Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CTCP SÔNG ĐÀ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.62 KB, 20 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CTCP SÔNG ĐÀ 2
3.1. Đánh giá chung về thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại CTCP Sông Đà 2 và phương hướng hoàn thiện
Qua quá trình thực tập tại CTCP Sông Đà 2, được xuống chi nhánh xem xét trực
tiếp các công trường thi công, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các phòng ban của Công
ty đặc biệt là phòng Tài chính- Kế toán, em đã học được nhiều điều hữu ích. Em đã nghiên
cứu, tìm hiểu về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung và tổ chức
công tác kế toán nói riêng mà trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp. Em đã có thể vận dụng những kiến thức đã học trong nhà trường
vào thực tiễn. Sau quá trình tìm hiểu này em xin đưa ra những ý kiến đánh giá và nhận xét
về Công ty như sau:
3.1.1- Ưu điểm
Qua gần 30 năm cùng sự trưởng thành và phát triển của ngành xây dựng Việt Nam,
CTCP Sông Đà 2 đã không ngừng lớn mạnh cả về quy mô, năng lực cũng như hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Công ty đã chủ động nghiên cứu từng bước thực hiện mô hình quản lý và
hạch toán kế toán khoa học, hợp lý và phù hợp với lĩnh vực cũng như quy mô hoạt động,
đặc điểm thế mạnh của mình góp phần khẳng định vị thê của mình trong nền kinh tế thị
trường. Công ty luôn cố hoàn thành nhiệm vụ của Tổng Công ty Sông Đà giao cho cũng
như thực hiện những nghĩa vụ đối với Nhà nước đồng thời từng bước mở rộng quy mô
kinh doanh để đáp ứng nhu cầu phát triển trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xứng đáng là một doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành xây dựng..
Những thành tựu đó đạt được là nhờ vào sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của Ban
giám đốc, của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty, trong đó có sự đóng góp không
nhỏ của bộ máy kế toán tài chính trong Công ty. Cùng với sự lớn mạnh của Công ty, công
tác quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng đã không ngừng được củng cố và hoàn
thiện, kế toán phát huy được vai trò của mình trong hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh,
đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin cho nhà quản lý. Đặc biệt trong công tác kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, phần không thể thiếu được đối với các doanh
nghiệp xây lắp khi thực hiện chế độ kế toán, phần có ý nghĩa to lớn và chi phối chất lượng
công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp đã đáp ứng được phần nào yêu cầu quản lý của


doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
 Về công tác kế toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp.
• Về phân loại chi phí sản xuất:
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc
tính giá thành toàn bộ, CTCP Sông Đà 2 thực hiện phân loại chi phí theo khoản mục, cách
phân loại này dựa vào công dụng chung của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối
tượng, là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng
máy thi công và chi phí sản xuất chung. Về cơ bản, cách phân loại này đã đáp ứng được
yêu cầu hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty.
• Về đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí:
Việc áp dụng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là công trình, hạng mục công trình
cũng như việc áp dụng phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp là hoàn toàn phù hợp với đặc
điểm hoạt động sản xuất lắp đồng thời có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý
chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được nhanh gọn, kịp thời
và chính xác. Các công trình, hạng mục công trình được mã hóa vào phần mềm kế toán để
tiện cho việc theo dõi và tập hợp chi phí. Hàng tháng, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
ghi sổ kế toán , chi phí phát sinh ở công trình nào thì được tập hợp cho công trình đó. Sau
mỗi tháng, kế toán tiến hành tổng hợp chi phí thông qua lập Bảng tổng hợp chi phí cho
từng công trình, hạng mục công trình giúp cho nhà quản lý nắm được thông tin tình hình
thực hiện chi phí và kịp thời có những chỉ đạo.
• Về kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Công ty tiến hành giao toàn bộ hoạt động thu mua vật tư cho các tổ, đội tạo thuận
lợi cho sản xuất thi công. Công ty bố trí các kho vật tư ngay tại chân các công trình giúp
cho công tác bảo quản được tăng cường, việc cung ứng vật tư cho các công trình luôn kịp
thời, đồng thời công tác giám sát cũng được thực hiện chặt chẽ giúp Công ty giảm được
tình trạng lãng phí, thất thoát nguyên vật liệu.
Nhìn chung, Công ty đã thực hiện quy trình hạch toán nguyên vật liệu trực tiếp theo
chế độ. Các chứng từ được lập đầy đủ, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của từng công
trình, hạng mục công trình được theo dõi riêng trên từng tiểu khoản chi tiết , được phản
ánh trên các sổ chi tiết phù hợp với yêu cầu kế toán và quản lý,tạo thuận lợi cho việc theo

dõi và giám sát chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình,
từ đó giúp nhà lãnh đạo ra quyết định đúng.
Đặc biệt, Công ty sử dụng phương pháp tính giá xuất kho nguyên vật liệu là
phương pháp bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập là rất tốt, cho thấy được sự biến động
về giá cả vật liệu xây dựng nhất là trong giai đoạn thi trương nguyên vật liệu không ổn
định đồng thời kế toán có thể cập nhật giá trị vật liệu xuất kho cung cấp thông tin về chi
phí nguyên vật liệu cho nhà quản lý tại bất kỳ thời điểm nào chứ không phải chờ đến cuối
kỳ như phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ.
• Về kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
Với hai bộ phận lao động khác nhau về cả phương thức quản lý và trả lương thì
Công ty đã tổ chức thành hai hệ thống chứng từ lương khác nhau để theo dõi riêng hai bộ
phận này, giúp cho việc quản lý dễ dàng hơn.Chính sách sử dụng lao động khá linh hoạt và
chính sách trả lương cũng phù hợp với từng bộ phận lao động.Các sổ chi tiết chi phí nhân
công trực tiếp được mở theo từng công trình, hạng mục công trình đã đáp ứng được phần
nào yêu cầu của quản lý. Quy trình hạch toán rõ rang và theo đúng chế độ kế toán hiện
hành.
• Về kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Hệ thống máy thi công của Công ty được đầu tư với số lượng tương đối lớn, trang
thiết bị đầy đủ và hiện đại, Công ty có thể hoàn toàn tự chủ trong việc điều động máy thi
công sử dụng cho các công trình.
Các loại máy thi công được lập sổ theo dõi một cách cụ thể. Hàng tháng, kế toán
tiến hành trích khấu hao máy thi công sử dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng
giúp kế toán giảm nhẹ được việc tính toán, đơn giản, dễ dàng và phù hợp với doanh
nghiệp. Đồng thời với những máy thi công sử dụng cho nhiều công trình trong tháng thì kế
toán có tiến hành phân bổ chi phí khấu hao cho các công trình liên quan theo khối lượng
thực hiện trong kỳ của từng công trình. Còn các máy thi công thuê ngoài được theo dõi rất
cận thận giúp quản lý tốt chi phí thuê máy thi công ngoài.
• Về kế toán chi phí sản xuất chung:
Nói chung, việc hạch toán chi phí sản xuất chung trong Công ty đã đảm bảo được
tính khoa học , chặt chẽ. Công ty đã theo dõi chi tiết từng yếu tố chi phí theo từng công

trình , hạng mục công trình. Với những chi phí liên quan đến nhiều công trình thì kế toán
tiến hành phân bổ theo tiêu thức khối lượng thực hiện của công trình là hợp lý. Hệ thống
chứng từ, tài khoản, sổ sách áp dụng theo dõi chi phí sản xuất chung tại Công ty khá đầy
đủ và hợp lý.
 Về công tác kế toán giá thành sản phẩm xây lắp.
Sử dụng phương pháp trực tiếp khi tính giá thành sản phẩm là rất phù hợp với đặc thù sản
phẩm xây lắp và đối tượng tính giá như đã xác định.Công tác đánh giá sản phẩm dở dang
và tính giá thành sản phẩm xây lắp được thực hiện một cách khá hợp lý, thống nhất và có
hiệu quả. Cuối mỗi quý, với sự tham gia của các bộ phận có liên quan, sản phẩm dở dang
được đánh giá một cách khách quan, hợp lý, và việc tính giá thành sản phẩm được xác đinh
theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý, giá thành được xác định dựa trên khối lượng thực tế sản
phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao.
3.1.2- Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, công tác kế toán đặc biệt là kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở CTCP Sông Đà 2 vẫn còn tồn tại những mặt
hạn chế cần phải khắc phục. Nhìn chung, Công ty chưa hạch toán chính xác các chi phí
phát sinh vào các khoản mục chi phí tương ứng của nó theo chế độ quy định. Việc hạch
toán không chính xác này không làm thay đổi tổng chi phí phát sinh trong kỳ để tính giá
thành sản phẩm song việc phân tích các khoản mục chi phí để đưa ra các quyết định quản
lý tối ưu sẽ không được hiệu quả. Đồng thời, Công ty cũng không chú ý tới việc trích trước
một số khoản chi phí để đảm bảo nguyên tắc dồn tích trong kế toán. Cụ thể như sau:
 Về phân loại chi phí:
Cách phân loại chi phí theo khoản mục mới chỉ phục vụ cho công tác kế toán tài chính mà
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý chi phí, chưa thể giúp ban lãnh đạo đưa ra được những
phương án tối ưu nhất.
 Về kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Công ty đã giao toàn bộ việc thu mua nguyên vật liệu cho các tổ, đội trực tieeos
thực hiện, điều này gây không ít khó khăn cho Công ty trong việc quản lý và kiểm soát vật
tư cũng như chi phí nguyên vật liệu. Hiện nay, đa số ở các công trình thi công thường gặp
nhiều khó khăn trong việc bố trí kho bãi nên có thể gây mất mát, hư hỏng nguyên vật liệu...

Nhiều vật tư mua về được vận chuyển thẳng đến chân công trình,không nhập kho
nhưng vẫn lập Phiếu nhập, xuất kho như bình thường. Điều này là không hợp lý, phản ánh
sai bản chất của nghiệp vụ đồng thời làm cho hệ thống chứng từ trở nên cồng kềnh, phức
tạp. Đặc biệt do các công trình của Công ty nằm phân tán trên nhiều địa bàn do đó công tác
luân chuyển chứng từ gặp nhiều khó khăn không tránh khỏi tình trạng chứng từ luân
chuyển gặp nhiều khó khăn, không tránh khỏi tình trạng chứng từ được chuyển lên chậm,
bị mất mát, hư hỏngglàm ảnh hưởng tới công tác hạch toán gây sức ép công việc vào thời
điểm cuối kỳ, thông tin cung cấp cho ban lãnh đạo bị chậm trễ, khi đó số liệu trên sổ sách
không phù hợp với thực tế tại kho dẫn đến những chênh lệch số liệu khi tiếng hành kiểm
kê.
Ngoài ra, việc xác định nội dung chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cũng chưa được
chính xác. Công ty đã hạch toán chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho máy thi công vào
khoản mục này là sai theo chế độ kế toán.
Công ty không theo dõi số vật liệu thu hồi sau khi kết thúc công trình, điều này có thể làm
cho giá thành công trình bị đẩy lên cao so với thực tế.
 Về kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
Công ty đang sử dụng hai loại lao động là công nhân biên chế và công nhân thuê
ngoài, hai loại lao động này đã được theo dõi trên hai loại chứng từ riêng, tuy nhiên, trên
TK 622 Công ty chỉ chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình mà không chi tiết
theo từng loại lao động do đó không thuận tiện trong việc cung cấp thông tin cho ban quản
trị.
Ngoài ra, Công ty còn hạch toán cả chi phí nhân công điều khiển máy thi công (bao
gồm tiền lương và các khoản trích theo lương của bộ phận trong biên chế) và các khoản
trích theo lương của bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất vào chi phí nhân công trực tiếp
là không phù hợp với chế độ.
Bên cạnh đó, Công ty cũng chưa tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của
công nhân trực tiếp sản xuất, mà trong tháng nếu có công nhân nghỉ phép thì tiền lương
nghỉ phép của công nhân đó được hạch toán luôn vào chi phí của tháng đó. Trên thực tế, tại
Công ty việc nghỉ phép của công nhân không đều đặn. Điều này sẽ làm cho chi phí công
nhân trực tiếp phản ánh không phù hợp với kết quả sản xuất của kỳ hạch toán. Vì vậy, việc

trích trước tiền lương nghỉ phép cần được Công ty quan tâm và có kế hoạch thực hiện để
tránh tình trạng chi phí nhân công thay đổi đột ngột khi có nhiều công nhân trực tiếp nghỉ
phép.
 Về kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy thi công là loại chi phí chỉ có trong doanh nghiệp xây lắp và
mới được hạch toán riêng thành một khoản mục chi phí từ Quyết đinh sô 1864/QĐ-BTC
của Bộ Tài chính ban ngày 14/12/1998 còn trước đây thì không có. Do vậy, có thể việc kế
toán khoản mục chi phí này vẫn còn tương đối bỡ ngỡ đối với các kế toán, không tránh
khỏi tình trạng hạch toán sai.
Tại CTCP Sông Đà 2, công tác kế toán chi phí sử dụng máy thi công gần như chưa đáp ứng
được yêu cầu của chế độ. Cụ thể các khoản mục chi phí phát sinh phục vụ cho máy thi
công lại không được hạch toán vào khoản mục này mà phản ánh sang khoản mục khác (chi
phí nguyên vật liệu sử dụng cho máy thi công bị phản ánh vào chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí lương của bộ phận điều khiển máy thi công lại phản ánh vào chi phí nhân công
trực tiếp...) Việc hạch toán không chính xác này dẫn đến việc thông tin được cung cấp
không phản phán đúng, bị sai lệch và có thể làm cho nhà quản lý đưa ra các quyết định sai
lầm trong việc lựa chọn phương thức sử dụng máy thi công giữa máy thi công thuê ngoài
và máy thi công của Công ty.
 Về kế toán chi phí sản xuất chung:
Công ty hạch toán cả chi phí công cụ dụng cụ xuất dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài và các
chi phí bằng tiền khác phục vụ cho bộ máy thi công vào khoản mục chi phí sản xuất chung
là không hợp lý.
Công ty không thực hiện trích trước chi phí bảo hành công trình mà chỉ đến khi nào
có sự cố xảy ra thì mới hạch toán. Khi đó, toàn bộ chi phí phát sinh cho việc sữa chữa được
hạch toán vào TK 811- Chi phí khác. Điều này là không hợp lý do vi phạm nguyên tắc dồn
tích.
Ngoài ra, Công ty cũng không tiến hành trích trước chi phí sữa chữa lớn TSCĐ
trong kế hoạch. Điều này không hợp lý vì việc sữa lớn TSCĐ phát sinh tại một thời điểm
nhưng lại là kết quả sử dụng TSCĐ đó từ các kỳ sau đó. Do vậy, kế toán cần trích trước chi
phí sữa chữa lớn TSCĐ trong kế hoạch để tạo lập một quỹ để có thể trang trải khi việc sữa

chữa xảy ra.
 Về kế toán thiệt hại trong sản xuất:
Trong các đơn vị xây lắp, việc thi công các công trình được tiến hành ngoài trời do
đó chịu ảnh hưởng lớn từ sự khắc nghiệt của khí hậu nên việc xảy ra những thiệt hại là
điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra trong quá trình thi công có thể do chủ quan từ phía
công nhân và bộ phận giám sát, công trình không đảm bảo chất lượng phái phá đi làm lại.
Tuy nhiên Công ty không theo dõi các khoản thiệt hại trong sản xuất ngoài kế hoạch này do
đó không phản ánh chính xác các chi phí phát sinh và giá thành công trình, hạng mục công
trình.
 Về việc sử dụng kế toán quản trị trong phân tích chi phí, giá thành sản phẩm:
Kế toán quản trị là phương pháp xử lý các dữ liệu kế toán để đạt được mục tiêu
thiết lập thông tin cho việc lập dự toán ngân sách về chi phí, doanh thu và kết quả hoạt
động kinh doanh trong một thời kỳ; kiểm soát có hiệu quả tình hình hoạt động của các bộ
phận trong doanh nghiệp phục vụ cho việc ra quyết định của nhà quản trị, song công tác kế
toán này lại chưa được chú trọng đúng mức trong CTCP Sông Đà 2.
Hiện nay, Công ty phân loại chi phí theo khoản mục, cách phân loại này mới chỉ
phục vụ được công tác kế toán tài chính mà chưa đáp ứng được yêu cầu của kế toán quản
trị chi phí và tính giá thành.
Bên cạnh đó, hệ thống Báo cáo chi phí sản xuất và tính giá thành tại Công ty mới
chỉ dừng ở các Báo cáo tổng hợp chi phí để tính giá thành mà chưa có phân tích ảnh
hưởng biến động của từng khoản mục chi phí đến giá thành sản phẩm
3.1.3- Phương hướng hoàn thiện
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ giá thành
công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành xây dựng,
trong việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và
ở các tổ đội xây dựng nói riêng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám
đốc thường xuyên liên tục sự biến động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử dụng thước
đo hiện vật và thước đo giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi
phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của
từng công trình, hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua đó, nhà quản

trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật
tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết
định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm
mà vẫn đảm bảo chất lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh doanh trên thị
trường.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên
giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết
quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp để xác định nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong
giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn
thành là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp
nói riêng.
Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng lãi giả, lỗ thật như một số năm trước đây.
Khi nền kinh tế đang trong thời kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp hoạt động theo
chỉ tiêu pháp lệnh, vật tư, tiền vốn do cấp trên cấp, giá thành là giá thành kế hoạch định
sẵn. Vì vậy, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chỉ mang tính
hình thức. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động hoạt động
sản xuất kinh doanh theo phương hướng riêng và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của mình. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn phải thực hiện đúng theo những quy luật
khách quan.Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là phần
không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp xây lắp khi thực hiện chế độ kế toán, hơn
nữa là nó có ý nghĩa to lớn và chi phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp tại CTCP Sông Đà 2 vẫn còn nhiều bất cập: hạch toán thiếu, hạch toán không đúng
các khoản mục… Do vậy, việc hoàn thiện công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và với Công ty nói riêng.
Việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong

doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
phải đảm bảo sự tôn trọng đối với Luật kế toán, các Chuẩn mực kế toán, Chế độ kế toán
hiện hành và các Thông tư hướng dẫn cùng các cơ chế tài chính có liên quan. Đây là
nguyên tắc có tính bắt buộc vì đó là những quy định mang tính pháp lý cao đòi hỏi mọi đối
tượng trong phạm vi điều tiết của nó phải tuân thủ.
Thứ hai, hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải xuất phát từ
đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất, đặc điểm của sản
phẩm và yêu cầu quản lý của Công ty.
Thứ ba, việc hoàn thiện phải được đặt trong mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu
được. Do vậy, các giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính sản phẩm phải đảm
bảo có tính khả thi cao, tiết kiệm chi phí…
3.2. Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp tại CTCP Sông Đà 2
Qua thời gian thực tập tại Công ty, em đã được nghiên cứu, tìm hiểu rõ về thực
trạng công tác kế toán chi phí sản phẩm và tính giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty và
thấy được những ưu điểm, nhược điểm của nó. Dưới góc độ là một sinh viên thực tập, từ
những kiến thức được trang bị trên ghế nhà trường đem vận dụng trong thực tiễn, gắn chặt
nó với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, em xin đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
tại CTCP Sông Đà 2 như sau:
 Hoàn thiện công tác kế toán nói chung:
Với đặc thù của hoạt động xây lắp là địa bàn hoạt động rộng cho nên việc luân
chuyển chứng từ bị chậm trễ là điều không thể tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng này,

×