Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.02 KB, 35 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1 Đặc điểm và yêu cầu của sản xuất kinh doanh xây dựng
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có vị trí hết sức quan trọng trong
nền kinh tế của mỗi quốc gia. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng mới hoặc xây
dựng lại, cải tạo, hiện đại hoá, khôi phục các công trình nhà máy , xí nghiệp,
đường xá , cầu cống... nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống của xã hội. Chi phí
cho xây dựng cơ bản chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng ngân sách nhà nước cũng
như ngân sách của doanh nghiệp.
Chi phí xây dựng cơ bản bao gồm các nội dung : Xây lắp, lắp đặt, mua sắm
thiết bị và chi phí kiến thiết cơ bản khác trong đó phần xây dựng lắp đặt do các đơn
vị chuyển về thi công xây lắp ( gọi chung là đơn vị xây lắp ) đảm nhận thông qua
các hợp đồng giao nhận thầu xây lắp.
Cũng như các ngành sản xuất khác, khi sản xuất đơn vị xây lắp cần biết các
hao phí vật chất mà đơn vị đã bỏ vào quá trình sản xuất và đã kết tinh vào công
trình là bao nhiêu. Do vậy việc xác định giá thành sản phẩm xây lắp một cách kịp
thời, chính xác, đầy đủ có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác quản lý hiệu
quả và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị xây lắp.
1.2 . Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp là các tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân và điều
kiện để thực hiện những công việc có liên quan đến quá trình thi công xây dựng và
lắp đặt thiết bị cho các công trình, hạng mục công trình như: Công ty xây dựng,
công ty lắp máy, tổng công ty xây dựng... Các đơn vị này tuy khác nhau về qui mô
sản xuất, hình thức quản lý, nhưng đều là những tổ chức hạch toán kinh tế có đầy
đủ chức năng nhận thầu xây lắp các công trình xây dựng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Được thể hiện trên cơ sở các hợp đồng đã ký với đơn vị chủ đầu tư sau khi
trúng thầu hoặc được chỉ định thầu.Khi bàn giao công trình, hạng mục công trình
cho bên giao thầu chính là quá trình tiêu thụ sản phẩm
- Trong ngành xây lắp tiêu chuẩn chất lượng của chất lượng sản phẩm đã


được qui định cụ thể trong hồ sơ thiết kế kỹ thuật được duyệt. Do vậy, doanh
nghiệp xây lắp phải chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư về kỹ thuật chất lượng công
trình.
- Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc.... có qui mô lớn, kết
cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian xây dựng dài.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện cần thiết cho
sản phẩm như các loại xe máy, thiết bị nhân công... phải di chuyển theo địa điểm
đặt công trình. Mặt khác, việc xây dựng còn chịu tác động của địa chất công trình
và điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương ... Cho nên, công tác quản lý và sử
dụng tài sản, vật tư cho công trình rất phức tạp, đòi hỏi phải có mức giá cho từng
loại công tác xây lắp, cho từng vùng lãnh thổ.
1.3. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp xây lắp
Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp xây lắp phải đảm bảo các yêu
cầu kế toán cơ bản của kế toán, tính toán ghi chép trung thực, khách quan, đầy đủ,
kịp thời chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, xác định chính xác kết quả từng
phần cũng như toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt
khác, phải phù hợp với đặc điểm của ngành xây dựng.
1.3.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành:
Là các hạng mục công trình xây lắp, các giai đoạn quy ước của hạng mục
công trình hay nhóm công trình.
1.3.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng
Tuỳ theo điều kiện cụ thể có thể vận dụng một trong các phương pháp: Tập
hợp trực tiếp theo từng hạng mục công trình hay từng giai đoạn, khối lượng công
tác xây lắp có giá trị dự toán riêng; Tập hợp gián tiếp theo nhóm hạng mục công
trình hay các giai đoạn xây lắp.
1.3.3. Phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng:
Ap dụng phương pháp trực tiếp, hệ số hoặc tỷ lệ; Phương pháp tổng cộng
chi phí và phương pháp kết hợp
1.4. Các vấn đề chung về chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xây dựng

1.4.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất tại các doanh nghiệp xây
dựng.
1.4.1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng là toàn bộ các khoản hao phí vật
chất và lao động sống , lao động vật hóa và các khoản chi phí cần thiết khác mà
doanh nghiệp chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ
nhất định được biểu hiện bằng tiền
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào 2 yếu tố:
• Khối lượng sức lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao vào sản xuất
trong một thời kỳ nhất định.
• Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công của một đơn vị lao
động đã hao phí.
Điều này cho phép khẳng định : trong điều kiện giá cả không ổn định thì
việc đánh gía chính xác chi phí sản xuất chẳng những là yếu tố khách quan mà còn
là vấn đề được coi trọng, nhằm xác định đúng đắn chi phí sản xuất phù hợp với giá
cả thực tại, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp bảo toàn vốn theo yêu cầu chế độ quản
lý hiện nay.
Cũng như các ngành sản xuất khác, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây
dựng cũng bao gồm các yếu tố: chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhân công,
chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về dịch vụ mua ngoài và chi phí khác
bằng tiền. Các khoản chi phí này được kế toán theo dõi, kiểm tra và quy nạp thành
4 khoản mục: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung để phục vụ cho yêu cầu tính toán,
phân tích giá thành xây lắp.
1.4.1.2. Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng
* Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất và nội dung kinh tế (yếu tố).
Tiến hành gộp các chi phí có cung nội dung vào một loại. Mỗi loại là một yếu
tố chi phí thì chi phí sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ nguyên liệu, vật liệu mà doanh
nghiệp sử dụng vào sản xuất kinh doanh, như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,

nhiên liệu, công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế ( quần áo bảo hộ lao động, cuốc,
xẻng...) sử dụng vào hoạt động xây lắp (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết
nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
- Chi phí nhân công: phản ánh tiền lương, các khoản phụ cấp lương phải trả cho
toàn bộ công nhân, viên chức và phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy
định trên tổng tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân
- Chi phí khấu hao TSCĐ: được phản ánh trên tổng số khấu hao tài sản cố định
phải tính trong kỳ của các loại tài sản cố định thuộc phân xưởng sản xuất như nhà
xưởng, máy thi công, TSCĐ dùng trong sản xuất...
- Chi phí dụng cụ sản xuất: gồm các chi phí về công cụ, dụng cụ sản xuất cho
phân xưởng như khuôn mẫu đúc, gá lắp, dụng cụ thủ công, ván khuôn cốt pha...
- Chi phí nhiên liệu, động lực: là giá trị của toàn bộ nhiên liệu, động lực doanh
nghiệp đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là những khoản dịch vụ mua ngoài phục vụ hoạt
động của doanh nghiệp trong kỳ như tiền điện, nước, điện thoại...
- Chi phí bằng tiền khác: là các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các
khoản chi phí trên, phục vụ hoạt động như chi phí hội nghị, tiếp khách...
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế có ý nghĩa rất
lớn trong công tác kế toán cũng như trong quản lý chi phí. Nó cho biết kết cấu, tỷ
trọng từng yếu tố chi phí sản xuất là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực
hiện dự toán chi phí sản xuất, là tài liệu quan trọng để lập kế hoạch cung ứng vật
tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau. Đồng thời,
nó cũng là cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất theo yếu tố, giám đốc tình hình thực
hiện dự toán chi phí sản xuất, cũng như đánh giá khái quát tình hình tăng năng suất
lao động của doanh nghiệp.
* Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối
quan hệ với đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí có liên quan trực tiếp với quá trình sản xuất
ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định bao gồm: nguyên vật liệu xây dựng,
tiền lương chính của công nhân sản xuất, khấu hao máy móc, thiết bị thi công...

- Chi phí gián tiếp: là những chi phí có liên quan đến việc sản xuất ra nhiều
loại sản phẩm, nhiều công việc. Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng tương tự như
chi phí trực tiếp nhưng những chi phí này phát sinh ở bộ phận quản lý đội, phân
xưởng sản xuất của đơn vị xây lắp. Vì vậy kế toán phải tiến hành phân bổ cho các
đối tượng có liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp tập hợp và
phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách chính xác và hợp lý.
* Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí.
- Chi phí NVL trực tiếp: là toàn bộ các khoản hao phí nguyên vật liệu mà đơn vị
xây lắp bỏ ra để cấu tạo nên thực thể công trình như: vật liệu chính, vật liệu phụ,
các cấu kiện bê tông và các phụ gia khác.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, tiền công phải trả cho số
ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác xây lắp,
công nhân phục vụ xây lắp, kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong
phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi
công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay thuê ngoài. Các khoản chi
phí trích theo tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp (bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) được tính vào chi phí sản xuất chung của hoạt
động xây lắp.
- Chi phí sản xuất chung: là chi phí sản xuất liên quan đến nhiều công trình
gồm: tiền lương nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo tỷ lệ quy định trên
tiền lương (BHXH, BHYT, KPCĐ), chi phí khấu hao tài sản cố định không phải là
máy thi công, chi phí vật liệucông cụ dụng cụ dùng cho quản lý đội...
Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí có đặc điểm là mỗi loại chi phí thể
hiện điều kiện khác nhau của chi phí sản xuất, nơi phát sinh chi phí, đối tượng chịu
chi phí. Nó đồng thời tạo điều kiện cho việc xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố khác nhau lên giá thành sản phẩm phục vụ cho công tác kế hoạch hoá và
tính giá thành sản phẩm.
* Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành.
- Chi phí trực tiếp : Bao gồm các khoản mục sau:

Chi phí vật liệu trực tiếp: là chi phí (đã tính đến hiện trường xây lắp) của các
vật liệu chính, vật liệu kết cấu, vật liệu phụ, vật liệu luân chuyển, bán thành
phẩm,... cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp. Chi phí vật liệu không bao gồm các
vật liệu đã tính vào chi phí sử dụng máy thi công hoặc đã tính vào chi phí sản xuất
chung.
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương cơ bản, các khoản phụ cấp
lương, lương phụ... có tính chất ổn định của công nhân trực tiếp xây lắp cần thiết
để hoàn thành sản phẩm theo đơn giá xây dựng cơ bản.
Các khoản phụ cấp lương không ổn định hoặc không thống nhất trong các vùng
hoặc trong từng tỉnh thành phố nếu chưa được tính tới trong đơn giá xây đựng sẽ
được tính thành một khoản riêng trong dự toán xây dựng công trình, trong giá
thành dự toán.
Chi phí tiền lương cho công nhân điều khiển máy thi công được tính trong đớn
giá chi phí sử dụng máy thi công. Tiền lương của cán bộ quản lý được tính trong
chi phí chung.
Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng máy thi công để
hoàn thành khối lượng xây lắp bao gồm: chi phí khấu hao cơ bản, chi phí sửa chữa
lớn, sửa chữa nhỏ, động lực, tiền lương công nhân lái máy và chi phí khác của
máy.
- Chi phí chung.
Trong giá thành sản phẩm xây lắp ngoài chi phí trực tiếp còn có chi phí chung
bao gồm các khoản mục: Chi phí cho bộ máy quản lý, trích BHXH, BHYT, KPCĐ,
chi phí phục vụ công nhân, chi phí phục vụ thi công... Chi phí chung được tính
bằng tỷ lệ % theo từng loại công trinhg so với chi phí nhân công.
1.4.2. Giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống
và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt
động sản xuất của sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà mà doanh
nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất khối lượng sản phẩm với chi

phí ít nhất là hạ giá thành.
Bản chất của giá thành là kết quả sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí
vào sản phẩm. Với ý nghĩa đó, giá thành thể hiện hai chức năng chủ yếu là chức
năng thước đo chức năng bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành một khối lượng công tác xây dựng các công
trình, hạng mục công trình phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về do quyết
toán công trình, hạng mục công trình đó.
1.4.2.1. Phân loại giá thành sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng
- Giá dự toán: Trong xây dựng sản phẩm xây dựng là đường xá, nhà cửa, vật
kiến trúc...mà giá trị của nó được dựa vào tiền lương công tác xây lắp xác định trên
cơ sở thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế kỹ thuật thi công và định mức đơn giá do Nhà
nước quy định cho từng khu vực xây dựng công trình.
Z
DT
= C
VL
+ C
NC
+ C
MTC
+ C
c

Căn cứ vào giá thành dự toán và căn cứ vào điều kiện cụ thể, năng lực thực tế
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch, doanh nghiệp tự xây
dựng những định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá để xác định những hao phí cần
thiết để thi công công trình trong một kỳ kế hoạch.
Như vậy, giá thành kế hoạch là một chỉ tiêu để các doanh nghiệp xây lắp tự
phấn đấu để thực hiện mức lợi nhuận do hạ giá thành trong kỳ kế hoạch.
- Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức hạ giá thành kế hoạch

- Giá thành thực tế: là toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh để thực hiện
hoàn thành quá trình thi công và bàn giao một công trình, một hạng mục công trình
do kế toán tập hợp được. Giá thành thực tế biểu hiện chất lượng, hiệu quả về kết
quả hoạt động của doanh nghiệp xây lắp.
Giá thành thực tế ≤ Giá thành kế hoạch ≤ Giá thành dự toán.
1.4.2.2. Phân loại theo phạm vi tính giá thành:
- Giá thành công tác xây lắp: phản ánh giá thành của một khối lượng công tác
xây lắp đã hoàn thành đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Nó cho phép xác định, kiểm
kê kịp thời những chi phí phát sinh trong quá trình thi công để có những điều chỉnh
thích hợp cho những giai đoạn sau, phát hiện những nghuyên nhân gây tăng, giảm
chi phí,giúp doanh nghiệp đề ra biện pháp quản lý thích hợp, cụ thể.
- Giá thành công trình, hạng mục công trình hoàn thành: là giá thành của những
công trình, hạng mục công trình đã hoàn chỉnh, đảm bảo kỹ thuật, chất lượng đúng
thiết kế và hợp đồng được bên chủ đầu tư (bên A) nghiệm thu, chấp nhận thanh
toán. Nó cho phép đánh giá chính xác và toàn diện hiệu quả sản xuất thi công trọn
vẹn một công trình, hạng mục công trình.
1.4.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ biện
chứng với nhau vừa là tiền đề, vừa là nguyên nhân kết quả của nhau trong quá trình
sản xuất để tạo ra sản phẩm. Chúng đều giới hạn để tập hợp chi phí nhằm phục vụ
cho công tác quản lý phân tích và kiểm tra công tác giá thành.
Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi phí
sản suất và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm là
sự dịch chuyển giá trị của những yếu tố chi phí vào những sản phẩm công việc nhất
định đã hoàn thành. Chi phí biểu hiện về mặt hao phí. Còn giá thành biểu hiện về
mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình, vì
vậy chúng giống nhau về chất.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình
sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất không đều nhau nên chi

phí sản xuất và giá thành khác nhau về lượng.
Như vậy, nếu chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một
thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại là tổng hợp những chi phí chi ra gắn
liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp nhất định
được nghiệm thu, bàn giao, thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí
cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt động sản
xuất, những chi phí đã chi ra nhưng chờ phân bổ cho kỳ sau, nhưng nó lại bao gồm
những chi phí sản xuất kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước vào giá
thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những chi phí của kỳ trưóc chuyển sang
phân bổ cho kỳ này.
1.4.4. Vai trò, nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp xây dựng .
1.4.4.1. Vai trò:
Kế toán là một công cụ đắc lực trong quản lý, nó gắn liền với hoạt động tài
chính. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là khâu trọng tâm của
công tác kế toán trong doanh nghiệp sản xuất. Tính đúng, tính đủ là chi phí sản
xuất vào giá thành, có nghĩa là thực hiện tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm mới đảm bảo, phát huy triệt để các tác dụng của công cụ
kế toán đối với hoạt động của doanh nghiệp.
1.4.4.2. Nhiệm vụ:
- Xác định đúng đối tượng, lựa chọn đúng phương pháp tập hợp và phân bổ chi
phí sản xuất cho từng đối tượng để phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp, thực
hiện tốt việc tập hợp chi phí sản xuất.
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành, chọn phương pháp tính giá thành hợp
lý, tổ chức
tốt việc tính giá thành sản phẩm.
- Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp
quy định cụ thể trình tự của từng công việc.
1.5. Kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm trong DN xây dựng

1.5.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.
1.5.1.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Đối tượng để tập hợp chi phí sản xuất, là phạm vi giới hạn mà các chi phí sản
xuất cần được tổ chức tập hợp theo đó.
Trong sản xuất xây lắp, với tính chất phức tạp của quy trình công nghệ, loại
hình sản xuất đơn chiếc thường xuyên phân chia thành nhiều khu vực, bộ phận thi
công. Mỗi hạng mục công trình đều có giá dự toán riêng, thiết kế riêng, cấu tạo vật
chất khác nhau nên tuỳ vào công việc cụ thể, trình độ quản lý của mỗi doanh
nghiệp xây lắp mà đối tượng hạch toán chi phí có thể là từng công trình, hạng mục
công trình hay theo từng đơn đặt hàng.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết
của công tác hạch toán chi phí sản xuất. Chỉ có xác định đúng đối tượng hạch toán
chi phí mới có thể tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất một cách phù hợp.
Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản, số chi tiết đều phải
theo đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã xác định.
1.5.1.2. Đối tượng tính giá thành.
Trong sản xuất xây dựng, sản phẩm có tính đơn chiếc, đối tượng tính giá thành
là từng công trình, hạng mục công trình đã xây dựng hoàn thành. Ngoài ra đối
tượng tính giá thành có thể là từng giai đoạn sản xuất sản phẩm hoặc từng giai
đoạn hoàn thành quy ước, tuỳ thuộc vào phương thức bàn giao thanh toán giữa đơn
vị xây lắp và chủ đầu tư.
Trong doanh nghiệp xây lắp, mỗi sản phẩm đều có dự toán thiết kế riêng nên
đối tượng tính giá thành là các công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công
việc đã hoàn thành.
Việc xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán mở thẻ tính giá
thành sản phẩm theo từng đối tượng phục vụ cho quá trình kiểm tra tình hình thực
hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tính toán hiệu quả, chính xác, xác định được thu
nhập.
1.5.1.3. Kỳ tính giá thành.
Do sản phẩm XDCB được sản xuất theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài,

công trình, hạng mục công trình chỉ hoàn thành khi kết thúc một chu kỳ sản xuất
sản phẩm cho nên kỳ tính giá thành thường được chọn là thời điểm mà công trình
hạng mục công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng.
Kỳ tính giá thành là mốc thời gian mà bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành
công việc tổng hợp số liệu để tính giá thành thực tế cho các đối tượng tính giá
thành. Kỳ tính giá thành trong xây dựng cơ bản phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức
sản xuất, chu kỳ sản xuất, hình thức nghiệm thu và bàn giao khối lượng sản phẩm
hoàn thành.
1.5.2. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng công trình,
hạng mục công trình.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của ngành SXKD phụ có liên quan trực
tiếp cho công trình, hạng mục công trình trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và
đơn vị giá thành lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chungcho các công trình, hạng
mục công trình có liên quan theo tiêu thức phù hợp.
Bước 4: Xác định thiệt hại thực trong sản xuất (thiệt hại sản phẩm hỏng, ngừng
sản xuất,...) để tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
Bước 5: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ, từ đó tính giá thành công trình hoàn
thành.
1.6. Phương pháp Kế toán các khoản mục chi phí sản xuất theo phương pháp
kê khai thường xuyên.
1.6.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên liệu, vật liệu sử dụng
trực tiếp cho hoạt động xây lắp của doanh nghiệp xây dựng . Vật liệu sử dụng cho
công trình hạng mục nào thì tính trực tiếp cho công trình đó
Chi phí nguyên vật liệu phải được tính theo giá thực tế khi xuất sử dụng. Giá
thực tế của nguyên vật liệu xuất có thể được xác định theo một trong các phương
pháp:
- Tính theo giá thực tế từng lần nhập (giá đích danh).

- Tính theo giá bình quân gia quyền tại thời điểm xuất kho (giá bình quân liên
hoàn).
- Tính theo giá nhập trước xuất trước.
- Tính theo giá nhập sau xuất trước.
- Tính theo giá bình quân kỳ trước.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong xây dựng gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu chính: bao gồm những thứ nguyên liệu, vật liệu, vật
kết cấu... mà khi tham gia vào quá trình sản xuất nó cấu thành thực thể chính của
sản phẩm như cát, đá, xi măng... Các chi phí nguyên vật liệu chính thường được
xây dựng định mức chi phí và cũng tiến hành quản lý theo định mức.
Khi tính chi phí nguyên vật liệu chính vào chi phí sản xuất trong kỳ chỉ được
tính trị giá của nguyên vật liệu chính đã thực tế sử dụng vào sản xuất. Vì vậy nếu
trong kỳ sản xuất có những nguyên vật liệu chính đã xuất dùng cho các tổ đội công
trình nhưng chưa sử dụng hết vào sản xuất thì phải được loại trừ ra khỏi chi phí sản
xuất trong kỳ bằng các bút toán điều chỉnh thích hợp.
- Chi phí vật liệu phụ.
Chi phí vật liệu phụ bao gồm những thứ vật liệu mà khi tham gia vào sản xuất
nó kết hợp với vật liệu chính làm thay đổi hình dáng bề ngoài của sản phẩm góp
phần tăng thêm chất lượng, thẩm mỹ của sản phẩm, đảm bảo cho hoạt động sản
xuất tiến hành thuận lợi hoặc phục vụ cho nhu cầu kỹ thuật công nghệ hoặc phục
vụ cho việc bảo quản sản phẩm.
- Chi phí nhiên liệu:
Trong doanh nghiệp xây dựng các công trình cầu đường giao thông, dùng
nhiên liệu để nấu nhựa rải đường, chi phí nhiên liệu sẽ được tính vào khoản mục
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Nguyên vật liệu sử dụng cho công trình nào phải được tính trực tiếp cho công
trình đó trên cơ sở chứng từ gốc theo số lượng đã sử dụng và theo giá xuất thực tế.
Trường hợp nguyên vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều công trình, không
thể hạch toán riêng được thì kế toán áp dụng phương pháp phân bổ chi phí cho các
công trình theo tiêu thức thích hợp dựa trên công thức:


Tài khoản sử dụng: TK 621 - chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Bên nợ: - Trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho hoạt động xây lắp
trong kỳ.
Bên có: - Trị giá nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng không hết được nhập lại
kho.
- Kết chuyển hoặc phân bổ giá nguyên liệu, vật liệu thực tế sử dụng cho
xây lắp trong kỳ vào TK 154. Và chi tiết cho đối tượng tính giá thành công
trình.
Tiêu thức
phân bổ của
đối tượng i
Tổng chi phí nguyên vật liệu cần phân bổ
x=
Chi phí
nguyên vật
liệu phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của các đối tượng

×