Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH LẬP VÀ PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.33 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH LẬP VÀ
PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Lý luận chung về kiểm toán Báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm kiểm toán Báo cáo tài chính
Các tác giả Alvin A.Arens và James K.Loebbecker trong giáo trình
“Kiểm toán” (Auditing) đã nêu một định nghĩa chung về kiểm toán như sau:
“Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh
giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể,
nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với
các chuẩn mực đã được thiết lập” (PTS.Vương Đình Huệ - PTS.Đoàn Xuân Tiên -
Kiểm toán – Nhà xuất bản Tài chính – 1996 – trang 9)
Theo đối tượng, kiểm toán bao gồm 3 loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán
tuân thủ và kiểm toán Báo cáo tài chính.
“Kiểm toán BCTC (Audit of Financial Statements) là việc kiểm toán để kiểm
tra và xác nhận tính trung thực, hợp lý của BCTC cũng như việc BCTC có phù hợp
với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được thừa nhận rộng rãi hay không. Các
BCTC thường được kiểm toán nhiều nhất là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, kể cả các bản ghi chú, thuyết
minh bổ sung BCTC ” (PTS.Vương Đình Huệ - PTS. Đoàn Xuân Tiên - Kiểm toán
– Nhà xuất bản Tài chính – 1996 – trang 12)
Giả định làm cơ sở cho một cuộc kiểm toán BCTC là chúng sẽ được sử dụng
bởi những nhóm người khác nhau nhằm những mục đích khác nhau.
Công việc kiểm toán BCTC thường do các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp
thực hiện để phục vụ cho các nhà quản lý, chính phủ, các ngân hàng và chủ đầu tư,
cho người bán, người mua…
1.1.2. Đối tượng của kiểm toán Báo cáo tài chính
Đối tượng của kiểm toán BCTC là các Bảng khai tài chính. Bộ phận quan
trọng của những bảng khai này là BCTC. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: “BCTC là hệ thống báo cáo được
lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh


các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị”. Ngoài ra, Bảng khai tài chính
còn bao gồm những bảng kê tài sản đặc biệt (kể cả các bảng kê khai tài sản doanh
nghiệp phá sản hoặc bán đấu giá…), các bảng khai theo yêu cầu riêng của chủ đầu
tư. Các bảng khai này đều chứa đựng những thông tin lập ra tại một thời điểm cụ
thể trên cơ sở những tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa theo những qui tắc cụ
thể xác định. Do vậy, một thông tin chứa đựng trong mỗi Bảng khai tài chính trên
một khoản mục cụ thể đều mang trong mình nó nhiều mối quan hệ theo những
hướng khác nhau: giữa khoản mục này với khoản mục có liên quan khác, giữa số
tiền ghi trên khoản mục này với số dư hoặc số phát sinh của các tài khoản tương
ứng, giữa thông tin trên từng khoản mục với qui tắc xác lập chúng… Như vậy, khi
nói đối tượng kiểm toán BCTC là các Bảng khai tài chính là nói đến quan hệ trực
tiếp. Trên cả lý luận cũng như thực tế, để xác minh và bày tỏ ý kiến về Bảng khai
tài chính, kiểm toán BCTC không thể tách rời các tài liệu kế toán, các hoạt động
kinh doanh và tổ chức quản lý của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy của
từng khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng trong các số dư, trong
các chỉ tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong hoạt động tài chính.
1.1.3. Mục tiêu của kiểm toán Báo cáo tài chính
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc chi phối
kiểm toán báo cáo tài chính - xác định: “Mục tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho
KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ
sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp
luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay
không.
Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ
những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính
của đơn vị”.
Ở đây, các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp pháp được hiểu như sau:
- Trung thực là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật
nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh
- Hợp lý là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết

và phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
- Hợp pháp là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp luật,
đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, kiểm toán BCTC là một nhu
cầu tất yếu khách quan, là công cụ quản lý kinh tế đắc lực và hữu hiệu.
BCTC hàng năm do các doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của rất
nhiều người: Các chủ doanh nghiệp, các cổ đông, các thành viên hội đồng quản trị,
các doanh nghiệp bạn, ngân hàng và chủ đầu tư… Luật thuế, luật lao động, luật
bảo vệ môi trường cũng cho thấy sự quan tâm của sở thuế, người tiêu dùng, công
nhân của doanh nghiệp cũng như của xã hội nói chung đối với các BCTC của
doanh nghiệp. Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến BCTC ở mỗi góc độ khác nhau,
nhưng tất cả đều cần có một BCTC có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do
vậy, cần phải có một bên thứ ba, độc lập và khách quan, có kiến thức nghề nghiệp,
uy tín và trách nhiệm pháp lý kiểm tra xem xét và đưa ra kết luận là các BCTC của
doanh nghiệp có được lập phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán (quốc
gia hay quốc tế) hay không, có phản ánh trung thực hợp lý tình hình tài chính của
doanh nghiệp hay không. Đó chính là công việc của các KTV độc lập thuộc các
công ty kiểm toán chuyên nghiệp. Luật pháp ở nhiều nước đã quy định rằng, chỉ
những BCTC đã được xem xét và có chữ ký xác nhận của KTV mới được coi là
hợp pháp để làm cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như để giải quyết các mối
quan hệ kinh tế khác đối với doanh nghiệp.
1.1.4. Quy trình chung kiểm toán Báo cáo tài chính
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế của từng cuộc kiểm toán cũng như để
thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của
KTV, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm 3 giai đoạn. Quy
trình kiểm toán được thể hiện khái quát theo sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1 - Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
1.1.4.1. Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Nguyên tắc
kiểm toán Quốc tế thứ 3 – Các nguyên tắc cơ bản xuyên suốt một cuộc kiểm toán do IAPC (Uỷ

ban thực hành kiểm toán Quốc tế) phê duyệt tháng 6/1980 và ban hành tháng 10/1980 nêu rõ: “
Giai đoạn I
Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Giai đoạn II
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn III
Hoàn thành kiểm toán và công bố Báo cáo kiểm toán
KTV phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có hiệu quả,
đúng thời gian. Kế hoạch kiểm toán phải được tiến hành trên cơ sở các hiểu biết về đặc điểm hoạt
động kinh doanh của khách hàng”.
Để đảm bảo cho cuộc kiểm toán đạt hiệu quả cao, trong mọi cuộc kiểm toán, KTV đều
phải lập kế hoạch kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ tạo điều kiện giúp cho KTV đạt
được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích hợp làm cơ sở cho nhận xét của KTV trong
BCKT; duy trì chi phí kiểm toán ở mức hợp lý và tránh được những bất đồng với khác hàng. Trong
đó, đạt được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích hợp là điều tối quan trọng đối với công ty
kiểm toán bởi nó có thể giúp công ty giảm thiểu tối đa trách nhiệm pháp lý và giữ vững danh tiếng
trong cộng đồng nghề nghiệp. Giữ chi phí ở mức hợp lý giúp công ty duy trì sức cạnh tranh và do
vậy có thể giữ và mở rộng khách hàng. Tránh những hiểu lầm của khách hàng cũng là điều quan
trọng trong mối quan hệ với khách hàng, nó giúp KTV thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng
cao và chi phí thấp.
1.1.4.2. Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ
thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng
kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực các kế hoạch,
chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực
và hợp lý của bảng khai tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ
và tin cậy. Như vậy, thực hiện kế hoạch kiểm toán không chỉ là quá trình triển khai
một cách máy móc kế hoạch đã vạch ra, cũng không phải là quá trình thu thập một
cách thụ động các bằng chứng kiểm toán theo định hướng trong kế hoạch kiểm
toán hoặc tràn lan theo diễn biến của thực tiễn. Trái lại, đó là một quá trình chủ

động thực hiện các kế hoạch và chương trình kiểm toán kết hợp với khả năng của
KTV để có được những kết luận xác đáng về mức độ trung thực và hợp lý của bảng
khai tài chính. Hơn nữa, để có được những kết luận cùng những bằng chứng này,
quá trình xác minh không chỉ dừng ở những thông tin trên bảng khai tài chính mà
quan trọng hơn là cả những thông tin cơ sở đã được tổng hợp vào bảng khai này
qua “công nghệ kế toán” với những thủ tục kế toán cụ thể.
1.1.4.3. Hoàn thành kiểm toán và công bố Báo cáo kiểm toán
Kết thúc kiểm toán là công việc cuối cùng trong qui trình chung kiểm toán BCTC
của doanh nghiệp. Đây là khâu cuối cùng nhưng lại đóng vai trò quan trọng không kém vì
đây là giai đoạn mà các KTV phải tổng hợp để hình thành nên ý kiến của mình về BCTC
của doanh nghiệp được kiểm toán. Để kết thúc kiểm toán, cần đưa ra kết luận kiểm toán và
lập báo cáo hoặc biên bản kiểm toán. Đối với một loại hình kiểm toán cụ thể như kiểm
toán tài chính, để có thể đưa ra kết luận kiểm toán và lập BCKT, KTV phải tiến hành hàng
loạt công việc cụ thể trong giai đoạn kết thúc kiểm toán. Những công việc này thường bao
gồm: xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến; xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc
niên độ; xem xét giả thuyết về tính liên tục trong hoạt động của đơn vị; thu thập thư giải
trình của Ban giám đốc đơn vị; tổng hợp kết quả kiểm toán và lập BCKT.
1.2. Lý luận chung về Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
1.2.1. Khái niệm Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán BCTC là công việc lập BCKT về
BCTC.
BCKT về BCTC về thực chất là một bản thông báo về kết quả cuộc kiểm
toán về BCTC cho người sử dụng BCTC.
Nội dung trình bày của BCKT về BCTC có thể khác nhau nhưng phải
chuyển đến cho người đọc bản BCKT về BCTC những đánh giá của KTV về sự
phù hợp của những thông tin định lượng của BCTC cũng như sự tuân thủ các
chuẩn mực; hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập BCTC này.
Hình thức trình bày BCKT về BCTC có thể có nhiều hình thức khác nhau có
thể bằng văn bản hoặc bằng miệng (trong trường hợp đơn giản, khi kiểm toán
BCTC cho một cá nhân nào đó và họ không cần có kết quả kiểm toán trình bày

dưới dạng bằng văn bản).
Theo quy định mang tính phổ biến của một quốc gia hoặc của Uỷ ban về
chuẩn mực kiểm toán (IAPC) của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) thì BCKT về
BCTC được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về
mặt nội dung và hình thức.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 – Báo cáo kiểm toán về Báo
cáo tài chính – “BCKT là loại báo cáo bằng văn bản do KTV và công ty kiểm toán
lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ
chức hoặc doanh nghiệp) đã được kiểm toán”.
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
BCKT về BCTC có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kiểm toán và
với người sử dụng BCTC.
Đối với hoạt động kiểm toán, BCKT về BCTC là khâu cuối cùng trong quá
trình thực hiện cuộc kiểm toán BCTC để trình bày kết quả của cuộc kiểm toán
bằng những ý kiến đánh giá của KTV về thông tin định lượng và trình bày BCTC
theo quy định của chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành.
Đối với người sử dụng BCTC, khi sử dụng BCTC có BCKT về BCTC đính
kèm giúp cho người sử dụng BCTC đánh giá được độ tin cậy của các thông tin
định lượng trên BCTC trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng đắn,
hiệu quả trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có BCTC
này.
Sơ đồ 1.2 - Mối quan hệ giữa BCTC, BCKT về BCTC và người sử dụng BCTC
Doanh nghiệp
1.2.3. Yêu cầu lập, trình bày, gửi Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
Khi kết thúc cuộc kiểm toán BCTC, KTV phải lập BCKT về BCTC trình
bày ý kiến của KTV về tính trung thực, hợp lý của các thông tin định lượng và sự
trình bày các thông tin định lượng này trên BCTC do đơn vị (tổ chức, doanh
nghiệp) được kiểm toán đã lập.
BCKT về BCTC phải được trình bày theo chuẩn mực kiểm toán quy định cả
về nội dung, kết cấu và hình thức.

Sự trình bày nhất quán về nội dung, kết cấu và hình thức để người đọc
BCKT về BCTC hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy
ra.
BCKT về BCTC phải được đính kèm với BCTC được kiểm toán.
1.2.4. Các yếu tố cấu thành Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính
BCKT về BCTC gồm các yếu tố cơ bản và được trình bày theo thứ tự sau:
 Tên và địa chỉ công ty
BCKT phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và
số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành
BCKT.
Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cũng thực hiện một cuộc
kiểm toán thì phải ghi đầy đủ các thông tin nêu trên của các công ty cũng ký
BCKT.
Báo cáo tài chính do
doanh nghiệp lập
Báo cáo
kiểm toán
về báo cáo
tài chính
do KTV
lập
Người sử dụng
báo cáo tài
chính
Ra các quyết định kinh tế
 Số hiệu báo cáo kiểm toán
BCKT phải ghi rõ số hiệu phát hành BCKT của công ty hoặc chi nhánh công
ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của
công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán).
 Tiêu đề Báo cáo kiểm toán

BCKT phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do
người lập. BCKT được phép sử dụng tiêu đề “Báo cáo kiểm toán”, hoặc “Báo cáo
kiểm toán về báo cáo tài chính” hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm
… của Công ty …”.
 Người nhận Báo cáo kiểm toán
BCKT phải ghi rõ người được nhận BCKT phù hợp với Hợp đồng kiểm
toán. Người nhận có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc, hoặc các cổ đông đơn vị
được kiểm toán.
BCKT phải được đính kèm với BCTC được kiểm toán.
 Mở đầu của báo cáo kiểm toán
- BCKT phải ghi rõ các BCTC là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi
rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà BCTC đó phản ánh.
- BCKT phải khẳng định rõ ràng việc lập BCTC là thuộc trách nhiệm của
Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của KTV và
công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về BCTC dựa trên kết quả kiểm toán của mình.
BCTC phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Việc lập
BCTC đòi hỏi Giám đốc (hay người đứng đầu) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận. Phải lựa chọn các nguyên tắc và
phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán
thích hợp. Ngược lại trách nhiệm của KTV và công ty kiểm toán là kiểm tra các
thông tin trên BCTC và đưa ra ý kiến về báo cáo này.
 Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
BCKT phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách
khẳng định rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận.
Điều đó chỉ khả năng của KTV thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần
thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho ng
ười đọc BCKT hiểu rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn
mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, KTV đã thực hiện
các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong BCKT.

BCKT phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện
để có được sự đảm bảo hợp lý là các BCTC không còn chưa đựng những sai sót
trọng yếu.
BCKT phải nêu rõ các công việc đã thực hiện, gồm:
- Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản … ) những bằng
chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong BCTC;
- Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được
chấp nhận); Các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập BCTC;
- Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng được Giám đốc (hoặc
người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập BCTC;
- Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các BCTC.
 Ý kiến của KTV và công ty kiểm toán về BCTC đã được kiểm toán
Báo cáo phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để
làm căn cứ cho ý kiến của KTV.
BCKT phải nêu rõ ý kiến của KTV và công ty kiểm toán về các BCTC trên
phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành
(hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan.
 Địa điểm và thời gian lập Báo cáo kiểm toán
BCKT phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán.
Điều này cho phép người sử dụng BCTC biết rằng KTV đã xem xét đến các sự
kiện (nếu có) ảnh hưởng đến BCTC, hoặc BCKT cho đến tận ngày ký BCKT.
BCKT phải ghi rõ địa điểm (Tỉnh, Thành phố) của công ty hoặc chi nhánh
công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành BCKT.
Ngày ký BCKT không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng
đầu) đơn vị ký BCTC. Trường hợp BCTC được điều chỉnh và lập lại trong quá
trình kiểm toán thì ngày ký BCKT được phép ghi cùng ngày với ngày ký BCTC.
 Chữ ký và đóng dấu.
BCKT phải ghi rõ tên của KTV đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam
- Người chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được

uỷ quyền) của công ty (hoặc chi nhánh công ty) kiểm toán chịu trách nhiệm phát
hành BCKT.
Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy đăng ký hành
nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ ký của Giám đốc (hoặc người được uỷ
quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành
BCKT. Giữa các trang của BCKT và BCTC đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp
lai.
Phù hợp với thông lệ chung của Quốc tế, Giám đốc (hoặc người được uỷ
quyền) được phép ký bằng tên của công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của
mình, nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở
Việt Nam của chính mình, và đóng dấu công ty kiểm toán.
Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán cùng thực hiện một cuộc kiểm toán
thì BCKT phải được ký bởi Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của đủ các
công ty kiểm toán theo đúng thủ tục như trên. Trường hợp này KTV chịu trách
nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên BCKT.
BCKT phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc
hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra.
1.2.5. Các loại ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên Báo cáo kiểm
toán về Báo cáo tài chính
Ý kiến của KTV trình bày trên BCKT về BCTC là một trong những nội
dung quan trọng của BCKT về BCTC. Ý kiến này đưa ra đánh giá của KTV trên
các phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh
trọng yếu của thông tin định lượng của BCTC và sự tuân thủ các chuẩn mực và chế
độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), về việc tuân thủ các quy định pháp lý
có liên quan.
Ý kiến đánh giá về BCTC được kiểm toán phản ánh trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu: nghĩa là ý kiến của KTV đưa ra trên BCKT về BCTC
một sự đảm bảo chắc chắn rằng BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai
sót nào trên BCTC đã được kiểm toán. KTV chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu

của BCTC.
Để hình thành các ý kiến nhận xét của KTV trong BCKT, các KTV phải soát
xét, đánh giá các kết luận rút ra từ các bằng chứng đã thu thập được, để hình thành
các kết luận toàn diện về các khía cạnh sau đây:
- Các BCTC lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế
toán hay không.
- Các thông tin tài chính có phù hợp với các quy định hiện hành và với các
yêu cầu của pháp luật không.
- Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp có nhất quán với các
hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay không.

×