Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tổng quan về đầu tư điện gió, mặt trời và đề xuất cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.52 KB, 18 trang )

PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 237

TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ ĐIỆN GIÓ, MẶT TRỜI
VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Đỗ Thị Hiệp
Đại học Điện lực
Tóm tắt: Thực tế tại các quốc gia phát triển năng lượng tái tạo cho thấy nhà đầu tư dự
án điện gió và mặt trời rất đa dạng. Mỗi nhà đầu tư có nguồn lực và mục tiêu khác
nhau khi đầu tư vào lĩnh vực này. Bên cạnh nguồn vốn, con người, các yếu tố khách
quan thuộc về thể chế chính sách, trình độ phát triển cơng nghệ, điều kiện tự nhiên có
ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của nhà đầu tư trong việc lựa chọn công nghệ và
quy mô dự án. Bằng việc tổng hơp, phân tích các nghiên cứu liên quan đến hành vi của
nhà đầu tư điện gió và mặt trời trên thế giới, đặc biệt tại Đức, tác giả đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư dự án điện gió và mặt trời. Trong đó, yếu tố chính
sách được phân tích kĩ nhằm hiểu được ảnh hưởng khác nhau của mỗi loại cơ chế,
cơng cụ chính sách đến từng nhóm nhà đầu tư. Căn cứ vào đó người làm chính sách có
thể điều chỉnh cơ chế, cơng cụ chính sách định hướng nhà đầu tư đạt được mục tiêu
phát triển. Với thực tế phát triển điện gió và mặt trời ở Việt Nam, tác giả đề xuất một
số công cụ thúc đẩy phát triển đầu tư lĩnh vực này.
Từ khóa: nhà đầu tư, dự án điện gió, dự án điện mặt trời, chính sách năng lượng.
Abstract: Renewable energy development countries show that investors in wind and
solar power projects are very diverse. Each investor has different resources and goals
when investing in this area. In addition to capital resource, people, objective factors of
policy institutions, technology development level, natural conditions have a significant
influence on the decision of the investor on the choice of technology and scale of
projects. By compiling and analyzing studies related to the behavior of wind and solar
investors in the world, particular in Germany, the author evaluates the factors that
influence on the decision of investment in wind and solar power projects. In particular,
policies are carefully analyzed to understand the different effects of each type of
policy instrument to investor groups. Since then, policymakers have been able to
adjust their policy-driven tools to achieve their target. With the actual development of


wind and solar power in Vietnam, the author proposes some tools to promote
investment in this field.
Keywords: investors, wind power projects, photovoltaic projects, energy policy.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Phát triển nguồn điện từ năng lượng gió và mặt trời là xu hướng trên thế giới và
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế đó. Khai thác điện gió và mặt trời ở Việt Nam
mới ở giai đoạn khởi động, do vậy đầu tư vào các nguồn năng lượng này là cơ hội
nhưng cũng là thách thức lớn đối với các nhà đầu tư. Đó là cơ hội bởi vì nhà đầu tư
khơng phải lo giải quyết đầu ra do nhu cầu năng lượng ở Việt Nam ngày càng tăng.
Điện năng cần sản xuất đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế với tăng trưởng GDP bình


238 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017
quân ở mức 7.0%/năm giai đoạn 2016 – 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh, 2016).
Mặc dù có cơ hội lớn nhưng nguồn điện gió và mặt trời ở Việt Nam vẫn đang bước
những bước rất chậm và ngắn. Dẫn đến điều này một phần bởi các nhà đầu tư còn hạn
chế về nguồn lực, mặt khác thách thức đầu tư vào phân khúc này khá lớn, nhiều rào cản.
Tính đến cuối năm 2016, Việt Nam chỉ có 159.2 MW điện gió được lắp đặt và chưa có
điện mặt trời hịa lưới điện quốc gia [EVN, 2016].
Mặc dù cịn nhiều khó khăn và thách thức, nhưng trước thực tế nguồn năng lượng
hóa thạch đang ngày một cạn kiệt, không những thế con người đang phải đối mặt với ơ
nhiễm mơi trường từ các nguồn điện hóa thạch, để đảm bảo an ninh cung cấp điện, tận
dụng được lợi thế cơng nghệ điện gió và mặt trời ngày một rẻ và hoàn thiện, tránh sự
tăng giá của nguồn năng lượng hóa thạch trong tương lai, tăng điện gió và mặt trời,
giảm điện từ năng lượng hóa thạch trong cơ cấu nguồn điện là chính sách hợp lý. Chúng
ta khơng phủ nhận sản xuất điện từ gió và mặt trời ảnh hưởng lớn đến ổn định cung cấp
điện. Tuy nhiên, nghiên cứu trên thế giới cho thấy vấn đề này có thể dần khắc phục
bằng các giải pháp cơng nghệ.

Để từng bước tích hợp nguồn điện gió và mặt trời vào hệ thống cung cấp điện,
trước hết các quốc gia cần đề ra các con số mục tiêu trung và dài hạn. Đức là một trong
những quốc gia đi đầu về phát triển nguồn điện gió và mặt trời trên thế giới. Mục tiêu
của quốc gia này là nâng tỷ trọng điện năng từ nguồn điện tái tạo trong tổng điện năng
tiêu thụ chiếm 40 - 45% vào năm 2025, 55 – 60% vào năm 2035 và ít nhất 80% vào
năm 2050 (EEG, 2014). Việt Nam đặt mục tiêu đưa công suất nguồn điện mặt trời lên
khoảng 850 MW vào năm 2020, khoảng 4,000 MW vào năm 2025 và 12,000 MW vào
năm 2030. Tương tự, đưa tổng công suất nguồn điện gió lên 800 MW, 2,000 MW và
6,000 MW lần lượt vào các năm 2020, 2025 và 2030 (428/QĐ-TTg). Bài tốn đặt ra là
Việt Nam cần làm gì để thu hút nhà đầu tư điện gió và mặt trời nhằm đạt được mục tiêu
đề ra cả về tổng công suất và tỷ trọng đóng góp của các loại cơng nghệ. Tiếp cận vấn đề
từ kinh nghiệm thực tế tại các quốc gia có điện gió và mặt trời chiếm tỷ trọng đáng kể
trong cơ cấu nguồn điện, nghiên cứu sẽ từng bước tìm giải đáp cho các câu hỏi sau:
1. Có những nhóm nhà đầu tư điện gió và mặt trời nào? Mục tiêu và nguồn lực
của họ ra sao?
2. Hiện có những loại cơng nghệ và quy mơ điện gió và điện mặt trời nào?
3. Các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư ảnh hưởng như thế nào đến từng nhóm
nhà đầu tư?
4. Xu hướng lựa chọn cơng nghệ và quy mơ dự án của từng nhóm nhà đầu tư là
như thế nào?
Để trả lời các câu hỏi trên, nghiên cứu được chia làm 5 phần. Trong mục 2 tác giả
phân loại nhà đầu tư, xác định động lực, nguồn lực của các nhóm nhà đầu tư. Mơi
trường đầu tư, đặc biệt nhấn mạnh vai trị của cơng cụ chính sách ảnh hưởng đến quyết
định của nhà đầu tư là đối tượng nghiên cứu ở mục 3. Mục 4 giới thiệu các loại công


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 239

nghệ, quy mô dự án điện gió và mặt trời hiện nay, dự đốn xu hướng đầu tư tại Đức.
Trong mục 5, tác giả tóm tắt thực trạng đầu tư điện gió và mặt trời ở Việt Nam và đưa

ra một số đề xuất về cơ chế, cơng cụ chính sách để phát triển các nguồn điện này.
2. NHÀ ĐẦU TƯ, MỤC TIÊU VÀ NGUỒN LỰC
2.1. Phân loại nhà đầu tư

Trái ngược với nhà đầu tư dự án nguồn điện từ năng lượng hóa thạch chỉ thường
là các công ty điện lực và các công ty sản xuất điện độc lập, nhà đầu tư dự án điện gió
và mặt trời rất đa dạng. Phân loại nhà đầu tư có thể dựa vào cơ cấu vốn (Masini, et al.,
2010), chủ sở hữu, lĩnh vực kinh doanh chính (Bergek, et al., 2013), hay kinh nghiệm.
Theo báo cáo của IRENA (2015), tỷ trọng đầu tư dự án điện gió và mặt trời của các đơn
vị tư nhân chiếm trên 85%, khu vực nhà nước chỉ chiếm dưới 15%. Tại Đức, nhà đầu tư
có thể được phân nhóm như được trình bày ở Bảng 1 dưới đây (Werner, et al., 2016)
(Nelson, et al., 2016):
Bảng 1. Nhà đầu tư dự án điện gió và mặt trời tại Đức

Nhóm nhà đầu tư

Ví dụ

Các cơng ty điện lực lớn

EON, RWE, EnBW

Các cơng ty điện lực địa phương

MVV, Stadtwerke Müchen, Stadtwerke
Hamburg

Công ty xây dựng cơng trình điện quốc tế

Dong, Vattenfall, Iberdrola


Cơng ty xây dựng cơng trình điện trong nước PNE, wpd, Energiekontor, juwi
quy mơ lớn
Cơng ty xây dựng cơng trình điện trong nước Công ty xây lắp quy mô nhỏ
quy mô nhỏ
Ngân hàng quốc tế

Deutsche Bank, Commerzbank, UBS,
Morgan Stanley

Ngân hàng trong nước quy mô lớn

Commerzbank, Bayern LB, LBBW, DZ
Bank

Nhà đầu tư tổ chức

Allianz, MEAG

Nhà đầu tư nhóm tư nhân

KGAL, Capital Stage, Aquila Capital,
Blackstone

Các nhà đầu tư khác

Cơng ty gia đình, cộng đồng, mạng lưới
cá nhân

Hộ tiêu thụ cuối cùng quy mô nhỏ


Hộ gia đình, nơng dân

Hộ tiêu thụ cuối cùng quy mơ lớn

Hộ công nghiệp, thương mại

Công ty sản xuất điện độc lập

Công ty sản xuất điện độc lập


240 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TỒN QUỐC 2017
Tỷ trọng đóng góp của các nhóm nhà đầu tư trong tổng công suất lắp đặt các
nguồn điện từ năng lượng tái tạo ở Đức năm 2013 được minh họa như Hình 1 dưới đây:

Hình 1: Tỷ trọng công suất lắp đặt năng lượng tái tạo theo chủ sở hữu tại Đức (REA, 2013)

Để tiện cho nghiên cứu, tác giả phân nhóm nhà đầu tư và trình bày tại Bảng 2.
Tùy thuộc giai đoạn tích hợp, tại các quốc gia tồn tại các nhóm nhà đầu tư khác nhau và
tỷ trọng đóng góp của mỗi nhóm trong tổng cơ cấu lắp đặt nguồn điện cũng khác nhau.
Bảng 2. Các nhà đầu tư tiềm năng dự án điện gió và mặt trời

Thứ tự
1

Cấp độ 1
Cơng ty điện lực

2

3

Cấp độ 2
Công ty điện lực lớn
Công ty điện lực địa phương

4

Công ty xây dựng công Công ty xây dựng công trình điện quốc tế
trình điện
Cơng ty cơng trình điện trong nước

5

Tổ chức tài chính

6
7

Ngân hàng quốc tế
Ngân hàng thương mại trong nước

Nhà đầu tư tổ chức

Công ty bảo hiểm

8

Quỹ hưu trí


9

Quỹ tổ chức từ thiện

10

Hộ tiêu thụ cuối cùng

Hộ cơng nghiệp

11

Hộ thương mại

12

Hộ gia đình

13

Cơng ty sản xuất điện Cơng ty sản xuất điện độc lập
độc lập


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 241

2.2. Động lực của nhà đầu tư

Hầu hết nhà đầu tư dự án điện gió hoặc mặt trời mong muốn tìm kiếm lợi nhuận
từ hoạt động đầu tư của mình. Tuy nhiên, cũng có một số nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư

nếu nó góp phần phát triển xã hội, như tạo việc làm, đảm bảo nguồn cung cấp điện, bảo
vệ môi trường, hoặc hiệu quả năng lượng mặc dù có thể dự án khơng đem lại lợi nhuận
cho họ.
Tại Đức, một số nhà đầu tư bỏ tiền vào sản xuất điện gió và mặt trời vì đây là một
phần trong chuỗi dịch vụ đáp ứng nhu cầu điện năng khách hàng (một số công ty điện
lực). Đối với nhóm nhà đầu tư khác, nguồn điện gió và mặt trời đơn giản chỉ là để đáp
ứng nhu cầu năng lượng của chính họ (một số hộ gia đình, đơn vị cơng nghiệp, tịa nhà
thương mại). Nhóm khác đầu tư vào điện gió và mặt trời bởi nó góp phần giảm thiểu tác
động biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, phần lớn nhà đầu tư mong muốn tìm kiếm lợi nhuận
từ hoạt động đầu tư (Nelson, et al., 2016).
2.3. Nguồn lực của nhà đầu tư

Đối với nhà đầu tư dự án điện gió và mặt trời, nguồn lực bao gồm nguồn tài chính,
đất đai, kiến thức trình độ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm liên quan. Phần dưới
đây phân tích sự khác nhau về nguồn lực của từng nhóm nhà đầu tư.
Cơng ty điện lực
Các cơng ty điện lực thường có lợi thế nguồn tài chính nội tại so với các nhà đầu
tư khác. Ở Đức, “Big Four” là bốn công ty điện lực lớn được xem là có nguồn tài chính
tốt để đầu tư vào các nguồn điện tái tạo (Werner, et al., 2016). Các cơng ty điện lực
cũng có lợi thế về chun mơn, kĩ năng và kinh nghiệm trong xây dựng vận hành nhà
máy điện. Tuy nhiên, họ khơng có sẵn nguồn đất cho xây dựng nhà máy điện.
Công ty xây dựng công trình điện
Các cơng ty xây dựng cơng trình điện quốc tế có nguồn vốn chủ sở hữu nhất định.
Các cơng ty quy mơ nhỏ hạn chế về nguồn tài chính nội tại. Các cơng ty xây dựng cơng
trình điện khơng có đất đai cho phát triển dự án. Nhưng, vì xuất phát từ lĩnh vực hoạt
động chính là xây dựng cơng trình điện, họ có lợi thế về năng lực, kĩ năng, kinh nghiệm
liên quan đến xây dựng nhà máy điện, từ đó giảm chi phí đầu tư nhà máy điện.
Ngân hàng
Các ngân hàng có thể tiếp cận cơ hội đầu tư dự án điện gió và mặt trời cùng với
người vay vốn. Ngân hàng có lợi thế về nguồn tài chính với lãi suất thấp và kinh nghiệm

trong quản lý tài chính. Họ có thể có nguồn vốn cho đầu tư từ các khoản tiền gửi dài hạn
của các tổ chức và cá nhân. Đối với ngân hàng quốc tế, phần lớn nguồn vốn của họ là từ
các quỹ ủy thác, các khoản lời từ việc cho vay những nguồn vốn mà nó sở hữu (nguồn


242 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TỒN QUỐC 2017
vốn này được tích trữ qua nhiều năm và những đóng góp của các quốc gia thành viên)
[World Bank]. Đối với ngân hàng thương mại trong nước, họ có thể tận dụng nguồn tiền
gửi của cơng chúng để đầu tư dự án. Các ngân hàng là những nhà đầu tư khơng có lợi
thế về đất đai và thiếu chuyên môn, kĩ năng và kinh nghiệm trong xây dựng vận hành
nhà máy điện. Tuy nhiên, họ thường kết hợp với người đi vay vốn là những người có
kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực sản xuất điện.
Nhà đầu tư tổ chức
Các cơng ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ từ thiện đầu tư vào dự án điện gió hay mặt
trời dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu của tổ chức. Họ là những nhà đầu tư khơng có đất
đai và thường khơng có kĩ năng kinh nghiệm liên quan đến dự án điện. Tuy nhiên, bởi
vì nguồn quỹ có hạn, các nhà đầu tư thuộc nhóm này thường chỉ đầu tư vào các dự án có
quy mơ nhỏ và vừa, chỉ đủ khả năng đầu tư một vài nhà máy điện.
Hộ tiêu thụ cuối cùng
Đối với các hộ đầu tư quy mơ nhỏ, nguồn tài chính chủ yếu từ khoản tiết kiệm có
được (hộ dân dụng sinh hoạt, nông dân). Các hộ đầu tư quy mô lớn một phần vốn từ bản
thân doanh nghiệp, tổ chức, phần còn lại đi vay. Hộ tiêu thụ cuối cùng thường có lợi thế
về đất đai. Họ có thể lắp đặt tuabin gió hay các tấm pin năng lượng mặt trời trên chính
mái nhà hoặc mảnh đất của nhà mình, doanh nghiệp mình. Nếu quy mơ dự án lớn, họ
phụ thuộc nguồn đất từ bên ngồi. Ở Đức, tỷ trọng đóng góp của hộ công nghiệp,
thương mại, dân dụng sinh hoạt, nông dân chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu công suất lắp
đặt các nguồn điện từ năng lượng tái tạo. Như được minh họa tại Hình 1, tỷ trọng cơng
suất lắp đặt của hộ thương mại dân dụng, công nghiệp, nông dân lần lượt là 35%, 14%,
11% vào năm 2013.
Công ty sản xuất điện độc lập

Những công ty này phụ thuộc vào nguồn vốn đi vay. Họ cũng khơng có đất đai
nhưng có lợi thế về chun mơn, kĩ năng kinh nghiệm trong xây dựng vận hành các dự
án điện gió và mặt trời vì đây là lĩnh vực hoạt động chính của họ.
Tóm lại, nguồn tài chính, đất đai, trình độ chuyên môn, kĩ năng kinh nghiệm của
nhà đầu tư có ảnh hưởng đáng kể đến chi phí sản xuất điện. Tỷ lệ vốn vay càng nhiều,
lãi suất vay vốn càng cao, chi phí sử dụng vốn càng tăng. Tương tự, diện tích đất cần
thuê càng lớn, giá thuê đất càng cao, chi phí th đất càng tăng. Trình độ chun mơn
càng tốt, chi phí vận hành cố định và biến đổi có xu hướng giảm. Kĩ năng kinh nghiệm
về xây dựng cơng trình điện càng tốt, chi phí quản lý đầu tư xây dựng nhà máy càng
giảm. Kĩ năng quản lý tài chính càng tốt, chi phí sử dụng vốn càng giảm. Nghiên cứu sự
phát triển điện gió và mặt trời tại Đức, Bảng 3 dưới đây minh họa nguồn lực của các
nhóm nhà đầu tư tại Đức ở thời điểm hiện tại.


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 243

Bảng 3. Ma trận nguồn lực nội tại của các nhóm nhà đầu tư

Tài chính

Đất đai

Mạnh

Trình độ

Kĩ năng
nghiệm




kinh

1.Cơng ty điện lực
6. IPPs

Trung
bình

3. Ngân hàng
2. Cơng ty xây lắp điện
5. Hộ tiêu thụ cuối cùng

Yếu

4. Nhà đầu tư tổ chức

3. MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NHÀ ĐẦU TƯ

Cùng tồn tại trong một mơi trường vĩ mơ, nhưng ngồi yếu tố sự phát triển của
nền kinh tế quốc gia, các yếu tố như tác động từ đối thủ cạnh tranh, phía người mua
điện, thay đổi cơng nghệ, điều kiện tự nhiên, chính sách có ảnh hưởng đáng kể và khác
nhau đến nhà đầu tư.
3.1. Điều kiện tự nhiên, thay đổi công nghệ, đối thủ cạnh tranh và người mua
điện

Điều kiện tự nhiên
Đặc trưng của nguồn điện tái tạo là tiềm năng sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên.
Tốc độ gió và bức xạ mặt trời thay đổi theo thời gian trong ngày. Tiềm năng sản xuất
điện mặt trời nhiều hơn vào ban ngày và khơng có vào ban đêm. Tại Đức, hệ số cơng

suất trung bình của điện gió đất liền là 17.02% (1,490 giờ), điện gió ngồi khơi là
36.20% (3,171 giờ) và điện mặt trời là 10.82% (948 giờ) [BMWi, 2016]. Hình 2 dưới
đây minh họa nguồn điện gió và mặt trời ở Đức vào hai ngày điển hình ở hai mùa khác
nhau theo từng giờ [Fraunhofer ISE, 2016].

(a)

(b)

Hình 2: Sản xuất điện gió và mặt trời tại Đức tại ngày 06/02/2016 (a) và ngày 08/05/2016 (b)


244 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TỒN QUỐC 2017
Ngồi ra, nguồn điện từ điện gió và mặt trời cịn có một đặc trưng nữa là tính
khơng chắc chắn, khó dự đốn chính xác. Đây là rủi ro tất cả nhà đầu tư dự án năng
lượng gió và mặt trời gặp phải.
Thay đổi cơng nghệ
Thay đổi cơng nghệ đem cơ hội giảm chi phí sản xuất điện từ nguồn điện gió và
mặt trời làm tăng khả năng cạnh tranh của nguồn điện này so với nguồn điện từ năng
lượng hóa thạch. Theo cơng bố của IRENA (2016), trong đánh giá tiềm năng giảm chi
phí điện gió và mặt trời cho đến 2025, chi phí đầu tư cho điện gió đất liền năm 2015 là
khoảng 1,560 USD/kW, chi phí đầu tư cho điện gió ngồi khơi vào khoảng 4,650
USD/kW, hai con số này được dự đoán giảm xuống lần lượt là 1,370 USD/kW và 3,950
USD/kW vào năm 2025. Chi phí sản xuất điện từ năng lượng mặt trời sẽ giảm mạnh từ
1,810 USD/kW năm 2015 xuống chỉ còn 790 USD/kW vào năm 2025. Suất đầu tư cho
các nguồn điện này dao động giữa các châu lục và các quốc gia. Trung Quốc là quốc gia
có chi phí đầu tư thấp nhất. Sự phát triển công nghệ trong tương lai đem đến cơ hội sản
xuất điện gió và mặt trời với chi phí thấp đến với tất cả các nhà đầu tư đồng thời làm
tăng tính ổn định kĩ thuật trong vận hành của các nhà máy điện, giảm rủi ro kĩ thuật
công nghệ.

Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh của các nhà máy điện gió và mặt trời bao gồm các nhà máy
điện từ các nguồn điện truyền thống và các nhà máy trong cùng nhóm năng lượng tái
tạo. Hình 3 và Hình 4 dưới đây mơ tả đối thủ cạnh tranh của nguồn điện gió và mặt trời
tại Đức.

Hình 3: Tỷ trọng các loại nguồn điện tại Đức năm 2016 [BMWi, 2016]


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 245

LCOE bình quân của điện gió đất liền là 7.15 cents/kWh đủ sức cạnh tranh với
các nguồn điện từ than đá, turbin khí. Điện mặt trời lắp ở mặt đất có dải LCOE rộng và
trung bình là 10.75 cents/kWh. Bên cạnh đó, như dự báo của IRENA (2016) chi phí đầu
tư cho nguồn điện đang và sẽ giảm mạnh, do vậy nguồn điện này cũng có khả năng
cạnh tranh về chi phí so với nhiều nguồn điện khác.

Hình 4: Chi phí sản xuất điện từ các nguồn điện khác nhau tại Đức năm 2015 [VGB, 2015]

Người mua điện
Công ty điện lực là người mua điện từ các nguồn điện gió và mặt trời. Tùy thuộc
cơ chế, nếu quốc gia đó áp dụng giá FIT người mua thường có tránh nhiệm mua hết
điện năng từ nguồn điện tái tạo. Nhà máy điện gió và mặt trời khơng chịu áp lực từ phía
người mua. Nếu thị trường theo cơ chế đấu thầu, nhà đầu tư chịu áp lực chào với mức
giá thấp để nhận được quyết định đầu tư.
3.2. Ảnh hưởng của chính sách đến quyết định đầu tư

Thực tế tại các quốc gia thành công trong tăng trưởng năng lượng tái tạo cho thấy
cơng cụ chính sách có thể định hướng nhà đầu tư trong việc ra quyết định về công nghệ
và quy mô sản xuất điện. Phần dưới đây phân tích sự ảnh hưởng khác nhau của các cơng

cụ chính sách đến các nhóm nhà đầu tư.
Nhóm các cơ chế chính sách
Tiêu chuẩn năng lượng tái tạo (RES – renewable energy standards): yêu cầu công
ty điện lực một tỷ lệ đầu tư nhất định vào nguồn điện tái tạo trong tổng đầu tư. Công cụ
này được áp dụng tại 35 quốc gia trên thế giới (Sawin J., Seyboth K., 2017). Như vậy,
cơ chế này chỉ tác động đến các cơng ty điện lực, các nhóm nhà đầu tư cịn lại khơng
chịu ảnh hưởng.


246 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017
Chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC – renewable energy certificates): một chứng
chỉ tương đương với một đơn vị điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo. Mỹ,
Trung Quốc, Ấn Độ, Úc… hiện đang áp dụng công cụ này. Các công ty điện lực nếu
không đầu tư đủ vào năng lượng tái tạo theo yêu cầu có thể mua chứng chỉ này từ các
đơn vị không bắt buộc phải đầu tư. Như vậy, cơ chế này tác động trực tiếp đến công ty
điện lực giống như tiêu chuẩn năng lượng tái tạo, nhưng nó cho phép công ty điện lực
linh hoạt hơn trong lựa chọn cơng nghệ sản xuất điện để đầu tư. Ngồi ra, bên cạnh bán
điện năng cho người mua điện, các nhà đầu tư khác có thể bán chứng chỉ năng lượng tái
tạo cho công ty điện lực.
Công tơ hai chiều (Net metering): đo sản lượng điện hộ tiêu thụ hòa lưới khi thừa
và lấy ra khi thiếu. Cơ chế này hiện đang được áp dụng tại 55 quốc gia (Sawin J.,
Seyboth K., 2017). Cơ chế cơng tơ hai chiều có ý nghĩa đặc biệt đối với nhóm nhà đầu
tư hộ tiêu thụ cuối cùng, đặc biệt là hộ quy mô nhỏ.
Biểu giá bán điện FIT (Feed-in tariff): giá bán điện năng (tariff) sản xuất từ nguồn
năng lượng tái tạo được cung cấp vào (feed-in) hoặc bán cho lưới điện. Giá FIT hiện
được áp dụng tại 83 quốc gia (Sawin J., Seyboth K., 2017). Giá FIT thường được quy
định khác nhau tùy thuộc vào quy mô và công nghệ sản xuất điện. Tại Đức, đối với các
nhà máy điện gió, giá trị FIT cho 5 năm đầu kể từ ngày nhà máy đưa vào vận hành là
8.90 cents/kWh. Sau 5 năm giá FIT được điều chỉnh giảm hay không, mức độ nào tùy
thuộc vào mức độ đạt được về mục tiêu sản lượng. Giá FIT cho điện gió ngồi khơi

trong 12 năm đầu sau vận hành là 15.40 cents/kWh. Sau 12 năm, con số này có thể được
tiếp tục áp dụng trong khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào khoảng cách của nhà
máy điện đến đất liền và chiều cao cột nước tại vị trí nhà máy. Đối với điện mặt trời,
FIT được áp dụng như sau: 13.15 cents/kWh, 12.80 cents/kWh, 11.49 cents/kWh, 9.23
cents/kWh cho từng nhóm quy mơ ≤ 10 kW, > 10 – 40 kW, > 40 – 1000 kW, > 1 – 10
MW (EEG, 2014). FIT chính là chìa khóa thành cơng của Đức trong việc tăng tỷ trọng
nguồn điện từ năng lượng tái tạo trong 16 năm qua. Bằng việc quy định mức giá cố định
khác nhau cho các quy mô công nghệ sản xuất điện khác nhau, Đức tạo ra niềm tin nhất
định về doanh thu cho nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích được các tổ chức tín dụng
cho nhà đầu tư vay tiền với chi phí sử dụng vốn thấp. Hơn nữa, cơ chế này rất đơn giản
dễ hiểu và minh bạch đối với nhà đầu tư, khuyến khích mọi thành phần nhà đầu tư tham
gia thị trường.
Đấu thầu (Tendering): các nhà đầu tư điện gió, mặt trời tham gia chào thầu để
nhận được quyết định xây dựng nhà máy. Với tổng nhu cầu công suất lắp đặt được xác
định trước, nhà đầu tư nào chào với giá thấp hơn sẽ được ưu tiên lựa chọn đầu tư. Hiện
có 34 quốc gia trên thế giới đang áp dụng cơ chế này (Sawin J., Seyboth K., 2017). Tại
Đức, cơ chế đấu thầu cạnh tranh được thí điểm đối với nhà máy điện mặt trời dưới mặt
đất từ năm 2014 và chính thức áp dụng đối với các nhà máy điện gió và mặt trời khác
với quy mô đủ lớn từ năm 2017. Các nhà đầu tư quy mơ nhỏ có thể lựa chọn theo cơ chế
FIT hoặc đấu thầu (EEG, 2016). Cơ chế đấu thầu cạnh tranh có ảnh hưởng rất khác
nhau đến nhà đầu tư. Đối với các công ty điện lực lớn và các công ty xây dựng công


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 247

trình điện lớn, họ có thể được lợi từ cơ chế này chính vì sự phức tạp của cơ chế và vì họ
có lợi thế về trình độ chun mơn. Đối với các ngân hàng, nếu cơ chế này làm giảm
động lực đầu tư của khách hàng của họ, sẽ giảm cơ hội cho họ đầu tư vào các dự án
điện. Đối với các nhóm nhà đầu tư còn lại, sự phức tạp của cơ chế có thể dẫn đến giảm
động lực đầu tư do họ khơng có chun mơn, kĩ năng kinh nghiệm để đưa ra chiến lược

chào giá tốt.
Nhóm các cơng cụ chính sách tài chính
Ưu đãi cho vay: các ưu đãi liên quan đến thời gian cho vay, lãi suất cho vay, thời
gian ân hạn. Ngồi cơng ty điện lực có nguồn vốn nội tại, ngân hàng có vốn từ nguồn
tiền gửi với lãi suất thấp, nhà đầu tư tổ chức có khoản tài trợ, hộ gia đình, nơng dân có
khoản tiết kiệm, các nhà đầu tư còn lại phụ thuộc lớn vào nguồn tài chính bên ngồi.
Chính vì vậy, ưu đãi cho vay là cơng cụ hữu ích tạo động lực cho nhà đầu tư. Có nhiều
kiểu nguồn vốn vay nhà đầu tư có thể tiếp cận bao gồm “on-lending”, nghĩa là cấu trúc
vốn được thành lập bởi ngân hàng quốc tế và ngân hàng quốc gia đó, cấu trúc vốn này
hướng đến các dự án đầu tư có quy mơ vừa và nhỏ. “co-lending” là cấu trúc vốn được
thành lập bởi nhóm các ngân hàng thương mại và định hướng đến cung cấp vốn cho các
dự án có quy mơ lớn. Các khoản nợ trực thuộc, tức là hình thức công ty mẹ con, công ty
mẹ dựa vào năng lực của mình vay vốn cho cơng ty con để thực hiện dự án điện gió và
mặt trời. Ngồi ra cịn có các khoản quỹ có thể chuyển đổi thành khoản cho vay nhà đầu
tư có thể tiếp cận (IRENA, 2016). Các nhà đầu tư khác nhau có khả năng tiếp cận các
khoản vay khác nhau. Các công ty điện lực lớn có thể thuận lợi tiếp cận các tổ chức tín
dụng trong nước và quốc tế, huy động vốn từ cộng đồng. Các cơng ty điện lực địa
phương có thể vay vốn từ các ngân hàng trong nước và một vài nguồn tài chính cơng.
Cơng ty xây dựng cơng trình điện quốc tế có thể tiếp cận các khoản vay từ tổ chức tín
dụng quốc tế và trong nước, các nguồn tài chính cơng. Các cơng ty xây dựng cơng trình
điện quy mơ lớn trong nước có thể tiếp cận các khoản vay trong nước, một vài nguồn tài
chính tư nhân, trong khi các cơng ty xây dựng cơng trình điện quy mô nhỏ bị hạn chế
khả năng vay vốn từ ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác (Nelson, et al.,
2016).
Trái phiếu xanh: là những trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho các dự
án năng lượng xanh như điện gió hay điện mặt trời. Trái phiếu được phát hành cho kỳ
hạn dài và lãi suất thấp. Loại trái phiếu này được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2007
và được khởi xướng bởi một số ngân hàng phát triển như Ngân hàng Đầu tư châu Âu,
Ngân hàng Thế giới. Ấn Độ hiện đang sử dụng cơng cụ này để có huy động được nguồn
tài chính cho mục tiêu phát triển điện gió và mặt trời. Quốc gia này bắt đầu sử dụng

công cụ này vào năm 2015 và tổng nguồn vốn thu được là 1.1 tỷ USD. Tháng 1/2016,
Ủy ban Chứng khoán Ấn Độ đã ban hành các quy định chính thức về trái phiếu xanh
(IRENA, 2016).


248 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TỒN QUỐC 2017
Nhóm các cơng cụ chính sách tài khóa
Cơng cụ thuế và phí: có nhiều loại thuế như thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế đất đai. Nhà nước có thể miễn, giảm, hoặc gia hạn thời
gian nộp các khoản thuế đối với các dự án nhà máy điện gió và mặt trời.
Trợ giá: là hình thức nhà nước trả thêm cho người sản xuất một khoản tiền bù đắp
cho thiệt hại do phải bán sản phẩm với giá thấp. Tại nhiều quốc gia để trợ giá cho các
nguồn điện tái tạo, Chính phủ trích từ nguồn ngân sách Chính phủ ra để trả cho phần
chênh giữa FIT và giá thị trường.
Quỹ nghiên cứu và phát triển: là khoản quỹ Chính phủ dành ra cho các cơng trình
nghiên cứu khoa học và cơng nghệ. Hàn Quốc đầu tư 20,000 USD/năm/nghiên cứu điện
gió và mặt trời (Chang, et al., 2016). Tại Đức, quỹ nghiên cứu năng lượng của Chính
phủ Đức trong giai đoạn 2011 – 2014 lên đến 3.5 tỉ Euro [BMWi, 2010].
Nhóm quy trình thủ tục
Hệ thống văn bản: những văn bản yêu cầu liên quan đến thủ tục cấp giấy phép đầu
tư, cho vay vốn, cho thuê đất, văn bản liên quan đến hoạt động mua bán điện. Hỗ trợ về
chuẩn bị tài liệu hồ sơ dự án, quy trình thủ tục thẩm định dự án càng đơn giản, càng thu
hút nhà đầu tư. Để làm được điều này có thể sử dụng các công cụ như ban hành các loại
giấy tờ tiêu chuẩn theo từng nhóm dự án. Ví dụ, chuẩn hóa hồ sơ cho các dự án điện gió
riêng, điện mặt trời riêng, quy mô dự án khác nhau yêu cầu hồ sơ khác nhau.
Thời gian xử lý ra quyết định: thời gian xử lý hồ sơ ra quyết định liên quan đến
thủ tục cấp giấy phép đầu tư, vay vốn, thuê đất, mua bán điện. Thời gian xử lý càng
nhanh, càng thu hút nhà đầu tư.
4. LỰA CHỌN CƠNG NGHỆ VÀ QUY MƠ DỰ ÁN ĐIỆN GIĨ VÀ MẶT TRỜI
4.1. Công nghệ và quy mô dự án điện gió và mặt trời


Trước hết nhà đầu tư sẽ cân nhắc lựa chọn loại công nghệ để đầu tư: điện gió đất
liền, điện gió ngồi khơi, điện mặt trời trên mái nhà hay dưới mặt đất. Sau khi đã lựa
chọn được loại công nghệ, tiếp theo nhà đầu tư cân nhắc lựa chọn quy mô nhà máy: quy
mô lớn, vừa hay nhỏ. Tùy thuộc nguồn lực, đánh giá các yếu tố mơi trường đầu tư và kì
vọng, nhà đầu tư điện gió lựa chọn cơng nghệ và quy mơ dự án đầu tư.
Đối với điện gió, có hai loại turbin là turbin trục đứng và turbin trục ngang.
Turbin trên đất liền thường là loại 3 cánh, chiều dài cánh từ 20 đến 80 m. Turbin gió
ngồi khơi thường có chiều dài cánh lên đến 80 m. Chiều cao cột turbin thường từ 70
đến 120 m và có thể lên đến 160 m. Công suất turbin phụ thuộc vào chiều dài cánh
turbin và chiều cao cột turbin. Năm 2014, Đức có 44 loại turbin khác nhau. Loại turbin
phổ biến nhất có mức công suất 2 – 3 MW. Công suất một turbin có thể lên đến 5 MW
hoặc hơn [Fraunhofer IWES, 2014]. Quy mơ một nhà máy điện gió có thể từ vài MW


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 249

đến vài trăm, thậm chí vài nghìn MW. Trang trại điện gió lớn nhất trên thế giới hiện nay
là Gansu ở Trung Quốc, với tổng công suất là 6,000 MW.
Đối với điện mặt trời, một modul năng lượng mặt trời là lắp ráp của các pin năng
lượng mặt trời có kích thước 6 x 10. Một modul thường có dải cơng suất 100 đến 365
W. Quy mơ nhà máy điện mặt trời có thể vài MW đến hàng trăm hoặc hàng nghìn MW.
Nhà máy điện mặt trời lớn nhất hiện nay là nhà máy Tengger Desert đặt tại Trung Quốc,
có mức cơng suất đặt là 1,500 MW.
4.2. Dự đốn xu hướng lựa chọn cơng nghệ và quy mơ dự án của nhà đầu tư
tại Đức

Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ điện gió và mặt trời tại Đức chiếm khoảng 46%
trong tổng cơ cấu nguồn điện với khoảng 195 GW công suất lắp đặt. Trong đó điện gió
đất liền chiếm khoảng 23%, điện mặt trời 21% và điện gió ngồi khơi chiếm khoảng

2%. Có thể thấy, nhà đầu tư tại Đức nói chung đã có kĩ năng kinh nghiệm nhất định
trong triển khai dự án điện gió đất liền và điện mặt trời. Điện gió ngồi khơi với chi phí
sản xuất cao và địi hỏi trình độ chun mơn kĩ năng cao, hiện bắt đầu được chú trọng
nghiên cứu đầu tư bởi các nhà đầu tư có năng lực.
Bằng phân tích thực tế tích hợp năng lượng gió và mặt trời vào hệ thống điện của
Đức và mục tiêu phát triển của quốc gia này trong tương lai, tác giả dự đoán xu hướng
của lựa chọn quy mơ và cơng nghệ của các nhóm nhà đầu tư tại Đức như sau:
 Công ty điện lực lớn, cơng ty xây dựng cơng trình điện quốc tế, ngân hàng quốc
tế: sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các nhà máy điện gió ngồi khơi, đầu tư vào các
dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy mô đủ lớn.
 Công ty điện lực địa phương, cơng ty xây dựng cơng trình điện trong nước, ngân
hàng thương mại trong nước, công ty điện độc lập: đầu tư vào các dự án điện gió
đất liền, điện mặt trời với nhiều mức quy mô.
 Công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ tổ chức từ thiện, hộ công nghiệp, hộ thương
mại: đầu tư vào các dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy mơ vừa và nhỏ.
 Hộ dân dụng, nông dân: đầu tư dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy
mơ nhỏ.
5. ĐẦU TƯ ĐIỆN GIĨ, MẶT TRỜI TẠI VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Đầu tư điện gió, mặt trời tại Việt Nam

Tại Việt Nam, tốc độ gió trung bình là từ 5.5 đến 7.3 m/s. Tiềm năng lý thuyết
năng lượng gió ở độ cao 65 m lên đến 513,360 MW (Phan, et al., 2011). Tiềm năng điện
mặt trời lớn với năng lượng bức xạ trung bình dao động từ 4 đến 5 kWh/m2/ngày. Tùy
thuộc vào khu vực, số giờ nắng trung bình năm dao động từ 1,409 đến 2,543 giờ/năm,


250 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017
số ngày nắng dao động từ 270 đến 355 ngày/năm (Hán, 2011). Việt Nam được đánh giá
là quốc gia có tiềm năng lớn để sản xuất điện từ nguồn năng lượng gió và mặt trời. Tuy
nhiên, tính đến cuối năm 2016, tổng công suất nguồn điện Việt Nam là khoảng 42,300

MW, trong đó cơng suất điện gió hòa lưới là 159.2 MW tương đương với 0.38% và
chưa có điện mặt trời hịa lưới. Sự phát triển chậm của nguồn điện gió và mặt trời một
phần là do nhà đầu tư thiếu nguồn lực, mặt khác rủi ro thách thức đầu tư lớn. Phần dưới
đây phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư điện gió và mặt trời
tại Việt Nam:
Nguồn lực hạn chế
Bảng 4 dưới đây giới thiệu 4 nhà máy điện gió đã đưa vào vận hành ở Việt Nam
(GIZ, 2016).
Bảng 4. Các nhà máy điện gió đã đưa vào vận hành ở Việt Nam

Dự án

Loại
cơng
nghệ

Cơng Chủ đầu tư
suất
(MW)

Loại
nhà
đầu


Nhà
Gió
máy
gần
Điện gió bờ

Bạc
Liêu

99.2

Cơng ty
TNHH Xây
dựng,
Thương mại
và Du lịch
Cơng Lý

Cơng 260
ty đa
mục
tiêu

Nhà
Gió
máy
đất
Điện gió liền
Phú
Q

6

Cơng ty
IPP
TNHH

MTV Điện
gió và Mặt
trời điện lực
dầu khí

15

70/30

Nhà
Gió
máy
đất
Điện gió liền
Tuy
Phong

30

Cơng ty cổ
phần Điện
gió và Mặt
trời Việt
Nam

52

70/30

IPP


Tổng
vốn
(triệu
USD)

Tỷ lệ
nợ
phải
trả/vốn
chủ sở
hữu
85/15

Đơn vị cho vay

Ngân hàng Phát
triển Việt Nam

Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát
triển nông thôn,
được đảm bảo
bởi Ngân hàng
BadenWuerttemberg
(Đức)


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 251


Dự án

Loại
cơng
nghệ

Nhà
Gió
máy
đất
Điện gió liền
Phú Lạc

Cơng Chủ đầu tư
suất
(MW)

Loại
nhà
đầu


Tổng
vốn
(triệu
USD)

Tỷ lệ
nợ
phải

trả/vốn
chủ sở
hữu

24

IPP

52

80/20

Cơng ty cổ
phần Phong
điện Thuận
Bình

Đơn vị cho vay

Ngân hàng Tái
thiết Đức (vốn
ODA 35 triệu
EUR)

Như vậy, trong 4 nhà đầu tư điện gió có 3 nhà đầu tư thuộc nhóm cơng ty sản xuất
điện độc lập, một nhà đầu tư là công ty đa mục tiêu và phần lớn vốn đầu tư là từ nguồn
vốn vay. Các nhà đầu tư của Việt Nam còn chưa đa dạng, hơn nữa họ bị hạn chế về
nguồn lực, cả về khả năng tài chính, đất đai, trình độ chun mơn, kĩ năng và kinh
nghiệm triển khai dự án điện gió và mặt trời.
Môi trường đầu tư nhiều rủi ro và thách thức

Mặc dù có tiềm năng năng lượng gió và mặt trời lớn, Việt Nam cũng như nhiều
quốc gia khác gặp phải vấn đề tốc độ gió, bức xạ năng lượng mặt trời không ổn định.
Hơn nữa việc dự báo tiềm năng sản xuất điện từ các nguồn này ở Việt Nam cịn gặp
nhiều khó khăn và kém tin cậy. Về vấn đề công nghệ, tại những nhà máy điện gió đã
đưa vào vận hành, hầu hết các thiết bị chính được nhập khẩu từ các quốc gia như Đức,
Mỹ, Đan Mạch, Trung Quốc. Tùy thuộc và công nghệ được nhập khẩu từ quốc gia nào,
chi phí thiết bị dao động rất đáng kể. Việt Nam có triển khai hỗ trợ nghiên cứu phát
triển cơng nghệ điện gió và mặt trời, tuy nhiên hoạt động này còn đơn lẻ, rời rạc và chưa
đạt hiệu quả. Về phía người mua, EVN có trách nhiệm mua tồn bộ lượng điện năng sản
xuất từ các nhà máy điện gió và mặt trời (37/2011/QĐ-TTg). Đối thủ cạnh tranh của các
nguồn điện gió và mặt trời là các nhà máy thủy điện, nhiệt điện than, turbin khí, nhiệt
điện dầu. Hình 5 và Hình 6 dưới đây mô tả tỷ lệ đối thủ cạnh tranh và sức cạnh tranh về
chi phí của các nguồn điện trong hệ thống điện Việt Nam.

Hình 5: Tỷ lệ cơng suất lắp đặt các nguồn điện tại Việt Nam [EVN, 2015]


252 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TỒN QUỐC 2017
Với LCOE trung bình ở múc 7.69 US cents/kWh cho điện gió đất liền, 8.92 US
cents/kWh cho điện gió gần bờ, hai nguồn điện này có thể cạnh tranh về chi phí với điện
từ turbin khí thơng thường và nhiệt điện dầu.

Hình 6: Chi phí sản xuất điện trung bình từ các nguồn khác nhau tại Việt Nam (2015)

Về cơ chế, cơng cụ chính sách, hiện Việt Nam đã có cơ chế giá FIT, với 7.8 US
cents/kWh cho điện gió đất liền (37/2011/QĐ-TTg), 9.35 US cents/kWh cho điện mặt
trời (11/2017/QĐ-TTg). Hiện dự thảo điều chỉnh giá FIT cho điện gió đất liền và gần bờ
đang được để xuất ở mức 8.77 US cents/kWh cho điện gió đất liền, 9.97 US cents/kWh
cho điện gió gần bờ. Cơ chế công tơ hai chiều cũng sẽ được áp dụng từ năm nay cho
điện mặt trời (11/2017/QĐ-TTg). Tại Việt Nam, các dự án phát triển và sử dụng điện

gió và mặt trời được hưởng các ưu đãi về thuế như được miễn thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án, thuế thu nhập doanh nghiệp, các
ưu đãi về tín dụng đất đầu tư, ưu đãi về đất đai.
Từ những phân tích về nguồn lực của nhà đầu tư, môi trường đầu tư có thể dự
đốn xu hướng đầu tư của hầu hết các nhà đầu tư ở Việt Nam trong tương lai gần là các
dự án điện gió đất liền và điện mặt trời quy mô vừa và nhỏ.
5.2. Đề xuất

Kinh nghiệm của các quốc gia thành cơng về tích hợp năng lượng tái tạo vào thị
trường điện cho thấy cơ chế, cơng cụ chính sách hợp lý là chìa khóa thành cơng cho
phát triển nguồn điện gió và mặt trời. Các cơ chế liên quan đến chi phí (lãi suất vay, tỉ
suất thuế, giá thuê đất…) và doanh thu (giá FIT, hay giá theo cơ chế đấu thầu) đóng vai
trị địn bẩy cho tích hợp các nguồn điện này. Thiết lập cơ chế, công cụ hợp lý sẽ khắc
phục được hạn chế về nguồn lực của nhà đầu tư đồng thời tạo môi trường đầu tư thuận
lợi hơn.
Tại Việt Nam, bên cạnh những chính sách đã có và đem lại hiệu quả, chúng ta cần
đánh giá lại các cơ chế đã tồn tại nhưng chưa đem lại tác dụng, đồng thời nghiên cứu
các cơng cụ chính sách chưa có nhưng cần thiết. Điều chỉnh FIT hàng năm là cần thiết


PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 253

nhằm đưa ra mức giá FIT cập nhật, phù hơp. Khi chi phí sản xuất điện gió hoặc mặt trời
giảm xuống đến mức nhất định, có thể cạnh tranh với các nguồn điện khác, cơ chế đấu
thầu cho thấy hiệu quả về chi phí. Ngồi ra, tiêu chuẩn năng lượng tái tạo, chứng chỉ
năng lượng tái tạo tạo là hai cơ chế nên được triển khai để tăng đầu tư điện gió và mặt
trời từ nhóm các cơng ty điện lực. Để giảm sự phụ thuộc vào cơng nghệ sản xuất điện từ
nước ngồi, giảm chi phí nhập khẩu thiết bị, đầu tư cho quỹ nghiên cứu phát triển cơng
nghệ sản xuất điện gió và mặt trời là việc làm cần thiết. Các công cụ quan trọng khác
như giảm lãi suất vay, tăng kì hạn, thời gian ân hạn đủ lớn sẽ khắc phục được hạn chế

về nguồn tài chính cho nhà đầu tư. Hầu hết nhà đầu tư tiềm năng ở Việt Nam chưa có kĩ
năng và kinh nghiệm, chun mơn liên quan đến đầu tư, xây dựng vận hành nhà máy
điện gió và mặt trời, tổ chức các khóa học nâng cao hiểu biết, kĩ năng cho nhà đầu tư
nên được triển khai sớm.
Ngồi các cơng cụ, cơ chế chính sách định lượng, các vấn đề liên quan đến văn
bản thủ tục, thời gian xử lý các thủ tục về xin cấp phép đầu tư, vay vốn, thuê đất, mua
bán điện cũng nên hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

N. T. Hán, "Đánh giá tiềm năng năng lượng mặt trời ở Việt Nam theo số liệu quan trắc
khí tượng thủy văn", Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội, 2011.

[2]

T. T. Phan, C. M. Vũ and A. Waslelke, "Tình hình phát triển điện gió và khả năng cung
ứng tài chính cho dự án điện gió ở Việt Nam", GIZ, Hà Nội, 2011.

[3]

Quyết định 2068/QĐ-TTg, “Phê duyệt Chiến lược phát triển điện gió và mặt trời của
Việt Nam đến năm 2030”, của Thủ tướng Chính phủ, ngày 25/11/2015.

[4]

Quyết định 37/2011/QĐ-TTg, “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt
Nam”, của Thủ tướng Chính phủ, 29/06/2011.

[5]


Quyết định 11/2017/QĐ-TTg, “Về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt
trời tại Việt Nam”, của Thủ tướng Chính phủ, 11/04/2017.

[6]

Quyết định 428/QĐ-TTg, “Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030”, của Thủ tướng Chính phủ, 18/03/2016.

[7]

Masini and E. Mechichetti, "The impact of behavioural factors in the renewable energy
investment decision making process: Conceptual framework and empirical findings",
Energy Policy, Elsevier, 2010.

[8]

A. Bergek, I. Mignon and G. Sundberg, "Who invests in renewalbe electricity
production? Empirical evidence and suggestioins for further research" Energy Policy,
Elsevier, 2013.

[9]

Y. Chang, Z. Fang and Y. Li, "Renewable energy policies in promoting financing and
investment among the East Asia Summit countries: Quantitative assessment and policy
implications", Energy Policy, Elsevier, 2016.


254 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017
[10] D. Nelson, M. Huxham, S. Muench and B. O'Connell, "Policy and investment in German
renewalbe energy", CPI, 2016.

[11] IRENA, "Unlocking renewable energy investment: the role of risk mitigation and
structured finance", 2016.
[12] GIZ, "Information Bac Lieu, Phu Quy, Phu Lac", 2016.
[13] EEG, The renewable energy sources act in Germany, 2014.
[14] EEG, The renewable energy sources act in Germay, 2016.
[15] L. Werner and L. Scholtens, "Firm type, feed-iin tariff, and wind energy investment in
Germany", Yale University, 2016.
[16]

X. Wang, "Achieving renewalbe energy targets at an affordable price", The World
Bank, 2017.



×