Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN sử dụng từ Hán-Việt trong môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.33 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề.
Trang 2
1- Lý do chọn đề tài. Trang 2
2- Thực trạng. Trang 2
II. Những biện pháp.
Trang 3
1- Cơ sở xuất phát các biện pháp giải quyết vấn đề.
Trang 3
2- Biện pháp:
Trang 4
3- Tác động của biện pháp:
Trang 7
III. Kết quả và việc phổ biến ứng dụng vào thực tiễn.
Trang 8
1- Kết quả:
Trang 8
2- Phổ biến và ứng dụng:
Trang 8
Phần nhận xét đánh giá, xếp loại
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2008 – 2009
Người thực hiện: Trònh Thò Vân – Trường THCS Trần Phán –Đầm Dơi –Cà Mau.
1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY TỪ HÁN VIỆT Ở BẬC THCS
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1- Lý do chọn đề tài:
Tiếng việt có nguồn gốc từ lâu đời, nhưng do nhiều ngun nhân lịch sử xã hội
nên ở thời Pháp thuộc, nước ta phải dùng Hán ngữ làm ngơn ngữ Quốc gia, Hán học
được lấy làm Quốc học. Tiếng Việt trong thời kỳ này phần lớn được dùng trong giao


tiếp sinh hoạt đời thường. Tiếng Việt và tiếng Hán có cùng một loại hình đơn lập, âm
tiết tính. Hệ thống âm điệu và thanh điệu khá gần gũi. Phương thức tạo từ cũng nặng
về ghép từ đơn thành từ phức. Vì vậy việc vay mượn từ Hán thuận tiện hơn nhiều so
với việc vay mượn từ ngữ của các ngơn ngữ Ấn Âu. Trong khi giảng dạy từ Hán Việt
ở bậc THCS giáo viên khơng thể khơng dùng tiếng Việt để giải thích, đặc biệt người
Việt vừa giàu tinh thần dân tộc, vừa u chuộng thơ văn. Do tiếng Việt và tiếng Hán
có cùng một loại hình, hệ thống âm vị thanh điệu khơng hồn tồn xa lạ nhau nên các
nhà thơ nhà văn đều có thể vận dụng thi pháp Hán vào sáng tác như: Thể phú, tế,
cáo, hịch…. Song các thể cáo, hịch, tế… được đưa vào trong chương trình THCS sẽ
gây rất nhiều khó khăn cho học sinh về việc nhận biết nội dung bài học nếu các em
khơng hiểu nghĩa các từ ngữ Hán Việt.
Để học sinh cảm thụ các thể văn được tốt, hiểu được các từ ngữ Hán Việt và
vận dụng trong nói viết thì việc dạy - học từ Hán Việt trong trường THCS là rất
quan trọng. Vì thế người giáo viên dạy văn cần chú trọng đến việc giảng dạy từ Hán
Việt trong trường THCS.
2- Thực trạng:
a/ Thuận lợi:
Ngày nay Tiếng Việt lên ngơi chính thống, việc nâng cao dân trí và đào tạo
nhân tài theo tân học thì Tiếng việt lại mượn hàng loạt từ ngữ học thuật của tiếng
Hán đặc biệt là các bộ mơn văn hóa xã hội. Từ gốc Hán trong lớp từ văn hóa của
Tiếng việt đã chiếm tới 70%. Trong các văn bản hành chính có mật độ từ gốc Hán rất
cao. Cũng do được vay mượn theo con đường học thuật mà các từ ngữ Hán Việt
mang tính trang trọng so với từ Việt đồng nghĩa như: Phụ nữ/đàn bà, nhi đồng/trẻ
em, sinh/đẻ, tử/chết…
Với nét nghĩa sắc thái ấy, từ Hán Việt khơng chỉ là những đơn vị định danh bổ
sung cho kho từ Tiếng việt mà còn có khá nhiều trường hợp tồn tại như những đơn vị
đồng nghĩa rất cần thiết làm phong phú thêm sự biểu đạt của người Việt.
b/ Khó khăn:
Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2008 – 2009
Người thực hiện: Trònh Thò Vân – Trường THCS Trần Phán –Đầm Dơi –Cà Mau.

2
Tần số từ Hán Việt khá cao trong chương trình THCS, trong các bài văn, bài
thơ, trong các lời ăn tiếng nói hàng ngày. Vì thế việc dạy- học từ Hán việt quả là một
khó khăn cho giáo viên và học sinh.
Sách và đồ dùng dạy - học rất ít, nhiều từ Hán Việt khó giải thích, từ đó việc
tiếp thu từ Hán Việt của học sinh rất khó khăn.
Dân trí càng nâng cao thì ngơn ngữ giao tiếp càng vận dụng nhiều từ ngữ
thuộc lớp từ văn hóa – khoa học - kỹ thuật, càng dùng nhiều đến từ Hán Việt. Trong
khi đó sự nhận biết về từ ngữ gốc Hán của học sinh thì q hạn hẹp. Phương pháp
dạy từ Hán Việt trong trường THCS chưa được cụ thể hóa.
Học sinh khơng coi trọng việc học từ Hán Việt, học với hình thức đối phó nên
các em khơng biết giải nghĩa từ Hán Việt gây nhiều khó khăn cho q trình tiếp nhận
các văn bản. Bên cạnh đó các tài liệu có liên quan đến việc dạy - học từ Hán Việt còn
hạn chế vì vậy học sinh chưa nắm bắt được hệ thống ngữ nghĩa của từ Hán Việt.
Để khắc phục những khó khăn trên theo tơi giáo viên dạy bộ mơn phải tự học
hỏi tìm ra các phương pháp riêng phù hợp với đặc trưng của kiểu bài, phù hợp với
đối tượng học sinh trong q trình dạy từ Hán Việt.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP:
1- Cơ sở xuất phát các biện pháp giải quyết vấn đề:
Trong trường THCS hiện nay phương pháp dạy từ Hán Việt chưa được cụ thể
hóa, chủ yếu là dạy theo hình thức áp đặt thầy giải thích – trò lắng nghe chưa đi sâu
vào việc tìm hiểu ngữ nghĩa, mở rộng vốn từ của từ Hán Việt. Vốn từ và việc sáng
tạo tìm tòi của học sinh thì hạn chế dẫn đến tiết dạy trở nên khơ khan, học sinh
khơng hứng thú học. Trong khi đó vốn từ lại rất quan trọng với các em khơng chỉ
trong lĩnh vực giao tiếp mà còn quan trọng trong q trình cảm thụ và phân tích từ
ngữ Hán Việt trong thơ văn.
Trong các văn bản hành chính mật độ từ Hán Việt chiếm khá cao.
Ví dụ: Trong đoạn văn sau phần lớn là sử dụng từ Hán Việt.
“Căn cứ đề nghị của Ban văn hóa tư tưởng Trung ương, Bộ văn hóa thơng tin
và sự nhất trí của Thủ tướng Chính phủ, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định

thành lập nhà xuất bản chính trị Quốc gia”.
Trong khẩu ngữ của người dân giờ đây cũng sử dụng khá nhiều từ Hán Việt.
Ví dụ: “Hợp tác xã đã hồn thành kế hoạch thủy lợi hóa đúng điều độ đã thơng
qua”.
Như vậy từ Hán Việt đã được sử dụng rất rộng rãi, song phải hiểu rõ nguồn
gốc và ý nghĩa, phải sử dụng đúng nơi, đúng đối tượng thì nó mới trở nên hay.
Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2008 – 2009
Người thực hiện: Trònh Thò Vân – Trường THCS Trần Phán –Đầm Dơi –Cà Mau.
3
Khơng phải mọi từ gốc Hán đều là từ Hán Việt, từ thời Tây Hán tiếng Hán lúc
bấy giờ có hình thức ngữ âm còn q cổ. Ví dụ: Buồm (phàm), buồng (phòng), buồn
(thuyền), cả (giá), chém (trảm), lìa (ly)….
Hiện nay chúng ta xem những từ gốc Hán vay mượn từ xa xưa đó như là từ
thuần Việt. Lại có những từ gốc Hán vừa mới mượn gần đây phát âm theo ngơn ngữ
Quảng Đơng thì khơng được xem là từ Hán Việt. Ví dụ: Húng lìu (hương liệu), mì
chính (vị tinh)… những từ trong ngoặc là cách gọi Hán Việt.
Trở thành một bộ phận của tiếng Việt, từ Hán Việt hoạt động dưới sự chi phối
của các quy luật ngữ nghĩa và ngữ pháp tiếng Việt.
Ví dụ 1: Phong trào trong tiếng Hán có ba nghĩa: Hướng gió (1), gió xốy ngồi
khơi (2), sự việc diễn ra sơi nổi trong cùng một thời kỳ (3). Trong đó tiếng Việt chỉ
có nghĩa thứ ba.
Ví dụ 2: Từ khơi ngơ trong tiếng Hán có nghĩa to, cao; vào tiếng Việt nó có
nghĩa là thơng minh sáng sủa.
Người Việt còn dùng các hình vị Hán để tạo nên nhiều từ Hán Việt mà tiếng
Hán khơng tạo từ như thế. Ví dụ: Bác sĩ (đại phu quan), dược tá (tư dược viên), đại tá
(thượng hiệu), kỹ sư (cơng trình sư), nghĩa lý (đạo lý), phát thanh (bá âm)…
Để nhận biết từ Hán Việt, hiểu sâu về nó thì rất là khó, vì từ Hán Việt trong
tiếng Việt hiện đại hầu hết đều có hình thức hai tiếng ghép lại, tiếng nào cũng có
nghĩa, về cấu tạo từ ghép Hán Việt cũng tương tự như cấu tạo các từ ghép tiếng Việt
nên dễ bị nhầm lẫn.

Vì vậy trong q trình dạy tiếng Việt giáo viên cần phải xác định được những
mặt tích cực, mặt hạn chế của học sinh để có những biện pháp thiết thực giúp các em
hứng thú học tập và tiếp thu từ Hán Việt một cách dễ dàng.
2- Biện pháp:
Qua thời gian tìm hiểu nghiên cứu trong q trình giảng dạy thực tiễn, bản
thân tơi đã đúc rút được một số kinh nghiệm và các biện pháp dạy học từ Hán Việt
cụ thể như sau.
2.1. Nhận diện từ Hán Việt:
Có ba cách nhận diện từ Hán Việt.
Cách 1: Tra từ điển Hán - Việt.
Cách 2: Từ Hán Việt là những tiếng mà âm tiết hồn tồn có thể sử dụng như một
từ bất kể chúng có nguồn gốc nào như: Đầu, gan, tim, áo, quần, kính, bút…
Cách 3: Là những tiếng tuy có nghĩa nhưng khơng có khả năng sử dụng như một
từ, nhưng có khả năng tạo từ phức rất lớn.
Ví dụ: - Thiên, địa, thủy, hỏa, vân, vũ, kiến…
- Địa chất, địa bàn, địa chỉ…
Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2008 – 2009
Người thực hiện: Trònh Thò Vân – Trường THCS Trần Phán –Đầm Dơi –Cà Mau.
4
- Kiến tập, kiến tạo, kiến thiết, kiến nghị…
- Thiên bẩm, thiên mệnh, thiên nhiên, thiên thời…
Từ ghép Hán Việt hiện nay là từ ghép được tạo bởi các đơn vị theo cách nhận
biết thứ ba, từ đó suy ra nếu một từ phức nào được ghép bởi hai đơn vị tức là loại
đơn vị khơng tự nó được dùng như một từ, thì từ phức đó chính là từ Hán Việt.
Từ ghép Hán Việt cũng có loại ghép hợp nghĩa như từ tiếng Việt, trong từ
ghép hợp nghĩa các từ tố đầu cùng từ loại và tạo nên từ mới có nghĩa tổng hợp như
trường hợp từ ghép hợp nghĩa tiếng việt. Ví dụ: Quốc gia, văn nghệ, chiến đấu, học
tập…
Trong từ ghép phân nghĩa thì trật tự cú pháp ngược với từ ghép Hán Việt: Yếu
tố bổ sung đứng trước, yếu tố được bổ sung đứng sau. Ví dụ: Chủ quan (quan là yếu

tố được bổ sung), nội hóa (hàng nội), chiến hạm (tàu chiến)…
Tiếng Việt của chúng ta phần lớn mượn gốc Hán, bởi các từ Hán Việt mang
tính trang trọng tạo cho tiếng Việt thêm phong phú và giàu đẹp hơn. Như vậy việc
dạy học từ Hán Việt trong trường THCS có vai trò rất lớn, hướng các em biết dùng
từ đặt câu, nghe, nói, viết đúng và hay, phù hợp với đối tượng hồn cảnh giao tiếp.
Để đạt được những điều nêu trên người giáo viên phải có tâm huyết nhiệt tình
giảng dạy, có thể vận dụng các cách nhận diện các từ Hán Việt để dạy cho học sinh
hiểu, giúp các em biết cách phân tích, giải nghĩa từ Hán Việt, phân biệt từ Hán Việt.
Ngồi ra giáo viên phải học hỏi, tìm tòi các phương pháp hữu hiệu phù hợp để
giảng dạy đối với từng kiểu bài, với từng đối tượng học sinh để đạt hiệu quả cao.
2.2. Quy trình dạy từ Hán Việt:
* Khi dạy từ Hán Việt trước tiên người giáo viên phải nhận thức được kiểu bài
và lượng kiến thức trong bài dạy để định hình một tiết dạy.
Ví dụ: Trong một tiết dạy từ Hán Việt có các từ: Phong cảnh, châu thổ, thủy
tinh, thiên nhiên, khơng khí, thị xã, kĩ sư, nơng gia, giai nhân, cường tráng, thanh
minh… Ngồi giải nghĩa từ thì giáo viên cần phải mở rộng các từ ngữ Hán Việt cho
học sinh hiểu.
u cầu của bài dạy từ Hán Việt gồm có ba nội dung:
1. Làm cho học sinh hiểu rõ ngữ nghĩa của các từ được học.
2. Đi sâu vào ngữ nghĩa của từng từ tố, trên cơ sở đó mở rộng vốn từ Hán Việt
theo quan hệ cấu tạo từ mới có chung một từ tố.
3. Luyện tập
* Trong q trình dạy từ Hán Việt, để giúp học sinh nắm vững ngữ nghĩa cũng
như phương thức cấu tạo của từ, mở rộng từ theo quan hệ cấu tạo từ (hoặc theo quan
hệ đồng âm) và luyện tập dùng từ mới học thì giáo viên phải thực hiện theo trình tự
ba bước như sau:
Sáng kiến kinh nghiệm – Năm học 2008 – 2009
Người thực hiện: Trònh Thò Vân – Trường THCS Trần Phán –Đầm Dơi –Cà Mau.
5

×