Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.37 KB, 32 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN
LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận về tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.1.1. Tiền lương
1.1.1.1. Khỏi niệm.
- Theo quan niệm của Mác: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức
lao động.
- Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của
lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Ở Việt nam trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, tiền lương được hiểu là một
bộ phận thu nhập quốc dân dùng để bù đắp hao phí lao động tất yếu do Nhà nước
phân phối cho công nhân viên chức bằng hình thức tiền tệ phù hợp với quy luật phân
phối theo lao động. Hiện nay theo Điều 55 - Bộ Luật Lao Động Việt Nam quy định
tiền lương của người lao động là do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và
được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định hiện nay là 730.000 đồng/ tháng.
- Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền được
trả cho người lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động của họ dùng để bù
đắp lại hao phí lao động của mọi người dùng để bù đắp lại hao phí lao động của họ
và nó là một vấn đề thiết thực đối với cán bộ công nhân viên.Tiền lương được quy
định một cách đúng đắn, là yếu tố kích thích sản xuất mạnh mẽ, nó kích thích
người lao động và làm việc, nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nhằm
nâng cao năng suất lao động.
- Người lao động sau khi sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm thì được trả
một số tiền công nhất định. Xét về hiện tượng ta thấy sức lao động được đem trao
1
1
Khoá luận tốt nghiệp
đổi để lấy tiền công. Vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá, một loại hàng hoá


đặc biệt. Và tiền lương chính là giá cả của hàng hoá đặc biệt đó, hàng hoá sức lao
động. Vì hàng hoá sức lao động cần được đem ra trao đổi trên thị trường lao động
trên cơ sở thoả thuận giữa người mua với người bán, chịu sự tác động của quy luật
giá trị, quy luật cung cầu. Do đó giá cả sức lao động sẽ biến đổi theo giá cả của các
yếu tố cấu thành cũng như quan hệ cung cầu về lao động. Như vậy khi coi tiền
công là giá trị của lao động thì giá cả này sẽ hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động hay tiền công có
thể tăng hoặc giảm phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá sức lao động. Như vậy giá cả
tiền công thường xuyên biến động nhưng nó phải xoay quanh giá trị sức lao động
cung như các loại hàng hoá thông thường khác, nó đòi hỏi một cách khách quan
yêu cầu tính đúng, tính đủ giá trị của nó. Mặt khác giá tiền công có biến động như
thế nào thì cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu để người lao động có thể tồn tại
và tiếp tục lao động.
- Mặt khác tiền lương còn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm
do vậy giá trị của sức lao động (tiền lương) còn phụ thuộc vào giá cả của sản phẩm
khi được tiêu thụ trên thị trường.
1.1.1.2. Bản chất và chức năng của tiền lương.
a. Bản chất phạm trù tiền lương theo cơ chế thị trường.
Trong nhiều năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn. Song tình hình thực tế cho thấy rằng sự đổi mới một số lĩnh vực
xã hội còn chưa kịp với công cuộc đổi mới chung nhất của đất nước. Vấn đề tiền
lương cũng chưa tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay có nhiều ý thức khác nhau về tiền lương, song quan niệm thống
nhất đều coi sức lao động là hàng hoá. Mặc dù trước đây không được công nhận
chính thức, thị trường sức lao động đã được hình thành từ lâu ở nước ta và hiện nay
vẫn đang tồn tại khá phổ biến ở nhiều vùng đất nước. Sức lao động là một trong các
2
2
Khoá luận tốt nghiệp
yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản, của quá trình sản xuất, nên tiền lương, tiền

công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả sức lao động. Vì vậy việc trả
công lao động được tính toán một cách chi tiết trong hạch toán kinh doanh của các
đơn vị cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế. Để xác định tiền lương hợp lí cần tìm ra cơ
sở để tính đúng ,tính đủ giá trị của sức lao động. Người lao động sau khi bỏ ra sức lao
động,tạo ra sản phẩm thì được một số tiền công nhất định. Vậy có thể coi sức lao
động là một loại hàng hoá,một loại hàng hoá đặc biệt. Tiền lương chính là giá cả hàng
hoá đặc biệt đó - hàng hoá sức lao động.
Hàng hoá sức lao động cũng có mặt giống như mọi hàng hoá khác là có giá
trị. Người ta định giá trị ấy là số lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra nó.
Sức lao động gắn liền với con người nên giá trị sức lao động được đo bằng giá trị
các tư liệu sinh hoạt đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống (ăn, ở, học hành,đi
lại ...) và những nhu cầu cao hơn nữa. Song nó cũng phải chịu tác động của các
quy luật kinh tế thị trường.
Vì vậy, về bản chất tiền công, tiền lương là giá cả của hàng hoá sức lao
động, là động lực quyết định hành vi cung ứng sức lao động. Tiền lương là một
phạm trù của kinh tế hàng hoá và chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách
quan. Tiền lương cũng tác động đến quyết định của các chủ doanh nghiệp để hình
thành các thoả thuận hợp đồng thuê lao động.
b. Chức năng của tiền lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và bao gồm các chức năng sau:
- Tiền lương là công cụ để thực hiện các chức năng phân phối thu nhập quốc
dân, các chức năng thanh toán giữa người sử dụng sức lao động và người lao
động.
- Tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động thông qua việc trao đổi tiền tệ
do thu nhập mang lại với các vật dụng sinh hoạt cần thiết cho người lao động và
gia đình họ.
3
3
Khoá luận tốt nghiệp
- Kích thích con người tham gia lao động, bởi lẽ tiền lương là một bộ phận

quan trọng của thu nhập, chi phối và quyết định mức sống của người lao động.
Do đó tiền lương là công cụ quan trọng trong quản lí. Người ta sử dụng nó
để thúc đẩy người lao động hăng hái lao động và sáng tạo, coi như là một công cụ
tạo động lực trong sản xuất kinh doanh.
1.1.1.3. Vai trũ và ý nghĩa của tiền lương.
a. Vai trò của tiền lương.
Về mặt sản xuất và đời sống tiền lương có 4 vai trò cơ bản sau đây.
4
4
Khoá luận tốt nghiệp
* Vai trò tái sản suất sức lao động
Sức lao động là một dạng công năng sức cơ bắp và tinh thần tồn tại trong cơ
thể con người, là một trong các yếu tố thuộc “đầu vào” của sản xuất. Trong quá
trình lao động sức lao động bị hao mòn dần với quá trình tạo ra sản phẩm do vậy
tiền lương trước hết phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Đây là yêu cầu tất yếu
không phụ thuộc vào chế độ xã hội, là cơ sở tối thiểu đầu tiên đảm bảo sự tác động
trở lại của phân phối tới sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất để đảm bảo
tái sản xuất và sức lao động cũng như lực lượng sản suất xã hội, tiền lương cần
thiết phải đủ nuôi sống người lao động và gia đình họ. Đặc biệt là trong điều kiện
lương là thu nhập cơ bản.
Để thực hiện chức năng này, trước hết tiền lương phải được coi là giá cả sức
lao động.Thực hiện trả lương theo việc, không trả lương theo người, đảm bảo
nguyên tắc phân phối theo lao động. Mức lương tối thiểu là nền tảng của chính
sách tiền lương và tiền công, có cơ cấu hợp lí về sinh học, xã hội học… Đồng thời
người sử dụng lao động không được trả công thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà
nước qui định.
* Vai trò kích thích sản xuất:
Trong quá trình lao động, lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
hoạt động của con người là động lực mạnh mẽ nhất của tiến bộ kinh tế xã hội.

Trong 3 loại lợi ích: xã hội, tập thể, người lao động thì lợi ích cá nhân người lao
động là động lực trực tiếp và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
Lợi ích của người lao động là động lực của sản xuất. Chính sách tiền lương
đúng đắn là động lực to lớn nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì vậy tổ chức tiền lương và tiền công
thúc đẩy và khuyến khích người lao động nâng cao nâng suất, chất lượng và hiệu
5
5
Khoá luận tốt nghiệp
quả của lao động bảo đảm sự công bằng và xã hội trên cơ sở thực hiện chế độ trả
lương. Tiền lương phải đảm bảo:
• Khuyến khích người lao động có tài năng.
• Nâng cao trình độ văn hoá và nghiệp vụ cho người lao động.
• Khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, biến phân phối trở
thành một động lực thực sự của sản xuất.
* Vai trò thước đo giá trị:
Thước đo giá trị là cơ sở điều chỉnh giá cả cho phù hợp. Mỗi khi giá cả biến
động, bao gồm cả giá cả sức lao động hay nói cách khác tiền lương là giá cả sức
lao động, là một bộ phận của sản phẩm xã hội mới được sáng tạo nên. Tiền lương
phải thay đổi phù hợp với sự dao động của giá cả sức lao động.
* Vai trò tích luỹ:
Bảo đảm tiền lương của người lao động không những duy trì được cuộc
sống hàng ngày mà còn có thể dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng
lao động hoặc xảy ra bất trắc.
b. Ý nghĩa của tiền lương.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Ngoài ra người
lao động còn được hưởng một số nguồn thu nhập khác như: Trợ cấp BHXH, tiền
thưởng, tiền ăn ca… Chi phí tiền lương là một bộ phận chi phí cấu thành nên giá
thành sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Tổ chức sử dụng lao động
hợp lý, hạch toán tốt lao động, trên cở sở đó tính đúng thù lao lao động, thanh toán

kịp thời tiền lương và các khoản liên quan từ đó kích thích người lao động quan
tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng lao động, chấp hành tốt kỷ luật lao động,
nâng cao năng suất lao động, góp phần tiết kiện chi phí về lao động sống, hạ giá
thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
1.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương.
6
6
Khoá luận tốt nghiệp
* Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung - cầu lao động ảnh
hưởng trực tiếp đến tiền lương.
+ Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng
giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng
tăng, còn khi cung về lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt
tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị
phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như (năng suất
biên của lao động, giá cả của hàng hoá, dịch vụ …).
+ Khi chi phí sinh hoạt thay đổi, do giá cả hàng hoá, dịch vụ thay đổi sẽ kéo
theo tiền lương thực tế thay đổi. Cụ thể khi chi phí sinh hoạt tăng thì tiền lương
thực tế sẽ giảm. Như vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải tăng tiền lương
danh nghĩa cho công nhân để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm
bảo tiền lương thực tế không bị giảm.
+ Trên thị trường luôn tồn tại sự chênh lệch tiền lương giữa các khu vực tư
nhân, Nhà nước, liên doanh … chênh lệch giữa các ngành, giữa các công việc có
mức độ hấp dẫn khác nhau, yêu cầu về trình độ lao động cũng khác nhau. Do vậy,
Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết tiền lương cho hợp lý.
* Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp:
+ Các chính sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá
thành…được áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.

+ Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương.Với
doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương cho người lao
động sẽ thuận tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính không vững thì
tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.
+ Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền
lương.Việc quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao để
7
7
Khoá luận tốt nghiệp
giám sát và đề ra những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của người
lao động để tăng hiệu quả, năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.
*Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động:
+ Trình độ lao động:Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập
cao hơn so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao
động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào tạo đó. Có thể đào tạo
dài hạn ở trường lớp cũng có thể đào tạo tại doanh nghiệp. Để làm được những
công việc đòi hỏi phải có hàm lượng kiến thức, trình độ cao mới thực hiện được,
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp thì việc hưởng lương cao là tất yếu.
+ Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một
người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm, hạn chế được
những rủi ro có thể xảy ra trong công việc, nâng cao bản lĩnh trách nhiệm của mình
trước công việc đạt năng suất chất lượng cao vì thế mà thu nhập của họ sẽ ngày
càng tăng lên.
+ Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay
không đều ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
* Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc:
+ Mức hấp dẫn của công việc: công việc có sức hấp dẫn cao thu hút được
nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ không bị sức ép tăng lương, ngược lại với
công việc kém hấp dẫn để thu hút được lao động doanh nghiệp phải có biện pháp
đặt mức lương cao hơn.

+ Mức độ phức tạp của công việc: Với độ phức tạp của công việc càng cao
thì định mức tiền lương cho công việc đó càng cao. Độ phức tạp của công việc có
thể là những khó khăn về trình độ kỹ thuật, khó khăn về điều kiện làm việc, mức
độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc
giản đơn.
8
8
Khoá luận tốt nghiệp
+ Điều kiện thực hiện công việc: tức là để thực hiện công việc cần xác định
phần việc phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm việc
với máy móc, môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng đều quyết định đến tiền
lương.
+ Yêu cầu của công việc đối với người thực hiện là cần thiết, rất cần thiết
hay chỉ là mong muốn mà doanh nghiệp có quy định mức lương phù hợp.
* Các nhân tố khác: Ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ
tuổi, thành thị và nông thôn, ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn, không
phản ánh được mức lao động thực tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm bảo
nguyên tắc trả lương nào cả nhưng trên thực tế vẫn tồn tại.
Sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng tới tiền
lương của lao động.
1.1.1.5. Nguyên tắc tính lương.
a. Những cơ sở pháp lí của việc quản lí tiền lương trong doanh nghiệp.
- Quy định của nhà nước về chế độ trả lương:
Năm 1960 lần đầu tiên nhà nước ta ban hành chế độ tiền lương áp dụng cho
công chức, viên chức, công nhân ... thuộc các lĩnh vực của doanh nghiệp hoạt động
khác nhau. Nét nổi bật trong chế độ tiền lương này là nó mang tính hiện vật sâu
sắc, ổn định và quy định rất chi tiết, cụ thể:
Năm 1985 với nghị định 235 HĐBT ngày 18/4/1985 đã ban hành một chế độ
tiền lương mới thay thế cho chế độ tiền lương năm 1960. Ưu điểm của chế độ tiền
lương này là đi từ nhu cầu tối thiểu để tính mức lương tối thiểu song nó vẫn chưa

hết yếu tố bao cấp mang tính cứng nhắc và thụ động.
Ngày 23/5/1993 chính phủ ban hành các nghị định NĐ25/CP, NĐ26/CP quy
định tạm thời chế độ tiền lương mới đối với các doanh nghiệp với mức tiền lương
tối thiểu là 144.000 đồng/người/tháng.
9
9
Khoá luận tốt nghiệp
Những văn bản pháp lí trên đây đều xây dựng một chế độ trả lương cho
người lao động, đó là chế độ trả lương cấp bậc.
Tiền lương cấp bậc là tiền lương áp dụng cho công nhân căn cứ vào số lượng
và chất lượng lao động của công nhân.
Hệ số tiền lương cấp bậc là toàn bộ những quy định của Nhà nước mà doanh
nghiệp dựa vào đó để trả lương cho công nhân theo chất lượng và điều kiện lao
động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
Chế độ tiền lương cấp bậc tạo khả năng điều chỉnh tiền lương giữa các
nghành, các nghề một cách hợp lí, hạn chế được tính chất bình quân trong việc trả
lương, đồng thời còn có tác dụng bố trí công việc thích hợp với trình độ lành nghề
của công nhân.
Theo chế độ này các doanh nghiệp phải áp dụng hoặc vận dụng các thang
lương, mức lương, hiện hành của Nhà nước.
- Mức lương: là lượng tiền trả cho người lao động cho một đơn vị thời gian
(giờ, ngày, tháng...) phù hợp với các cấp bậc trong thang lương. Thông thường Nhà
nước chỉ quy định mức lương bậc I hoặc mức lương tối thiểu với hệ số lương của
cấp bậc tương ứng.
- Thang lương: là biểu hiện xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa các
công nhân cùng nghề hoặc nhiều nghề giống nhau theo trình tự và theo cấp bậc của
họ. Mỗi thang lương đều có hệ số cấp bậc và tỷ lệ tiền lương ở các cấp bậc khác
nhau so với tiền lương tối thiểu.
* Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật là văn bản quy định về mức độ phức tạp của
công việc và yêu cầu về trình độ lành nghề của công nhân ở một bậc nào đó phải

biết gì về mặt kỹ thuật và phải làm được gì về mặt thực hành.
Giữa cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc có mối quan hệ chặt chẽ. Công
nhân hoàn thành tốt ở công việc nào thì sẽ được xếp vào cấp bậc đó.
10
10
Khoá luận tốt nghiệp
Cũng theo các văn bản nàý nghĩa cán bộ quản lý trong doanh nghiệp được
thực hiện chế độ tiền lương theo chức vụ. Chế độ tiền lương chức vụ được thể hiện
thông qua các bảng lương chức vụ do Nhà nước quy định. Bảng lương chức vụ gồm
có nhóm chức vụ khác nhau, bậc lương, hệ số lương và mức lương cơ bản.
b. Phương pháp tính lương.
Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chương 2
điều 56 có ghi: “Khi chỉ số giá cả sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của
người lao động bị giảm sút thì chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm
bảo tiền lương thực tế ”.
Theo nghị định số 175/1999 ND-CP của Chính phủ ngày 15-12/1999 được
tính bắt đầu từ ngày 1/1/2000 mức lương tối thiểu chung là 180.000 đồng/ tháng/
người đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, ngày 27/3/2000 ban hành nghị định
số 10/2000, ND-CP quy định tiền lương tối thiểu cho các doanh nghiệp. Hiện nay,
từ 1/1/2009 mức lương tối thiểu chung là 730.000 đ/ tháng.
Tuỳ theo vùng ngành mỗi doanh nghiệp có thể điều chỉnh mức lương của
mình sao cho phù hợp. Nhà nước cho phép tính hệ số điều chỉnh tăng thêm không
quá 1,5 lần mức lương tối thiểu chung.
Hệ số điều chỉnh được tính theo công thức:
K
đc
= K
1
+ K
2

Trong đó: K
đc
: Hệ số điều chỉnh tăng thêm
K
1
: Hệ số điều chỉnh theo vùng (có 3 mức 0,3; 0,2; 0,1)
K
2
: Hệ số điều chỉnh theo ngành (có 3 nhóm 1,2; 1,0; 0,8)
Sau khi có hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa (K
đc
= K
1
+ K
2
), doanh nghiệp
được phép lựa chọn các hệ số điều chỉnh tăng thêm trong khung của mình để tính
đơn giá phù hợp với hiệu quả sản xuất, kinh doanh, mà giới hạn dưới là mức lương
tối thiểu chung do chính phủ quy định (tại thời điểm thực hiện từ ngày 01/01/1997
là 144.000 đồng/ tháng) và giới hạn trên được tính như sau:
11
11
Khoá luận tốt nghiệp
TL
minđc
= TL
min
x (1 + K
đc
)

Trong đó:
TL
min đc
: tiền lương tối thiểu điều chỉnh tối đa doanh nghiệp
được phép áp dụng.
TL
min
: là mức lương tối thiểu chung do chính phủ quy định,
cũng là giới hạn dưới của khung lương tối thiểu.
K
đc
: là hệ số điều chỉnh tăng thêm của doanh nghiệp.
Như vậy, khung lương tối thiểu của doanh nghiệp là TL
min
đến TL
minđc
doanh
nghiệp có thể chọn bất cứ mức lương tối thiểu nào nằm trong khung này, nếu đảm
bảo đủ các điều kiện theo quy định sau:
+ Phải là doanh nghiệp có lợi nhuận. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện
chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước mà không có lợi nhuận hoặc lỗ thì phải
phấn đấu có lợi nhuận hoặc giảm lỗ.
+ Không làm giảm các khoản nộp ngân sách Nhà nước so với năm trước liền
kề, trừ trường hợp Nhà nước có chính sách điều chỉnh giá ở đầu vào, giảm thuế
hoặc giảm các khoản nộp ngân sách theo quy định.
+ Không làm giảm lợi nhuận thực hiện so với năm trước liền kề, trừ trường
hợp Nhà nước có chính sách điều chỉnh tăng giá, tăng thuế, tăng các khoản nộp
ngân sách ở đầu vào. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chính sách kinh tế - xã
hội thì phải giảm lỗ.
1.1.1.6. Cỏc hỡnh thức trả lương.

a. Trả lương theo thời gian.
Điều 58 Bộ luật lao động quy định các hình thức trả lương cho người lao
động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế và bậc lương của mỗi người.
+ Tiền lương tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng
lao động.
12
12

×