Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ảnh hưởng của một số đặc điểm kinh tế – xã hội lên khối lượng chất thải rắn sinh hoạt hộ gia đình không kinh doanh trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.97 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - </b>


<b>XÃ HỘI LÊN KHỐI LƯỢNG CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT </b>



<b>HỘ GIA ĐÌNH KHÔNG KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN </b>


<b>THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT </b>



<b>Phạm Thị Thùy Trang, Nguyễn Thị Xuân Hạnh </b>
<i>Trường Đại học Thủ Dầu Một </i>


<b>TÓM TẮT </b>


<i>Để xây dựng chiến lược quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) hiệu quả, ngoài việc </i>
<i>nắm được khối lượng phát sinh hằng ngày, cần thiết phải xác định những yếu tố chính tác </i>
<i>động lên q trình phát sinh đó. Có nhiều nghiên cứu kết luận rằng khối lượng CTRSH </i>
<i>phát sinh hằng ngày trên mỗi hộ gia đình tương quan với một số đặc điểm kinh tế xã hội </i>
<i>như thu nhập, trình độ học vấn, thói quen tiêu dùng và số thành viên của hộ. Trong nghiên </i>
<i>cứu này, chúng tôi đã tiến hành xác định khối lượng CTRSH trung bình phát sinh mỗi ngày </i>
<i>trên mỗi hộ gia đình khơng kinh doanh trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, đồng thời </i>
<i>dùng phân tích hồi quy để phân tích ảnh hưởng của số đặc điểm kinh tế xã hội lên khối </i>
<i>lượng phát sinh đó. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trung bình một ngày mỗi hộ gia đình </i>
<i>khơng kinh doanh phát sinh 0,6 kg CTRSH, trong đó phần lớn là thành phần chất hữu cơ </i>
<i>(61%). Kết quả hồi quy cho thấy thu nhập càng tăng thì khối lượng CTRSH ngày càng </i>
<i>giảm, trong khi đó số người trong hộ lại là một yếu tố làm gia tăng khối lượng CTRSH mỗi </i>
<i>ngày. Nghiên cứu là nền tảng định hướng cho công tác quản lý chất thải rắn trên địa bàn, </i>
<i>cũng như làm nền tảng cho nhiều nghiên cứu trong tương lai. </i>


<i><b>Từ khóa: </b>chất thải, sinh hoạt, hộ gia đình, kinh doanh </i>
<b>1. Giới thiệu </b>


Thành phố Thủ Dầu Một là trung tâm
hành chính, kinh tế, văn hóa của tỉnh Bình


Dương, nơi có tốc độ phát triển kinh tế, xã
hội rất nhanh. Song song với điều kiện
sống tốt là sự phát sinh chất thải rắn sinh
hoạt không thể tránh khỏi, lượng rác ngày
càng tăng khi nhu cầu người sử dụng càng
lớn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý
hiệu quả chất thải rắn sinh hoạt phát sinh
ngày một gia tăng và đang gây áp lực quá
lớn đến môi trường. Có nhiều giải pháp
được đặt ra để giải quyết vấn đề này. Trong
đó việc quản lý từ gốc bằng cách xác định
các yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến


quá trình phát sinh là mối quan tâm chính
của nhiều nhà quản lý bởi vì nhờ đó sẽ giúp
cho các nhà quản lý có thể khoanh vùng
chính xác tác nhân ảnh hưởng và tập trung
cơng tác quản lý vào đúng các tác nhân đó,
điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả công
tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt.


Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều
nghiên cứu tiến hành phân tích các yếu tố tác
động lên q trình phát sinh CTRSH. Trong
đó, những nghiên cứu về ảnh hưởng của các
yếu tố kinh tế - xã hội của hộ gia đình (thu
nhập, trình độ học vấn, số người trên hộ)
mang lại những kết quả khả quan [5],[6].
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của nhóm yếu tố



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

này lên quá trình phát sinh CTRSH hoàn toàn
phù hợp để áp dụng nghiên cứu cho địa bàn
thành phố Thủ Dầu Một.


<b>2. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i>2.1. Chọn mẫu nghiên cứu </i>


Với tổng số hộ trên địa bàn nghiên cứu
là 45.000 hộ gia đình, tác giả tiến hành
chọn 300 hộ gia đình mẫu để tiến hành
khảo sát và cân khối lượng CTRSH phát
sinh, bởi vì theo nhiều nghiên cứu khác với
các tổng thể lớn trên 10.000 thì số mẫu cần
lấy phải từ 300 trở lên để đảm bảo về mặt
thống kê [1]. Hơn nữa 300 mẫu được chọn
cũng thỏa mãn điều kiện n > 50 + 8m, với
m là số biến độc lập được sử dụng trong
nghiên cứu, cụ thể trong nghiên cứu này số
biến độc lập là 3 biến thu nhập, trình độ
học vấn và số người trên hộ [2]. Thêm vào
đó, số hộ mẫu cần lấy phải đảm bảo là hộ
gia đình khơng kinh doanh bởi vì đề tài tiến
hành nghiên cứu ảnh hưởng của một số đặc
điểm kinh tế - xã hội lên khối lượng chất
thải rắn sinh hoạt hộ gia đình không kinh
doanh. Chúng tôi chọn 300 hộ gia đình
phương pháp chọn mẫu theo hệ thống, với
điều kiện hộ được chọn phải là hộ gia đình
khơng kinh doanh, cụ thể theo các tuyến
khảo sát trên địa bàn cứ cách 10 hộ lấy 1


hộ, hộ kế tiếp sẽ được chọn nếu hộ thứ 10
là hộ kinh doanh.


<i>2.2. Thiết kế bảng câu hỏi, phỏng vấn </i>
Với mục đích tìm ra mối tương quan
giữa khối lượng CTRSH phát sinh ở hộ gia
đình khơng kinh doanh với các yếu tố kinh
tế - xã hội như số thành viên trong gia đình,
mức thu nhập bình quân và trình độ học
vấn, nhóm tác giả đã tiến hành thiết kế
bảng câu hỏi để thu thập được đầy đủ các
thông tin cần thiết như trên. Bảng câu hỏi
bao gồm: họ và tên chủ hộ, địa chỉ, số điện
thoại liên lạc, số thành viên hiện sinh sống
trong gia đình, trình độ học vấn của từng


thành viên trong hộ. Từ thông tin về tổng
thu nhập mà hộ cung cấp trong q trình
phỏng vấn, nhóm nghiên cứu sẽ lấy tổng
thu nhập của mỗi hộ trong một tháng chia
cho tổng số người hiện đang sống trong gia
đình. Kết quả sau khi chia xong sẽ lấy ở
mức cận trên của mức thu nhập trung bình
theo niên giám thống kê tỉnh Bình Dương.


 Dưới 1.500.000


 Từ 1.600.000 – 2.500.000
 Từ 2.600.000 – 3.500.000
 Từ 3.600.000 – 4.500.000


 Trên 4.500.000


Bên cạnh đó, ý thức bảo vệ môi trường
của các hộ gia đình cũng được thể hiện
trong bảng câu hỏi nhằm xem xét liệu ý
thức về mơi trường cao có là yếu tố giúp
giảm khối lượng CTRSH ở các hộ gia đình
hay khơng. Hai câu hỏi được bổ sung vào
bảng câu hỏi là: mối quan tâm đến môi
trường, mối quan tâm đến việc phân loại
rác thải sinh hoạt.


Sau khi hoàn thành bảng hỏi, tiến hành
phỏng vấn trực tiếp 300 hộ gia đình đã chọn.
Với quy mơ nghiên cứu nhỏ, số lượng mẫu
không quá lớn (300 mẫu) và khu vực nghiên
cứu trong phạm vi gần, dễ tiếp cận, việc lựa
chọn phỏng vấn trực tiếp là phù hợp nhất.
Với các ưu điểm như dễ dàng giải thích cho
đối tượng được phỏng vấn khi trực tiếp gặp
mặt, tăng sức thuyết phục, nắm được nguyện
vọng các hộ gia đình thơng qua tiếp xúc,
phương pháp này giúp thu thập được thông
tin với mức tin cậy đạt trên 90%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

gian phỏng vấn. Nhóm nghiên cứu tiến
hành cân rác một tuần ngay sau thời gian
phỏng vấn. Rác của 300 hộ gia đình được
cân và phân loại lại vào khoảng 17h hằng
ngày, liên tục trong vòng 7 ngày từ thứ 2


đến chủ nhật để xác định khối lượng rác
trung bình/ngày/hộ gia đình. Thời gian cân
rác được sắp xếp tránh các dịp lễ, tết.


<i>2.3. Phân tích hồi quy </i>


Để phân tích ảnh hưởng của 3 biến thu
nhập, trình độ học vấn và số người trên hộ


lên khối lượng CTRSH phát sinh ở mỗi hộ
gia đình nhóm tác giả đã sử dụng phân tích
hồi quy, và tiến hành phân tích bằng phần
mềm Stata. Phương trình hồi quy như sau:


Trong đó: : hệ số tự do; , , :
Lần lượt là hệ số hồi quy riêng của từng
biến độc lập; : sai số ngẫu nhiên. Các biến
income, edu và num lần lượt được giải
thích trong bảng 1.


<i><b>Bảng 1</b>. Mơ tả các biến</i>


<b>Tên biến </b> <b>Mô tả </b> <b>Loại dữ liệu </b>


<b>Weight </b> Khối lượng CTRSH/hộ/ngày (kg) Interval data
<b>Income </b> Thu nhập bình quân/hộ (triệu VND) Nominal data
<b>Edu </b> Trình độ giáo dục của các thành viên trong hộ (1-Mẫu giáo và không đi


học, 2 - Tiểu học, 3 - Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và trung cấp,
5 - Cao đẳng, đại học, 6 – trên đại học)



Interval data


<b>Num </b> Số thành viên /hộ Ordinal data


<b>3. Kết quả và thảo luận </b>
<i>3.1. Mô tả dữ liệu </i>


<i><b>Bảng 2</b>: Mô tả các biến </i>
<i>dữ liệu bằng phần mềm </i>
<i>Stata </i>


Bảng kết quả mô tả thống kê chỉ ra rằng,
trung bình mỗi hộ có 4 thành viên với lượng
CTRSH trung bình mỗi ngày hộ gia đình
khơng kinh doanh thải ra là 0,6 kg, trong đó
hộ có lượng rác sinh hoạt thải ra ít nhất là
0,042 kg/ngày và nhiều nhất là 2,579
kg/ngày. Thu nhập bình quân của hộ gia đình
khơng kinh doanh trung bình là 4,6 triệu
đồng/tháng. Trong đó, mức thu nhập bình
quân lớn nhất là 6 triệu đồng và thấp nhất là


1,5 triệu đồng. Trình độ học vấn ở đây trung
bình là mức 4,2 – tương ứng với mức học
trung học phổ thông và trung cấp, trong đó,
mức trình độ học vấn thấp nhất là 1,5 ứng với
trình độ tiểu học và dưới tiểu học, cao nhất là
6 ứng với trình độ trên đại học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

ra mối tương quan riêng lẻ giữa khối lượng
CTRSH phát sinh (biến phụ thuộc) với mỗi
yếu tố kinh tế - xã hội, bao gồm số thành


viên trong gia đình, mức thu nhập bình
quân và trình độ học vấn (biến độc lập).
 <i>Mối tương quan giữa khối lượng CTRSH và số thành viên trong gia đình</i>


<i><b>Bảng 3:</b> Tương quan tuyến tính giữa khối lượng CTRSH và số thành viên trong gia đình </i>


Với hệ số hồi quy riêng ứng với biến độc
lập num: n = 0.0752, (p value là 0.0001 <
0.01) mối tương quan thuận được tìm thấy
giữa khối lượng CTRSH và số thành viên
trong gia đình tại mức ý nghĩa 1%. Kết luận
này trùng với kết quả dự đoán ban đầu của


nhóm nghiên cứu. Việc này được giải thích
là: khi số lượng thành viên trong gia đình
càng đơng, nhu cầu cho việc sinh hoạt, ăn
uống, sử dụng càng nhiều. Điều này đã làm
tăng khối lượng CTRSH của các hộ gia đình.
 <i>Mối tương quan giữa khối lượng CTRSH và mức thu nhập bình quân của hộ gia </i>


<i>đình </i>


<i><b>Bảng 4:</b> Tương quan tuyến tính giữa khối lượng CTRSH và thu nhập bình quân </i>


Với hệ số hồi quy riêng ứng với biến
độc lập income: <i>i</i> = -0.0648 (p value là


0.001< 0.01), mối tương quan nghịch được
tìm thấy giữa khối lượng CTRSH và mức
thu nhập bình quân của hộ gia đình tại mức
ý nghĩa 1%. Điều này trái với nghiên cứu
của hai tác giả K. Sivakumar và M.
Sugirtharan nghiên cứu ở Bắc Manmunai,
tuy nhiên, lại trùng với kết quả nghiên cứu
của tác giả Mohd. Badruddin, Fadil,
Normala and Nur Cahaya Ali nghiên cứu ở
Taman Perling, Johor Bahru [3],[4]. Như
vậy, rõ ràng mối tương quan thuận hay
nghịch chiều giữa thu nhập và khối lượng
CTRSH còn tùy thuộc vào đặc điểm của
khu vực nghiên cứu. TP. Thủ Dầu Một –


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Theo nghiên cứu mà nhóm nghiên cứu
đã trình bày, tỉ lệ CTR hữu cơ của các hộ
gia đình chiếm tới 66.1%. Các loại CTR
hữu cơ phát sinh do hoạt động ăn uống của
con người. Điều này có nghĩa là khi cắt
giảm hoạt động ăn uống tại nhà, khối lượng


CTR hữu cơ sẽ giảm. Mà trong khối lượng
CTRSH nói chung, rác thải hữu cơ chiếm
đa số, vì vậy khi khối lượng CTR hữu cơ
giảm, tổng khối lượng CTRSH của hộ gia
đình sẽ giảm theo.


 <i>Mối tương quan giữa khối lượng CTRSH và trình độ học vấn </i>



<i><b>Bảng 5</b>: Tương quan tuyến tính giữa khối lượng CTRSH và trình độ học vấn </i>


Khơng có mối tương quan riêng lẻ giữa
trình độ học vấn với khối lượng CTRSH
phát sinh. Dựa vào bảng kết quả thấy rằng
trình độ học vấn khơng ảnh hưởng đến khối
lượng CTRSH phát sinh ở mỗi hộ gia đình
về mặt thống kê (p=0.556>0.05). Kết quả
này khác hoàn toàn với các dự kiến ban đầu,
điều này cũng có thể là do giáo dục thường
chỉ làm cho khối lượng rác vô cơ giảm
xuống trong khi không làm cho thành phần
hữu cơ thay đổi bởi vì khi trình độ học vấn
càng cao, một số người dân sẽ có ý thức tái
chế, tái sử dụng; nhưng thói quen ăn uống
sinh hoạt thường ngày cái mà tạo ra rác hữu
cơ thì không bị ảnh hưởng nhiều bởi trình
độ học vấn. Kết quả khảo sát khối lượng
chất thải rắn trên địa bàn Tp. Thủ Dầu Một
đã chỉ ra rằng thành phần hữu cơ là thành
phần chính trong tổng lượng rác phát sinh
trên địa bàn với gần 70%, như vậy rõ ràng
tổng khối lượng rác phát sinh mỗi ngày trên
địa bàn sẽ không thay đổi đáng kể khi trình
độ học vấn gia tăng.


<i>3.3. Kết quả phân tích đa hồi quy </i>
<i>(Multiple Regressions) </i>


Nhằm phân tích ảnh hưởng đồng thời


của các biến độc lập lên khối lượng chất
thải rắn phát sinh trên mỗi hộ gia đình. Kết
quả t-test thể hiện rằng mức thu nhập và số


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

CTRSH tăng giảm đi 0.0714 kg, đồng thời,
khi gia đình tăng thêm 1 thành viên, lượng


CTRSH phát sinh tăng thêm 0.076 kg.
<i><b>Bảng 6:</b> Ảnh hưởng đồng thời của các biến độc lập lên khối lượng chất thải rắn phát sinh trên mỗi </i>


<i>hộ gia đình </i>


Trên thực tế còn rất nhiều yếu tố khác tác
động lên khối lượng chất thải rắn phát sinh
trên hộ gia đình, vì vậy kết quả này có thể bị
sai số do yếu tố bị thiếu biến liên quan bị bỏ
sót (omitted variables), tuy nhiên do giới hạn
đề tài nên tạm thời chấp nhận mơ hình với 3
biến liên quan được xây dựng, những nghiên
cứu sau này có thể phát triển thêm cho mơ
hình hồn thiện hơn.


<b>3. Kết luận và đề nghị </b>


Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thu
nhập và số thành viên trong hộ là những
yếu tố quyết định đến khối lượng CTRSH
phát sinh ở các hộ gia đình khơng kinh
doanh. Biến trình độ học vấn mặc dù khơng
tác động riêng lẻ nhưng nó lại <i>đồng thời </i>


cùng với 2 biến thu nhập và số người trên
hộ ảnh hưởng lên khối lượng CTRSH phát
sinh ở các hộ gia đình khơng kinh doanh
trên địa bàn TP.Thủ Dầu Một. Với kết quả
thu được từ mơ hình tốn, với mỗi hộ gia
đình khơng kinh doanh, khi thu nhập tăng
một triệu đồng thì khối lượng CTRSH giảm


đi 0.0714 kg, đồng thời, khi gia đình tăng
thêm 1 thành viên, lượng CTRSH phát sinh
tăng thêm 0.076 kg.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>THE EFFECT OF SOCIO-ECONOMIC FACTORS ON NON-BUSINESS </b>
<b>HOUSEHOLD WASTE GENERATION IN THU DAU MOT CITY </b>


Pham Thi Thuy Trang, Nguyen Thi Xuan hanh
<b>ABSTRACT </b>


<i>To develop an effective household waste management strategy, it is not only important </i>
<i>to determine the amount of the waste generation but also the dominant factors affecting the </i>
<i>waste generation. Many studies showed that the amount of waste generated is proportional </i>
<i>to the population and their income, consumption patterns and family sizse. This paper </i>
<i>presents the research finding carried out in Thu Dau Mot city, Binh Duong to determine the </i>
<i>non-business household solid-waste generation rate as well as to determine the dominant </i>
<i>factors of socioeconomic parameters influencing the waste generation of the households by </i>
<i>using Ordinary Least Square (OLS) regression. The results show that the average waste </i>
<i>generation rate was 0.6 kg/non-business household/day, with the largest component of </i>
<i>organic waste (61%). The regression result show that the amount of household waste go </i>
<i>down when income go up, while the relationship beween family size and amout of </i>
<i>household waste is positive. </i>



<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


[1] Worthington R., and Whittaker T., <i>Scale Development Research A Content Analysis and </i>


<i>Recommendations for Best Practices,</i> The Counseling Psychologist <b>36</b>(6)(2006) 806-838.
[2] Tabachnick, B.G.& Fidell, L.S.(2007).


[3] K. Sivakumar1 Và M. Sugirtharan (2010), <i>Impact of family income and size on per capita solid </i>


<i>waste generation: a case study in Manmunai North divisional secretariat division of Batticaloa</i>.


[4] Mohd. Badruddin, Mohd.Yusof1, Fadil Othman, Normala Hashim và Nur Cahaya Ali (2002),


<i>The role of socio-economic and cultural factors in municipal solid waste generation</i>.


[5] Nilanthi J. G. J. Bandara & J. Patrick A. Hettiaratchi & S. C. Wirasinghe & Sumith Pilapiiya


(2007), <i>Relation of waste generation and composition to socio-economic factors</i>.


[6] Rafia Afroz, Keisuke Hanaki và Rabbah Tuddin (2010), The Role of Socio-Economic Factors


on Household Waste Generation.


 Ngày nhận bài: 25/04/2016


 Chấp nhận đăng: 30/05/2016


<i>Liên hệ</i>: <b>Phạm Thị Thùy Trang </b>



</div>

<!--links-->

×