Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận văn thạc sĩ khảo sát cách giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa tiếng việt cấp tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================

NGUYỄN THỊ THUỶ

KHẢO SÁT
CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ GHÉP
TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT
CẤP TIỂU HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================

NGUYỄN THỊ THUỶ

KHẢO SÁT
CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ GHÉP
TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT
CẤP TIỂU HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số

: 60 22 02 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn: TS. Phạm Thị Thuý Hồng

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Phạm Thị Thuý Hồng. Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả khảo sát
được thể hiện trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong các
cơng trình nghiên cứu khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2019

Học viên

Nguyễn Thị Thuỷ


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành, ngoài sự cố gắng của bản thân, tơi cịn may mắn
nhận được sự giúp đỡ từ nhiều phía.
Đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn với các thầy cơ giáo trong khoa Ngôn
ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Thầy cô là những
người đã cho tôi nền móng vững chắc để tơi dựng xây cơng trình của mình.
Tiếp đến là cơ giáo hướng dẫn trực tiếp tơi hồn thành luận văn này. Tơi
xin chân thành cảm ơn cô – TS. Phạm Thị Thuý Hồng đã tận tình chỉ dẫn,
hướng dẫn tơi. Cơ vạch cho tơi đường hướng, chỉ cho tôi cách làm việc khoa
học. Không chỉ vậy, cơ cịn là người truyền cho tơi cảm hứng, sự đam mê
trong công việc, học tập cũng như trong cuộc sống.
Sau cùng, tơi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn hỗ trợ, ủng hộ, tin tưởng

và giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành luận văn.

Học viên

Nguyễn Thị Thuỷ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 8
4. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 9
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn......................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 10
7. Cấu trúc của đề tài ...................................................................................... 10
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ... 12
1.1. Vài nét sơ lược về từ trong tiếng Việt................................................... 12
1.2. Đơn vị cấu tạo và phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt.................. 14
1.2.1. Đơn vị cấu tạo ................................................................................. 14
1.2.2. Phương thức cấu tạo ....................................................................... 15
* Từ đơn………………………………………………………………………15
* Từ láy………………………………………………………………………..16
* Từ ghép…………………………………………………………………… 17
1.3. Nghĩa và giải nghĩa từ tiếng Việt .......................................................... 20
1.3.1. Quan niệm về nghĩa của từ tiếng Việt ............................................ 20
1.3.2. Thành phần nghĩa của từ ................................................................ 23
1.3.3. Tính nhiều nghĩa của từ .................................................................. 25
1.3.4. Cách giải nghĩa từ .......................................................................... 27
1.4. Căn cứ giải nghĩa từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học........ 31

1.4.1. Căn cứ vào mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt trong nhà trường
Tiểu học ........................................................................................... 31
1.4.2. Căn cứ vào tâm lí học lứa tuổi ....................................................... 32

1


1.4.3. Căn cứ vào bối cảnh nội dung văn bản và ngữ cảnh cụ thể của từ ở
trong bài đọc ............................................................................................. 33
Tiểu kết .......................................................................................................... 35
Chƣơng 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỊNH LƢỢNG CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ
GHÉP TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT CẤP TIỂU HỌC........ 36
2.1. Kết quả khảo sát chung……………………………………………….36
2.2. Kết quả khảo sát định lượng cách giải nghĩa từ ghép phân nghĩa trong
sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học ...................................................... 36
2.2.1. Phạm vi khảo sát ............................................................................. 39
2.2.2. Nội dung khảo sát ........................................................................... 39
2.2.3. Kết quả khảo sát ............................................................................. 39
2.3. Kết quả khảo sát định lượng cách giải nghĩa từ ghép hợp nghĩa trong
sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học ...................................................... 46
2.3.1. Phạm vi khảo sát ............................................................................. 46
2.3.2. Nội dung khảo sát ........................................................................... 46
2.3.3. Kết quả khảo sát ............................................................................. 47
2.4. So sánh cách giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp
Tiểu học với cách giải nghĩa từ ghép của từ điển tường giải....................... 54
Tiểu kết .......................................................................................................... 67
Chƣơng 3: CÁC CÁCH GIẢI NGHĨA TỪ GHÉP TRONG SÁCH GIÁO
KHOA TIẾNG VIỆT CẤP TIỂU HỌC ..................................................... 68
3.1. Nhận xét về các cách giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa Tiếng
Việt cấp Tiểu học ......................................................................................... 68

3.1.1. Quy về loại gần nhất ....................................................................... 68
3.1.2. Tìm nét khu biệt của loại................................................................ 69
3.1.3. Dựa vào từng yếu tố cấu tạo ........................................................... 73
3.1.4. Thông qua ngữ cảnh ....................................................................... 75

2


3.1.5. Qua từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa .............................. 76
3.2. Tình hình giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp
Tiểu học ....................................................................................................... 78
3.2.1. Những điểm hợp lí .......................................................................... 78
3.2.2. Những điểm chưa hợp lí ................................................................. 82
3.3. Một số đề xuất ....................................................................................... 85
Tiểu kết .......................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 91

3


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng thống kê từ ghép hợp nghĩa và phân nghĩa theo khối lớp. .... 37
Bảng 2.2: Bảng thống kê các cách giải nghĩa của từ ghép phân nghĩa theo
khối lớp. ................................................................................................ 40
Bảng 2.3: Bảng thống kê số lượng từ được giải nghĩa theo nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ ghép phân nghĩa theo khối lớp……………………………….44
Bảng 2.4: Bảng thống kê các cách giải nghĩa của từ ghép hợp nghĩa theo
khối lớp. ................................................................................................ 48
Bảng 2.5: Bảng thống kê số lượng từ được giải nghĩa theo nghĩa gốc,

nghĩa chuyển của từ ghép hợp nghĩa theo khối lớp. ................................ 52
Bảng 2.6: Bảng thống kê các từ được giải nghĩ trong sách giáo khoa so với
TĐTG. ............................................................................................................. 54

4


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện số lượng các từ được giải nghĩa theo khối lớp. ......36
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện số lượng từ ghép phân nghĩa và từ ghép hợp
nghĩa được giải nghĩa theo khối lớp. ............................................................... 37
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện sự chênh lệch của các cách giải nghĩa của từ
ghép phân nghĩa theo khối lớp. ....................................................................... 40
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ ghép phân
nghĩa theo khối lớp. ......................................................................................... 45
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ thể hiện số lượng từ ghép hợp nghĩa được giải nghĩa
theo khối lớp. ................................................................................................... 47
Biều đồ 2.6: Biểu đồ thể hiện sự chênh lệch của các cách giải nghĩa của từ
ghép hợp nghĩa theo khối lớp. ......................................................................... 48
Biểu đồ 2.7: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ ghép hợp nghĩa
theo khối lớp...................................................................................................... 52
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ của các từ không được giải nghĩa
trong TĐTG theo khối lớp. ........................................................................... 55
Biểu đồ 2.9: Biểu đồ thể hiện số lượng từ ghép được giải nghĩa trong
TĐTG theo khối lớp .............................................................................. 56
Biểu đồ 2.10: Biểu đồ thống kê số lượng từ được giải nghĩa trong sách giáo
khoa và TĐTG. ................................................................................................ 57
Biểu đồ 2.11: Biểu đồ thể hiện số lượng các từ ghép được giải nghĩa trong
sách giáo khoa giống với cách giải nghĩa của TĐTG theo khối lớp. .............. 59
Biểu đồ 2.12: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ cách giải nghĩa từ ghép trong sách giáo

khoa rút gọn so với cách giải nghĩa từ ghép trong TĐTG. ............................. 62
Biểu đồ 2.13: Biểu đồ thể hiện số lượng từ ghép được giải nghĩa trong sách
giáo khoa khác so với cách giải nghĩa của TĐTG theo khối lớp. ................... 63

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đối với học sinh tiểu học nói riêng và với chúng ta nói chung, việc hiểu
nghĩa của từ và dùng từ chính xác là điều vô cùng quan trọng. Biết nghĩa của
từ chúng ta mới có thể sử dụng đúng được nó và sau đó là sử dụng từ một
cách tinh tế. Từ dùng đúng sang dùng tinh tế là một quá trình lâu dài, gắn với
mỗi người từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Vốn từ cũng từ đó mà được
tích luỹ theo suốt cuộc đời của mỗi người. Vì thế, giải nghĩa từ là nhiệm vụ
sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Hiểu nghĩa của từ càng chắc
chắn thì sử dụng từ càng đúng và linh hoạt.
Thơng qua việc giải nghĩa từ, học sinh không chỉ nắm được nghĩa của từ đó
mà cịn hiểu được, nắm bắt được những cái tinh tế chứa đựng trong đó, hiểu
được những đặc sắc của ngơn ngữ dân tộc. Có như thế mới hình thành được
thói quen lựa chọn, cân nhắc từ ngữ trước khi nói. Bởi thế mà dân gian ta mới
có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”. Từ
là cái có sẵn, nó giống như một cái kho chứa đầy vật liệu. Người nói cần dùng
từ nào sẽ lựa ra từ đó, sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng
giao tiếp. Làm được như thế là cả một sự tích luỹ lâu dài của bản thân mỗi
người, trong đó có vai trị quan trọng của giáo dục nhà trường. Nhà trường mà
đại diện là thầy cô sẽ là người hướng dẫn, tổ chức cho các em nắm bắt được
nghĩa của từ và cách dùng từ. Phương tiện hỗ trợ đầu tiên chính là việc giải
nghĩa từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt. Mỗi bài đọc chọn ra một số từ khó
hiểu về nghĩa đối với học sinh, từ phổ thông mà học sinh địa phương chưa

quen, hoặc các từ “khoá” để giải nghĩa nhằm giúp người đọc, người học hiểu
được nội dung của bài.

6


Giải nghĩa từ là khâu then chốt để học sinh hiểu được nội dung của bài đọc.
Vì thế, giải nghĩa từ trước hết là làm cho học sinh hiểu thật thấu đáo nó, nghĩa
là làm cho học sinh nắm được các nét nghĩa chung và riêng, rộng và hẹp cùng
với các quan hệ giữa chúng.
Giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học là một vấn đề không dễ. Giải nghĩa cần
hướng tới sự ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với học sinh. Việc hiểu nghĩa của từ
là khâu quan trọng để hiểu được bài đọc. Nó giống như chìa khố giúp học sinh
mở cánh cửa nội dung của bài đọc. Khi giải nghĩa của từ, các tác giả đã hướng
tới sự ngắn gọn, dễ hiểu để phù hợp với từng lứa tuổi của học sinh tiểu học.
Tuy nhiên, qua khảo sát cách giải nghĩa từ ghép trong phân môn Tập đọc, chúng
tơi nhận thấy vẫn cịn những điểm chưa hợp lí trong giải nghĩa từ.
Hiểu được tầm quan trọng của việc giải nghĩa từ cho học sinh ở bậc Tiểu học,
chúng tôi tiến hành khảo sát cách giải nghĩa từ ghép sau mỗi bài Tập đọc
trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học để tìm hiểu xem trong mỗi khối
lớp, mỗi giai đoạn, giải nghĩa từ theo cách nào sẽ phù hợp với học sinh. Từ đó
đưa ra một vài ý kiến góp ý về việc giải nghĩa từ cho học sinh cấp Tiểu học.
2. Lịch sử vấn đề
Nghĩa của từ là một trong những vấn đề rộng lớn của ngơn ngữ học. Có rất
nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên,
với phạm vi của đề tài, chúng tôi tập trung vào các cơng trình nghiên cứu liên
quan đến nghĩa của từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Nhìn nhận một cách tổng qt thì các cơng trình viết về cách giải nghĩa từ
trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học cịn hạn chế. Qua khảo sát,
chúng tơi thấy phần lớn là các sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên tiểu học

về một số biện pháp giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học. Trong đó, các sáng
kiến cũng chỉ tập trung vào từng lớp cụ thể và khá rời rạc, lẻ tẻ. Các sáng kiến
kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong

7


việc giải nghĩa từ cho học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp để nâng cao
hiệu quả của việc giải nghĩa từ cho học sinh ở môn Tiếng Việt.
Bên cạnh đó, cịn có một số khố luận về cách giải nghĩa từ trong sách giáo
khoa cấp Tiểu học, như:
- Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Lại (2013), khảo sát về Cách giải
nghĩa từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học (mục giải nghĩa từ),
ĐHKHXHNV, Hà Nội.
- Khoá luận tốt nghiệp của Vũ Thị Oanh (2005), Khảo sát một số đặc trưng
sử dụng từ ngữ trong sách giáo khoa Tiếng Việt bậc Tiểu học, ĐHKHXHNV,
Hà Nội.
Đánh giá các cơng trình nghiên cứu trước đó, chúng tơi nhận thấy những
vấn đề cần phải được làm rõ hơn, như:
- Những cách giải nghĩa từ phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh
tiểu học.
- Những bất cập trong cách giải nghĩa từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt
cấp Tiểu học hiện nay.
- Đề xuất cách giải nghĩa từ trong các bài đọc để đạt hiệu quả cao nhất cho
học sinh tiểu học.
Các vấn đề đó chúng tơi sẽ tập trung giải quyết trong đề tài: Khảo sát cách
giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Cách giải thích nghĩa của từ ghép trong phân môn Tập đọc của sách giáo

khoa Tiếng Việt tiểu học chương trình hiện hành (từ lớp 2 đến lớp 5).
Sở dĩ chúng tôi không khảo sát cách giải nghĩa từ ở lớp 1 vì sách Tiếng
Việt lớp 1 chưa có giải nghĩa từ. Đây là giai đoạn học sinh mới bắt đầu làm
quen với âm và chữ. Đến học kì hai của lớp 1, tương ứng với sách Tiếng Việt

8


lớp 1, tập hai, sách đưa ra một số từ khó trong bài đọc nhưng cũng chưa có
phần giải nghĩa từ. Vì thế, chúng tơi chỉ tiến hành khảo sát cách giải nghĩa của
từ ghép trong các bài đọc từ lớp 2 đến lớp 5.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát cách giải nghĩa của từ ghép sau mỗi bài đọc (trong phân môn
Tập đọc) của sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học (từ lớp 2 đến lớp 5)
theo chương trình 2000 (gọi là sách hiện hành).
- Từ điển Tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên.
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu cách giải nghĩa của từ ghép sau mỗi bài đọc trong sách giáo khoa
Tiếng Việt cấp Tiểu học. Từ đó nhận xét, đánh giá về mức độ phù hợp (sự
hợp lí) trong cách giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học trong từng khối lớp.
Giúp cho việc giải thích nghĩa của từ chính xác, phù hợp với nội dung bài
đọc và phù hợp với học sinh tiểu học.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài hi vọng góp thêm tiếng nói, cách nhìn cho
cơng việc của những bộ phận nghiên cứu nghĩa của từ nói chung và nghĩa của
từ trong các bài đọc trong sách giáo khoa cấp Tiểu học nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài hi vọng khắc phục được những hạn chế trong
cách giải nghĩa của từ sau mỗi bài đọc. Từ đó, giúp tăng cường và nâng cao

chất lượng dạy học tiếng Việt trong nhà trường tiểu học.
Kết quả khảo sát của đề tài có thể là nguồn tư liệu cho các tác giả biên soạn
từ điển cho học sinh phổ thơng.
Ngồi ra, đề tài sẽ góp phần cung cấp tư liệu cho một bộ phận những người
đang và sẽ nghiên cứu về nghĩa của từ trong sách giáo khoa ở trường tiểu học,
đặc biệt là cho giáo viên đứng lớp.

9


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê và phân loại: được vận dụng trong việc
thu thập, xử lí các từ ghép được giải nghĩa sau mỗi bài Tập đọc trong sách
Tiếng Việt cấp Tiểu học.
- Phương pháp miêu tả: trên cơ sở phân loại, chúng tôi tiến hành miêu tả
các đặc điểm của từ ghép.
- Phương pháp phân tích cấu trúc, ngữ nghĩa: từ tư liệu đã thống kê, phân loại,
chúng tơi đưa ra những nhận xét, phân tích, đánh giá về cách giải nghĩa từ.
- Phương pháp so sánh: chúng tôi dùng để so sánh những điểm giống và
khác nhau về cách giải nghĩa của từ ghép ở trong sách giáo khoa Tiếng Việt
với cách giải nghĩa từ ghép trong từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên
(từ điển tường giải).
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm ba chương với nội dung sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài. Ở chương này, chúng tơi
trình bày quan điểm của các tác giả về từ và từ trong tiếng Việt, phương thức
cấu tạo từ tiếng Việt, nghĩa của từ và các cách giải nghĩa từ. Đồng thời trình

bày về các căn cứ giải nghĩa từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Chương 2: Kết quả khảo sát định lượng cách giải nghĩa từ ghép trong sách
giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học. Chương này chúng tơi trình bày kết quả
khảo sát định lượng cách giải nghĩa từ ghép phân nghĩa và từ ghép hợp nghĩa
sau mỗi bài Tập đọc trong sách Tiếng Việt từ lớp 2 đến lớp 5. Sau đó, chúng
tơi tiến hành so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong cách giải

10


nghĩa từ ghép ở sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học với cách giải nghĩa từ
ghép ở từ điển tường giải.
Chương 3: Các cách giải nghĩa từ ghép trong sách giáo khoa Tiếng Việt
cấp Tiểu học. Trong chương này, chúng tơi sẽ tiến hành nhận xét, phân tích
những điểm hợp lí, chưa hợp lí (chung nhất) của việc giải nghĩa từ sau mỗi
bài đọc trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học. Sau đó, chúng tơi đánh
giá những ưu điểm và hạn chế của từng cách giải nghĩa. Và cuối cùng là đưa
ra một số đề xuất về cách giải nghĩa từ cho học sinh ở từng khối lớp của cấp
Tiểu học.

11


Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét sơ lƣợc về từ trong tiếng Việt
Tiếng Việt thuộc hệ ngơn ngữ phân tích tính (hay ngơn ngữ đơn lập tính), được
nói trong sự phân biệt với các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ tổng hợp tính (hay
ngơn ngữ đa âm). Đặc tính lớn nhất của ngôn ngữ đơn lập (như tiếng Việt, tiếng
Hán, tiếng Thái,…) là tính khơng biến đổi hình thái của từ trong phát ngơn/ câu
khi nói/ viết. Do đó, tồn bộ các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp của từ trong

câu khơng được thể hiện qua hình thái của từ (vì từ khơng biến đổi hình thái), mà
qua hư từ và qua trật tự từ trong phát ngôn/ câu. Mặt khác, hầu hết âm tiết (hay
tiếng là thành tố cấu tạo từ) trong tiếng Việt đều có nghĩa và có chức năng khu biệt
nghĩa và chúng được viết rời trong các từ đa tiết nên chúng được nhiều nhà Việt
ngữ học coi là hình vị tạo từ. Đúng như I.P. Ivanov đã nói, sự khác nhau giữa các
ngơn ngữ về mặt loại hình khiến cho khơng thể có một định nghĩa từ cụ thể thoả
mãn tất cả các ngôn ngữ và trong mỗi nhóm ngơn ngữ và có thể cả trong từng
ngơn ngữ từ phải có một định nghĩa riêng.
Vậy, từ trong tiếng Việt có diện mạo như thế nào hay được quan niệm và
miêu tả ra sao?
Hiện các nhà Việt ngữ trong và ngồi nước có những quan niệm khác nhau
về từ, song chưa có một quan niệm nào đủ thuyết phục đối với người đọc, cả
về cơ sở lí thuyết lẫn thực tiễn cấu trúc và hành chức của tiếng Việt, trừ
những quan niệm của Nguyễn Kim Thản và cố gắng chưa hoàn hảo của Đỗ
Hữu Châu nhằm thoát ra khỏi những cách kiến giải nhập nhằng, luẩn quẩn
của Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp và một vài nhà nghiên cứu khác,…
Riêng Cao Xuân Hạo thì khá nhất quán và dứt khoát trong lập luận về từ
trong tiếng Việt, nhưng cái cách thuyết giải của ông lại khó vận dụng vào
thực tế hoạt động của từ tiếng Việt một cách suôn sẻ.

12


Nguyễn Tài Cẩn cho rằng chỉ những tiếng độc lập mới được coi là từ. Theo
ông, tiếng với tiếng kết hợp lại với nhau được gọi chung là tổ hợp. Trong đó,
có tổ hợp tự do (bàn trịn, học bài, gió thổi,…) và tổ hợp cố định (bù nhìn, cà
phê, đất đai,…). Dựa vào mặt cấu tạo từ, Nguyễn Tài Cẩn phân biệt từ đơn và
từ ghép: từ đơn chỉ gồm một tiếng; từ ghép ít nhất do hai tiếng kết hợp với
nhau theo một loại quan hệ nhất định. Quan niệm về “từ ghép” của ông không
giống với nhiều nhà Việt ngữ khác. Từ ghép mà Nguyễn Tài Cẩn nói tới là

một loại tổ hợp cố định, bao gồm cả những từ đa âm như: cà phê, axít, bù
nhìn, châu chấu,…
Nếu Nguyễn Tài Cẩn dựa vào tiêu chuẩn độc lập/ không độc lập để phân
biệt tiếng độc lập với tiếng không độc lập và chỉ coi từ là những tiếng độc lập,
thì Cao Xuân Hạo lại coi mỗi tiếng là một từ. Như thế, theo quan điểm của
Cao Xuân Hạo thì âm tiết trùng với hình vị và trùng với cả từ. Chính vì thế
mà người ta nói đến hiện tượng “một thể ba ngôi” trong tiếng Việt.
Nguyễn Kim Thản cho rằng từ là những đơn vị có sẵn trong ngơn ngữ. Ơng
định nghĩa từ như sau: “Từ là đơn vị cơ bản của ngơn ngữ, có thể tách khỏi
các đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn
chỉnh về ý nghĩa (từ vựng hoặc ngữ pháp) và cấu tạo” [22; tr. 33].
Trong khi đó, Đỗ Hữu Châu lại đưa ra một định nghĩa khác “Từ của tiếng
Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ
pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu
ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [4; tr. 16].
Hồ Lê thì định nghĩa về từ như sau: “Từ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng
định danh phi liên kết hiện thực, hoặc chức năng mơ phỏng tiếng động, có khả
năng kết hợp tự do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về nghĩa”
[14; tr. 104].
Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng chỉ những tiếng như: bàn, ghế, đi, cười,
tốt, đẹp,… mới được coi là từ, những đơn vị từ vựng do tiếng kết hợp với
13


tiếng mà thành như: xe đạp, máy tiện,… không coi là từ. Để có được kết luận
đó, ơng đã căn cứ vào nhiều mặt của từ như: mặt ngữ âm, mặt chính tả, mặt
ngữ pháp, mặt ngữ nghĩa. Từ đó, Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa về từ như
sau: “Từ tiếng Việt là đơn vị có nghĩa nhỏ nhất, có tính hoàn chỉnh và khả
năng tách biệt khỏi các đơn vị khác; nó có hình thức một âm tiết, một chữ viết
liền” [10; tr. 125].

Từ những phân tích đặc điểm cấu tạo và hoạt động của từ trong tiếng Việt,
chúng tôi cho rằng: Từ tiếng Việt là đơn vị cơ bản, có sẵn hoặc được tạo ra từ
các đơn vị có sẵn, đơn nhất về hình thức và ý nghĩa, có thể độc lập thực hiện
chức năng định danh (khi là yếu tố tiềm tàng trong hệ thống ngôn ngữ) và có
tính độc lập, kết hợp tự do khi thực hiện chức năng thông báo và chức năng
làm thành phần câu (khi là các yếu tố của hệ thống hành chức của ngôn ngữ).
Để làm căn cứ cho luận văn, chúng tôi tạm thời chấp nhận định nghĩa sau
đây về từ tiếng Việt: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định,
bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu
cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong
tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [3; tr. 471].
1.2. Đơn vị cấu tạo và phƣơng thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
1.2.1. Đơn vị cấu tạo
Có nhiều quan niệm khác nhau về đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt. Đơn vị
cấu tạo từ tiếng Việt có thể là các tiếng/ âm tiết/ hình vị,… tuỳ theo cách
tiếp cận của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Chẳng hạn, Nguyễn Tài Cẩn
cho rằng, tiếng là đơn vị cấu tạo từ, mỗi một tiếng “chính là một đơn vị gốc
– một hình vị của ngữ pháp tiếng Việt” [1; tr. 13]. Về phương diện ý nghĩa,
tiếng có thể chia thành hai loại: tiếng tự thân có nghĩa (cây, cỏ, sông,
núi,…) và tiếng tự thân vô nghĩa (chã, khứa, khựa,…). Về phương diện
cách dùng, có thể chia thành tiếng độc lập và tiếng không độc lập. Vũ Đức

14


Nghiệu cũng cùng quan điểm của Nguyễn Tài Cẩn khi cho rằng “đơn vị cơ
sở để cấu tạo từ tiếng Việt là các tiếng” [2; tr. 161]. Trong khi đó, Nguyễn
Thiện Giáp lại cho rằng, trong tiếng Việt, mỗi từ là một âm tiết. Và Đỗ
Hữu Châu thì cho rằng, đơn vị cơ sở để cấu tạo từ là các hình vị. Cùng với
quan điểm của Đỗ Hữu Châu về đơn vị cấu tạo của từ, tác giả Hữu Đạt

cũng cho rằng “xét về mặt cấu tạo, từ là đơn vị được hình thành nhờ việc
kết hợp các hình vị lại với nhau” [6; tr. 64].
Trong luận văn, chúng tôi dựa vào quan điểm của Đỗ Hữu Châu về đơn vị
cấu tạo từ tiếng Việt là các hình vị. Nó là những yếu tố không thể phân chia
thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà có nghĩa.
1.2.2. Phương thức cấu tạo
Đỗ Hữu Châu cho rằng, phương thức tạo từ chính là cách thức mà ngơn
ngữ tác động vào hình vị để cho ra các từ. Với cách thức đó, tiếng Việt sử
dụng ba phương thức: từ hố hình vị, ghép hình vị và láy hình vị để cấu tạo từ
[4; tr. 27].
Như vậy, về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt được chia thành:
Từ đơn → Phương thức từ hoá
Từ phức: Từ láy → Phương thức láy
Từ ghép → Phương thức ghép
* Từ đơn
Từ đơn là những từ một hình vị. Về mặt ngữ nghĩa, các từ đơn không lập
thành những hệ thống có một kiểu ngữ nghĩa chung. Chúng ta lĩnh hội và ghi
nhớ từng từ riêng rẽ. Đa số các từ đơn thuần Việt hay đã Việt hoá là từ đơn
một âm tiết. Ví dụ: sơng, núi, vui, buồn,… Với những đặc trưng ngữ nghĩa đó,
chúng sẽ được dùng để cấu tạo hàng loạt từ phức.
Xét trên quan điểm đồng đại, có một số từ đa âm thuần Việt, trong đó các
âm tiết đều khơng có nghĩa/ hoặc mất nghĩa như: bù nhìn, bồ các, chèo bẻo,

15


ác là, mắc cọt, mồ hơi, bồ hóng, mà cả,… cũng có thể được coi là từ đơn
(thực ra những từ này xét theo nguồn gốc chưa hẳn là từ đơn). Có thể trước
kia chúng là từ phức (bù/ bồ: con, cả (mặc cả): giá), song hiện nay cả hai hình
vị đều mất nghĩa. Vì thế, xếp chúng vào từ đơn cũng không ảnh hưởng

nghiêm trọng đến nguyên tắc phân loại mà còn phù hợp với đặc điểm hoạt
động hiện nay của chúng. Đại bộ phận các từ vay mượn từ ngơn ngữ Ấn –
Âu: a pa tít, a xít, cà phê, lăc lê, mô tô, ô tô,… là những từ đơn đa âm; một số
các từ đơn đa âm này theo quy tắc rút gọn, rụng bớt một số âm tiết, âm tiết
cịn lại được từ hố (và sau đó hình vị hố) thành từ đơn một âm tiết (ni lon
→ lon, cà phê → cà…) được dùng chủ yếu trong ngơn ngữ nói.
Luận văn khơng khảo sát từ đơn nhưng lấy căn cứ của Đỗ Hữu Châu để
làm cơ sở phân loại. Theo đó, các từ như bù nhìn, bồ các, chèo bẻo, ác là,
mắc cọt, mồ hơi, bồ hóng, mà cả,… hoặc a pa tít, a xít, cà phê, mô tô, ô tô,…
nếu xuất hiện ở phần giải nghĩa từ sau các bài Tập đọc trong sách giáo khoa
Tiếng Việt cấp Tiểu học, chúng tôi sẽ không xét đó là từ ghép.
* Từ phức
Với từ phức, dựa vào phương thức cấu tạo từ, được chia thành hai loại: từ
láy và từ ghép.
a) Từ láy
Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức
lặp lại tồn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với thanh điệu giữ nguyên hay
biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai
nhóm, gồm nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh
huyền, thanh ngã, thanh nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa [4; tr. 40].
Các từ láy có thể phân thành từ láy đôi, từ láy ba hoặc từ láy bốn. Trong từ
láy đôi, dựa vào cái được giữ lại trong âm tiết của hình vị cơ sở, các từ láy đơi
được chia thành từ láy toàn bộ và bộ phận (gồm có láy âm và láy vần).

16


Luận văn cũng không khảo sát từ láy nhưng lấy căn cứ của Đỗ Hữu Châu
để làm cơ sở phân loại. Theo đó, các từ như xanh xanh, đo đỏ, chải chuốt, lắc
lư, bối rối, nhấp nhem, lon xon, ngạo nghễ,… nếu xuất hiện ở phần giải nghĩa

từ sau các bài Tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng Việt cấp Tiểu học, chúng
tơi sẽ khơng xét đó là từ ghép.
b) Từ ghép
Từ ghép được tạo thành do hai hoặc một số hình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách
biệt, riêng rẽ, độc lập đối với nhau kết hợp lại với nhau [4; tr. 54]. Theo Đỗ
Hữu Châu, nếu căn cứ vào tính chất hình vị của từ ghép thì từ ghép tiếng Việt
có hai loại là từ ghép hư và từ ghép thực. Trong đó, từ ghép hư là những từ
khơng có nghĩa của sự vật, hoạt động hay tính chất. Nó chỉ có vai trị để tạo
sự liên kết (kết nối) trong câu. Còn từ ghép thực là những từ có nghĩa sự vật,
hoạt động và tính chất. Vì thế, trong luận văn, chúng tôi chỉ giới hạn ở việc
khảo sát nghĩa của các từ ghép thực.
Từ ghép thực sẽ được phân thành hai kiểu: từ ghép hợp nghĩa và từ ghép
phân nghĩa. Cách gọi hợp nghĩa và phân nghĩa của Đỗ Hữu Châu nhằm nêu
bật cơ chế tạo nghĩa của hai kiểu này.
b1) Từ ghép hợp nghĩa do hai hình vị tạo nên theo quan hệ bình đẳng về nghĩa.
Trong đó “khơng có hình vị nào là hình vị chỉ loại lớn, khơng có hình vị nào là
hình vị phân nghĩa. Các từ ghép này không biểu thị những loại (sự vật, hiện tượng,
tính chất) nhỏ hơn; trái lại, chúng biểu thị những loại rộng hơn, lớn hơn, bao trùm
hơn so với loại của từng hình vị tách riêng. Hai hình vị kết hợp với nhau để tạo
nên từ ghép hợp nghĩa phải cùng một phạm trù ngữ nghĩa (cùng là sự vật, hoạt
động hoặc tính chất,…) và phải đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với nhau, hoặc cùng
chỉ những sự vật, hiện tượng có quan hệ cùng cấp” [4; tr. 504].
Ví dụ: bạn hữu, nhà cửa, quần áo, đêm ngày, nói cười, đợi chờ, đi đứng,
buồn vui, thuốc thang, tươi sáng,…

17


Đỗ Hữu Châu chia từ ghép hợp nghĩa thành ba kiểu nhỏ:
- Từ ghép hợp nghĩa tổng loại: ý nghĩa của cả từ ghép chỉ một loại lớn, mỗi

hình vị biểu thị chỉ là những loại nhỏ tiêu biểu. Ví dụ: ếch nhái lớn hơn loại
ếch, lớn hơn loại nhái, gồm cả cóc, ễnh ương, chẫu chuộc,…
Các ví dụ khác như: ông bà, anh em, cha mẹ, cam quýt, quần áo, hổ báo,
gà vịt, buôn bán, giảng dạy, đi đứng, phải trái, trắng đen, nội ngoại,…
- Từ ghép hợp nghĩa chuyên chỉ loại: nghĩa không chỉ loại lớn bao trùm lên
nghĩa loại của hình vị mà ý nghĩa của nó tương đương với ý nghĩa loại của loại
hình vị. Ví dụ: chợ búa vẫn là chợ nói chung (búa tiếng cổ cũng có nghĩa là
chợ). Hay như: đường sá, phố sá, viết lách, bạn hữu, làm ăn, ăn nói, ăn mặc,…
- Từ ghép hợp nghĩa bao gộp: là những từ ghép khơng có nghĩa tổng loại,
khơng chun chỉ loại mà biểu thị sự vật, hoạt động hay tính chất thường đi
với nhau thành cặp đơi. Ví dụ: gang thép, điện nước, vợ con, thầy trị,…
Đối với luận văn thì các đơn vị đáp ứng được các tiêu chí sau thì được gọi
là từ ghép hợp nghĩa:
- Được cấu tạo từ hai hình vị, trong đó khơng có hình vị nào là hình vị chỉ
loại lớn, khơng có hình vị nào là hình vị phân nghĩa. Các từ ghép này khơng
biểu thị những loại (sự vật, hoạt động, tính chất) nhỏ hơn, trái lại chúng biểu
thị những loại rộng hơn, lớn hơn, bao trùm hơn so với loại hình của từng hình
vị tách riêng.
- Hai hình vị kết hợp với nhau để tạo nên một từ ghép hợp nghĩa phải
cùng thuộc một phạm trù ngữ nghĩa (cùng chỉ sự vật/ hoạt động/ tính chất/
số lượng,…) và phải/ hoặc đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa nhau,… có quan hệ
cùng cấp.
b2) Từ ghép phân nghĩa, theo Đỗ Hữu Châu thì đó “là những từ ghép được
cấu tạo từ hai hình vị (hay đơn vị) theo quan hệ chính phụ, trong đó có một
hình vị chỉ loại lớn (sự vật, hoạt động, tính chất) và một hình vị có tác dụng
phân hố loại lớn đó thành những loại nhỏ hơn cùng loại nhưng độc lập đối với

18



nhau và độc lập với loại lớn. Các từ ghép phân nghĩa lập thành những hệ thống
gồm một số từ thống nhất với nhau nhờ hình vị chỉ loại lớn” [4; tr. 56].
Các từ ghép phân nghĩa được Đỗ Hữu Châu phân chia thành các kiểu nhỏ sau:
- Các từ ghép phân nghĩa một chiều: là những từ ghép chỉ có một hình vị
chỉ loại lớn. Các từ ghép loại này lại có các kiểu nhỏ hơn:
+ Từ ghép phân nghĩa biệt nghĩa, có hình vị thứ hai hồn tồn tách biệt,
khơng có sự đồng nhất nào về nghĩa với hình vị chỉ loại lớn. Ví dụ: máy tiện,
máy bơm, máy nổ,… xe đạp, xe hơi, xe hoả,… làm duyên, làm dáng,…
+ Các từ ghép phân nghĩa đẳng nghĩa, khi dùng một mình (dùng độc lập)
các hình vị thì cũng mang ý nghĩa của hình vị lớn. Ví dụ: cá rô, cá diếc, cá
trắm,… cây táo, cây bưởi, cây cam,…
+ Các từ ghép phân nghĩa có các hình vị đồng nghĩa với nhau, có tác dụng
sắc thái hố các hình vị chỉ loại lớn. Ví dụ: xanh lè, xanh rì, xanh om, thẳng
đuột, thẳng đơ, thẳng tắp,…
- Các từ ghép phân nghĩa hai chiều là những từ ghép mà cả hai hình vị (hay
đơn vị) vừa có tính chất chỉ hình vị loại lớn, vừa có tính chất hình vị phân
nghĩa. Do đó, hình vị này phân nghĩa cho hình vị kia và ngược lại.
Ví dụ: đảng viên, đồn viên, đội viên, hội viên, đảng uỷ, đảng bộ, đảng
đoàn,… quốc hữu hố, tập thể hố, cơ khí hố, đội trưởng,…
Trong luận văn, chúng tôi không phân ra từng loại nhỏ của từ ghép phân
nghĩa như thế. Đối với luận văn thì các đơn vị (các từ) đáp ứng được các tiêu
chí sau thì được gọi là từ ghép phân nghĩa:
- Được cấu tạo từ hai hình vị (hay đơn vị) theo quan hệ chính phụ, trong đó
có một hình vị chỉ loại lớn (sự vật, hoạt động, tính chất) và một hình vị có tác
dụng phân hố loại lớn đó thành những loại nhỏ hơn cùng loại nhưng độc lập
đối với nhau và độc lập với loại lớn.

19



- Những từ ghép mà cả hai hình vị vừa có tính chất hình vị chỉ loại lớn vừa
có tính chất hình vị phân nghĩa. Do đó, hình vị này phân nghĩa cho hình vị kia
và ngược lại.
- Các từ ghép có tác dụng sắc thái hố các hình vị chỉ loại lớn, giống các từ
láy sắc thái hoá điển hình.
Như vậy, ở luận văn này, chúng tơi chọn phạm vi khảo sát là từ ghép. Tuy
nhiên, trong phần khảo sát, chúng tôi không chia từ ghép phân nghĩa và từ
ghép hợp nghĩa thành các kiểu nhỏ như của Đỗ Hữu Châu mà gộp tất cả các
kiểu loại nhỏ lại và gọi chung là từ ghép phân nghĩa và từ ghép hợp nghĩa.
1.3. Nghĩa và giải nghĩa từ tiếng Việt
1.3.1. Quan niệm về nghĩa của từ tiếng Việt
Nghĩa của từ là một trong những khái niệm thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu tiếng Việt. Tuỳ theo mục đích và phương pháp luận của
việc nghiên cứu mà có những quan niệm khác nhau về nghĩa của từ.
Dựa vào tính chất hai mặt của ngơn ngữ, F. de Saussure cho rằng nghĩa là cái
được biểu hiện. Cùng quan điểm này, Hữu Đạt viết: “nghĩa của từ được hiểu là
các mặt nội dung bên trong của từ dưới một dạng cấu tạo hay hình thức nào
đó” [6; tr. 78]. Tiếp đó, St. Ullman lại cho rằng “nghĩa của từ là mối liên hệ liên
tưởng giữa âm thanh của từ – name và nội dung khái niệm sense của nó” [Dẫn
theo 9; tr. 120]. Cả F. de Sausse và St. Ullman đều cùng quan điểm cho rằng
“nghĩa của từ là những quan hệ, nhưng không phải quan hệ giữa từ với đối
tượng mà là liên hệ giữa từ và khái niệm, biểu tượng” [9; tr. 120].
Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng nghĩa của từ ở ngơn ngữ nào chính là tư
tưởng của người nói tiếng đó. Đinh Văn Đức cho rằng “Từ vựng là hình ảnh
của thế giới thực tại được thu nhỏ qua ngôn ngữ của một cộng đồng” [7; tr.
136]. Và như thế, nghĩa của từ (từ vựng) là kết quả của sự phản ánh thực tại

20



qua cách thức tiếp cận của người bản ngữ. Nghĩa của từ khi đó chính là sự
phản ánh tư duy của người bản ngữ.
Lê Quang Thiêm cho rằng: “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần trừu
tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện
chức năng công cụ của giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức năng cụ
thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, diễn ngôn. Nghĩa
của ngôn ngữ thể hiện trong mọi hình thức tồn tại của tín hiệu nên ngữ nghĩa
học và nghĩa của tín hiệu phải được xem xét ở loại đơn vị có thuộc tính tín
hiệu, đặc biệt là ở dạng trừu tượng của các hình thức thể hiện tín hiệu. Nghĩa
là một thực thể tinh thần tức là một hình thức do con người và bởi con người
cấu tạo, sử dụng ngôn ngữ như một loại phương tiện, công cụ nên quan điểm
chức năng phải được xem là nòng cốt trung tâm của kiến giải nghĩa” [21; tr. 86].
Theo ơng, trong việc phân biệt với hình thức của cái biểu hiện, bình diện nội
dung (nghĩa) – cái được biểu hiện thường rất trừu tượng. Nghĩa là một thực
thể tinh thần, nó thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, diễn giải của người nói,
người bản ngữ thơng qua quy ước và giao tiếp xã hội, vì thế để phân biệt
nghĩa khơng phải là việc dễ.
Ơng đã phân ra thành ba tầng nghĩa và sáu kiểu nghĩa từ vựng:
- Tầng nghĩa trí tuệ: nghĩa biểu niệm (khái niệm khoa học) và nghĩa biểu
hiện (ý niệm quy ước, giá trị hệ thống).
- Tầng nghĩa thực tiễn: Nghĩa biểu thị và nghĩa biểu chỉ.
- Tầng nghĩa biểu trưng: Nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng [21; tr. 123].
Vũ Đức Nghiệu lại chỉ ra rằng “nghĩa của từ là những liên hệ phản ánh,
mang tính quy ước, được xây dựng bởi những cộng đồng người bản ngữ” [2;
tr. 187]. Vì thế, khi học nghĩa của một từ, ta thường có sự gắn kết, liên tưởng
từ đó với những sự vật, hiện tượng, hành động,… mà từ gọi tên. Nếu Lê
Quang Thiêm cho nghĩa của từ là một thực thể tinh thần trừu tượng thì Vũ

21



×