chưa có ý thức tự giác vì vậy giáo viên cần tạo cho học sinh có được động
cơ để học tập tốt. Có được động cơ học tập khi các em cảm thấy hứng thú đối
với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Do vậy, ngồi việc sử dụng các
tình huống thách đố nhằm hấp dẫn, lôi cuốn học sinh vào những hoạt động trên
lớp, giáo viên cịn phải biết khích lệ, động viên các em trong học tập. Để giúp
các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần phải chú ý đến
tính vừa sức trong dạy học, tránh khơng nên đưa ra những yêu cầu quá cao đối
với học sinh. Ngồi ra giáo viên cần khuyến khích học sinh học theo phương
châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong q trình thực hành.
Thực tế cho thấy, có những học sinh biết nhưng khơng dám nói vì các em
cịn rụt rè, sợ mắc lỗi. Một số em khác không dám giơ tay phát biểu vì sợ nói sai
bị các bạn cười, cơ giáo chê. Theo tơi đây chính là yếu tố tâm lý mà giáo viên
dạy ngoại ngữ cần xem xét để giúp các em được hứng thú học tập hay ít ra là

21/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

tích cực hơn trong các giờ học. Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá
khắc khe với những lỗi mà học sinh mắc phải như lỗi phát âm, lỗi chính tả, lỗi
ngữ pháp để cho các em tránh tâm lý sợ mắc lỗi mỗi khi thực hành. Thay vì ngắt
lời khi các em đang bày tỏ, chia sẻ, giáo viên có thể để cho học sinh trả lời xong,
giáo viên khích lệ hay cổ vũ các em bằng những câu như: Super! Excellent!
Well done! Give him a big hand, “good”, “very good” hoặc “not bad”… Sau đó
giáo viên gọi học sinh khác nhận xét và sửa lỗi cho bạn hoặc giáo viên sửa lỗi để
tránh làm cho các em nhụt chí, mất hứng thú học tập. Giáo viên cần quan tâm
đặc biệt đối với học sinh yếu. Trong quá trình thực hành hay làm bài tập, giáo
viên có thể gọi những học sinh khá giỏi làm trước các bài mẫu sau đó gọi những
học sinh yếu làm những bài tương tự, từ dễ đến khó. Đối với các học sinh học
chậm môn này, khi các em giơ tay phát biểu ta nên ưu tiên gọi các em này lên
bảng thực hành.
 Gây hứng thú cho học sinh thông qua việc trang trí trường, lớp học
Việc trang trí trong lớp học Tiếng Anh nhằm mục đích tạo ra mơi trường
học tập Tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên có thể tự mình trang trí hoặc
định hướng cho học sinh trang trí lớp học dựa vào các chủ điểm quen thuộc
hàng ngày. Từ đó học sinh thường xun được nhìn thấy các từ, các câu các em
đã, đang và sắp được học, điều này không chỉ giúp học sinh ghi nhớ Tiếng Anh
một cách thường xun, có hệ thống mà cịn giúp các em hứng thú hơn khi được
học tập và vui chơi trong một lớp học sinh động, đầy màu sắc.
Giáo viên có thể cắt hình một cái cây, trên đó có dán các loại quả với
những màu sắc khác nhau. Trên các quả lại dán các từ Tiếng anh tương ứng như:
yellow, blue, black, white, brown, purple, red, pink, gray, green, orange.
Hoặc giáo viên có thể cắt hình một đoàn tàu với nhiều toa tàu, trên các toa

tàu dán các từ chỉ các ngày trong tuần hoặc các tháng trong năm vv...
Trang trí ngồi lớp học theo các chủ điểm như: trò chơi dân gian, số đếm,
con vật, các mùa, thời tiết...... cũng góp phần khơng nhỏ trong việc tạo môi
trường học tập, gây hứng thú cho học sinh đối với môn học.

22/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

* Kết quả
Sau thời gian thử nghiệm những phương pháp trên đối với môn Tiếng Anh
tại trường tiểu học, tôi thấy những biện pháp trên mang tính khả thi, chất lượng
giảng dạy đã được nâng lên, học sinh có sự thay đổi về thái độ học tập theo
hướng tích cực. Đặc biệt, khả năng nói Tiếng Anh của các em được cải thiện rõ
rệt. Hơn nữa học sinh cũng biết sử dụng các câu Tiếng Anh thông thường để
ứng dụng vào các bài đàm thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp.
- Bên cạnh đó, khi áp dụng những biện pháp trên tơi thấy tiết dạy của
mình khơng cịn nhàm chán mỗi khi lên lớp. Khơng khí lớp học sinh động
hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng Anh nhiều hơn và thường yêu cầu
tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử dụng trong giao tiếp. Đây là một
bước phát triển tốt.
- Học sinh khơng cịn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là
tâm trạng trơng chờ đến tiết học.
- Sau đây là kết quả giữa học kì 2 năm học 2016- 2017 của học sinh sau khi
áp dụng những biện pháp nêu trên:
Kết quả

Hoàn thành tốt


Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Kĩ năng nghe

32%

67%

1%

Kĩ năng nói

41%

59%

0%

Kĩ năng đọc

43%

57%

0%

Kĩ năng viết


34%

65%

1%

- Qua bảng số liệu tôi nhận thấy qua một thời gian áp dụng các hình thức
dạy học nhằm tăng cường và phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tơi
thấy các em có tiến triển rõ rệt, từ việc học ở trên lớp và việc thực hành các kiến
thức đã tiếp thu được. Từ đó tơi nhận thấy học sinh học tập ngày càng có tiến bộ
hơn.
- Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào giảng
dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học sinh, phù
hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được chất
lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy và
23/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong mơn tiếng Anh”

trị”, “giữa trị và trị”, học sinh cảm thấy u thích mơn học mà mình phụ trách.
Để từ đó các em học tốt hơn và tạo nền tảng cho sự phát triển sau này.
Cũng từ quá trình thay đổi và vận dụng linh hoạt các biện pháp này tôi thấy
kết quả học Tiếng Anh của học sinh sau khi áp dụng các biện pháp dạy học được
tăng lên khá tốt . Tỉ lệ học sinh giỏi tăng và học sinh yếu các kỹ năng đã giảm
nhiều. Với sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường cùng sự nỗ lực của các
em học sinh chất lượng dạy và học tiếng Anh trong nhà trường được nâng cao,
học sinh có thể đọc dịch, hiểu bài hơn, gây hứng thú cho học sinh, giúp học sinh
u thích mơn học hơn.


24/25


“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh lớp 3 trong môn tiếng Anh”

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để giúp các em học tốt môn Tiếng Anh tiểu học giáo viên cần hiểu rõ tâm lý học
sinh, phải sử dụng những phương pháp dạy học phù hợp, sử dụng đồ dùng trực
quan có hiệu quả, tổ chức các trị chơi phù hợp với nội dung của từng bài. Trong
khi giảng dạy giáo viên nên dùng những thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu. Tạo môi
trường thân thiện gần gũi giữa thầy và trị, thi đua học tốt giữa các tổ, nhóm.
Trong q trình nghiên cứu tơi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Trước khi vào bài mới, giáo viên phải xác định rõ nội dung chính, nắm rõ
mục đích, yêu cầu của bài học để từ đó lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
- Cần sáng tạo phần “Warm up” một cách linh hoạt, sáng tạo để học sinh có
cảm giác thoải mái ngay khi bước vào bài.
- Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và
trị, phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những
thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài.
-Nắm rõ đặc điểm về tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi.
- Sưu tầm các phần mềm dạy học Tiếng Anh, kết hợp rèn kỹ năng nghe nói - đọc - viết trong các tiết học (Đặc biệt trú trọng vào kỹ năng nghe - nói).
- Bản thân giáo viên ln ln tự học, nâng cao trình độ chun mơn, liên
hệ trao đổi với đồng nghiệp những kinh nghiệm trong giảng dạy.
2. Những đề xuất kiến nghị
a. Đối với giáo viên
Muốn có kết quả cao trong việc sử dụng trị chơi trong giờ học tiếng Anh
ngoài những mục tiêu chung của bài dạy giáo viên cần chú ý đến những vấn đề
sau :
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, từ đó lựa chọn các

biện pháp phù hợp giúp học sinhtiểu học chủ động, tích cực và hứng thú trong
việc học Tiếng Anh.
- Giáo viên nên sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học đã biết đồng
thời tăng cường áp dụng các kĩ thuật dạy học mới vào giảng dạy.

25/25


×