Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Hiện trạng nuôi cá tra và sản xuất giống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.04 KB, 7 trang )


HIỆN TRẠNG NUÔI CÁ TRA, SẢN XUẤT GIỐNG
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỐNG
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2009
I. Hiện trạng về sản xuất cá tra giống
1. Đánh giá chung về nuôi cá tra
Theo đánh giá của tổ chức Nông lương thế giới (FAO) Việt Nam là một
trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản nhanh nhất thế
giới với tốc độ tăng giá trị trung bình giai đoạn 1998-2008 đạt 18%.
Đóng góp vào thành tích đó phải nói tới nghề nuôi cá tra ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Năm 2008 sản lượng cá tra chiếm tới hơn 50% sản lượng thuỷ
sản nuôi trồng, chiếm 27% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản.
Nuôi cá tra thực sự phát triển nhanh từ năm 2000 do sản phẩm được xuất
khẩu sang các nước ngày càng nhiều, mang lại hiệu quả cao và cá tra đã trở
thành một mặt hàng chiến lược quan trọng, góp phần đưa Việt Nam trở thành
nước đứng thứ 6 thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, thứ 5 về nuôi trồng.
Năm 2000 có 5 tỉnh nuôi cá tra và cá basa với diện tích 2.125 ha và
2.900 bè trên sông đạt sản lượng 106 ngàn tấn, trong đó cá basa chiếm 11,5%.
Năm 2005 có tới 13 tỉnh nuôi cá tra sản lượng đạt 417 ngàn tấn, trong đó cá
basa nuôi bè hiệu quả thấp hơn không được chú ý phát triển nuôi như trước nữa
chỉ còn chiếm 0,5%. Năm 2008 sản lượng cá tra đạt khoảng 1,2 triệu tấn, bằng
24% tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt hơn
1,2 tỷ USD; tạo được việc làm cho khoảng 50 ngàn lao động (42 ngàn lao động
nuôi cá và 8 ngàn lao động sản xuất cá giống). Nuôi cá tra còn thúc đẩy ngành
công nghiệp chế biến phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Tuy nhiên, tình hình sản xuất và tiêu thụ cá tra trong mấy năm qua đang
thể hiện sự thiếu bền vững. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan
khác nhau đang được Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các
Bộ ngành, các địa phương, các tổ chức Hiệp hội nuôi cá và chế biến xuất khẩu
đang chung tay triển khai các giải pháp đồng bộ để khắc phục một cách hữu


hiệu. Trong đó, về khâu nuôi cá nguyên liệu, vấn đề phải giảm giá thành và
nâng cao chất lượng thịt cá rất được quan tâm. Vấn đề này có thể giải quyết
được thông qua các yếu tố đầu vào mà một phần là từ chất lượng con giống.
Bảng 1. Sản lượng cá tra nuôi từ năm 2000- 2008(tấn)
1
TT Tỉnh, thành N.2000 N.2003 N.2004 N.2005 N.2008
1 Long An - - 700 1.200 -
2 Tiền Giang 2.952 11.440 18.900 27.000 45.000
3 Bến Tre - - 12.034 4.500 100.223
4 Trà Vinh - - 10.604 8.324 5.789
5 Sóc Trăng - 2.400 5.850 13.560 49.200
6 Bạc Liêu - - 110 120 -
7 Cà Mau - - - 75 -
8 Kiên Giang - - - 400 15.320
9 An Giang 30.000 56.451 70.605 108.888 268.091
10 Đồng Tháp 11.916 17.010 31.500 86.515 285.302
11 Vĩnh Long 750 7.700 15.396 31.800 110.838
12 Hậu Giang
6.630
2.400 3.375 6.250 40.480
13 Cần Thơ 35.698 41.383 82.850 207.771
Tổng 52.248 133.099 210.457 371.482 1.128.014
2. Hiện trạng sản xuất giống cá tra và công tác quản lý
a) Tình hình sản xuất cá giống và nhu cầu giống cá tra
Khâu đầu tiên có tính chất quyết định tới giá thành và chất lượng thịt cá
tra là con giống. Con giống tốt nuôi sẽ lớn nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, có sức
đề kháng cao với dịch bệnh, giảm chi phí thuốc phòng trị bệnh, tỷ lệ hao hụt
thấp, nhờ vậy sẽ hạ giá thành sản phẩm. Chất lượng cá nguyên liệu cũng phụ
thuộc vào phẩm giống, loại cá có thịt trắng dễ tiêu thụ và có giá cao hơn.
Nhu cầu giống cá tra mỗi năm cần từ 1,8 tỷ đến 2,0 tỷ con. Hiện nay

toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 116 trại sinh sản cá bột hoạt động
(thời gian cao điểm tới 235 trại), với khoảng 4000 hộ ương cá giống trên diện
tích hơn 2250 ha, năng lực sản xuất được hơn 1,8 tỷ cá giống, về cơ bản đáp
ứng đủ cho nhu cầu nuôi. Việc sản xuất cá giống tập trung nhiều nhất ở Đồng
Tháp, An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang.
Hiện trạng sản xuất giống cá tra đang phát triển theo quy luật cung - cầu
và quy luật giá trị, nhưng chưa được quản lý chặt chẽ mà mang tính tự phát, vì
lợi nhuận trước mắt. Khi cá nguyên liệu tiêu thụ được giá, diện tích nuôi tăng
lên, giống trở nên khan hiếm sẽ bị đẩy giá lên cao. Khi đó xảy ra tình trạng sản
xuất giống chạy theo số lượng mà không chú ý đến chất lượng. Hiện tượng
cạnh tranh không lành mạnh như tăng giá giống, xuất bán giống cỡ nhỏ, buôn
bán dịch vụ giống lòng vòng làm cho con giống yếu đi không đảm bảo chất
lượng. Nhiều cơ sở ương dưỡng, dịch vụ giống mới được hình thành một cách
vội vàng không đảm bảo điều kiện sản xuất, kinh doanh theo quy định. Khi cá
nguyên liệu bị hạ giá, khó tiêu thụ thì các trại sinh sản cá bột thường không chú
ý tới nuôi dưỡng đàn cá bố mẹ, cho ăn cầm chừng, thậm chí cắt giảm lượng
thức ăn, cá phát dục kém. Nhưng nếu ngay sau đó cá nguyên liệu tiêu thụ được
2
giá cao, nhu cầu giống tăng lên thì đàn cá bố mẹ bị bỏ đói đó lại được sử dụng
ngay để sinh sản, lạm dụng thuốc kích dục tố liều cao để ép cho cá đẻ nhiều lần
trong năm, trứng non, nhỏ, phát triển không đều nên cá bột rất yếu, tỷ lệ ương
lên giống đạt rất thấp.
Bảng 2. Năng lực sản xuất cá giống và nhu cầu cá giống của các tỉnh
TT ĐỊA PHƯƠNG
CƠ SỞ SẢN XUẤT GIỐNG SẢN LƯỢNG CÁ
GIỐNG (triệu)
Trại sx cá
bột
Cơ sở ương cá giống
Nhu cầu Sx được

1 An Giang 12 642ha (2072 hộ) 400 280
2 Bến Tre 01 40ha (30 hộ) 120 40
3 Cần Thơ 02 400ha (150 hộ) 300 400
4 Đồng Tháp 88 790ha(chưa th.kê) 410 700
5 Hậu Giang 03 16ha (19 hộ) 90 35
6 Kiên Giang 02 6ha (2 hộ) 30 1-2
7 Sóc Trăng 02 2ha(3 hộ) 70 2-3
8 Tiền Giang 02 300ha(1300hộ) 60 300
9 Trà Vinh 01 30ha (21hộ) 13 20
10 Vĩnh Long 03 25ha (60hộ) 150 50
Tổng cộng 116 2.251 ha (3.657 hộ) 1.643 1.830
Khảo sát về tình hình sản xuất giống cá tra hiện nay cho thấy có 3 mô
hình sản xuất giống chủ yếu sau:
- Trại sinh sản cá bột sau đó ương thành cá giống bán cho người nuôi.
- Trại sinh sản cá bột cung cấp cho các cơ sở ương giống là chính.
- Cơ sở ương chỉ mua cá bột ương thành cá giống và dịch vụ giống.
Đối với các trại sinh sản cá bột, phần lớn sử dụng đàn bố mẹ tuyển chọn
từ cá thịt, phẩm giống đã thoái hoá, cỡ cá nhỏ. Trước đây, cá giống lấy từ môi
trường tự nhiên nuôi từ 2,5 đến 3 năm tuổi, trọng lương 4-5 kg mới bắt đầu
thành thục. Hiện nay cá nuôi mới 5-6 tháng tuổi, trọng lương 0,5-1,0 kg đã
thành thục nên chất lượng cá bột thấp. Để giảm chi phí mà vẫn thu được sản
lượng cá bột cao, nhiều trại giống đã giảm khối lượng đàn cá bố mẹ, giảm
lượng thức ăn nuôi dưỡng nhưng tăng cường độ sinh sản 5-6 lứa/năm.
Đối với cơ sở ương cá giống, nhiều nơi có quy mô nhỏ, nguồn nước cho
ao ương bị động, sử dụng thức ăn tự chế với cả những loại tươi sống làm nước
nhanh bẩn, ô nhiễm tiềm ẩn các loại bệnh và ký sinh trùng. Trong khi nguồn cá
bột chất lượng thấp, lại được ương trong điều kiện môi trường không đảm bảo,
tỷ lệ hao hụt rất lớn, từ cá bột lên cá hương hao tới 70- 80%, từ cá hương lên
giống hao tới 40-50%. Để sản xuất được 1,8 tỷ cá giống thì phải có tới 12 tỷ cá
bột, nghĩa là cần tới 1000 tấn cá bố mẹ.

3
Việc sử dụng con giống chất lượng thấp dẫn đến kết quả cá nuôi phát
triển không đồng đều, tỷ lệ cá thịt vàng cao, tỷ lệ thịt phi-lê thấp, khả năng
kháng bệnh rất kém trong quá trình nuôi phải sử dụng nhiều thuốc trị bệnh, tiêu
tốn thức ăn nhiều, cá phân đàn, hao hụt lớn, giá thành cá nguyên liệu cao ảnh
hưởng tới tiêu thụ và còn tác động xấu tới môi trường. Theo phản ánh của
người nuôi cá tra cho biết, tỷ lệ hao hụt cá nuôi tới 30%, nhiều hộ mới thả
giống được 20 - 30 ngày mà lượng cá bị chết đến gần 15%. Mức độ tiêu tốn
giống bình quân tới 2000 con giống/tấn cá nguyên liệu. Hầu như tất cả các
vùng nuôi đều đã xuất hiện những loại bệnh phổ biến trên cá tra như xuất
huyết, trắng mang, trắng gan, và nhất là căn bệnh nguy hiểm gan thận mủ.
b) Công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh giống
Mặc dù Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có quy chế quản lý
sản xuất, kinh doanh giống thủy sản nhưng việc quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh giống cá tra thời gian qua ở nhiều địa phương vẫn còn đang bị thả
lỏng, chưa được các ngành chuyên môn kiểm soát chặt chẽ. Theo báo cáo của
các địa phương, trong số hơn 4000 cơ sở sản xuất giống, chỉ có khoảng 1/4 số
cơ sở có đăng ký kinh doanh và có tổ chức sản xuất thường xuyên với diện tích
lớn, sản lượng nhiều, thực hiện sản xuất theo quy trình kỹ thuật, cá bố mẹ có
nguồn gốc rõ ràng, có nhật ký ghi chép quá trình sản xuất đầy đủ, có công bố
chất lượng và thực hiện kiểm dịch giống trước khi xuất trại. Các cơ sở còn lại
quy mô nhỏ, sản xuất không ổn định, khi giá cá giống cao thì hoạt động, khi
giá thấp thì dừng hoạt động, dịch vụ bán giống vận chuyển bằng phương tiện
thủy, địa điểm và thời gian giao giống lưu động rất khó quản lý.
Việc quản lý chưa chặt chẽ một mặt là do một số địa phương chưa quy
hoạch chi tiết vùng sản xuất giống để làm cơ sở cho quản lý. Mặt khác, do sự
sắp xếp lại bộ máy quản lý ngành nông nghiệp, trong đó sự hình thành tổ chức
bộ máy quản lý chuyên ngành nuôi trồng thủy sản ở địa phương chậm chễ. Khi
đã hình thành rồi thì việc phân định chức năng nhiệm vụ quản lý giữa những cơ
quan chức năng chuyên môn về nuôi trồng thủy sản, về thú y thủy sản, về quản

lý chất lượng giống thủy sản chưa được hướng dẫn rõ ràng nên các địa phương
rất khó thực hiện. Sau khi Bộ trưởng ban hành Quyết định số 1427/QĐ-BNN
ngày 20 tháng 5 năm 2009 Phân công nhiệm vụ thú y thủy sản cho Cục Thú y,
Cục Nuôi trồng thủy sản và Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy
sản thì công tác quản lý ở cấp Cục, cấp Chi cục mới bắt đầu chuyển giao nhiệm
vụ để hoạt động đúng chức năng chuyên môn. Song các Chi cục thiếu nhân lực,
thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, thiếu phương tiện, công cụ, cho hoạt động kiểm
tra điều kiện sản xuất và kiểm dịch.
Ngoài ra, hiện nay ở khu vực trọng điểm sản xuất cá tra chưa có sự đầu
tư của nhà nước để hình thành những phòng khảo nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm
định giống và môi trường.
4
II. Kết quả của đề tài nghiên cứu về giống cá tra
Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm cá tra trên thị trường thế giới, trong
sản xuất cá tra nguyên liệu đòi hỏi cần tạo ra được nguồn cá giống khoẻ mạnh,
tăng trưởng nhanh, đề kháng bệnh cao, thịt trắng, định mức phi-lê cao sẽ giúp
người nuôi cá tra giảm chi phí nuôi cá và đáp ứng một phần yêu cầu của các
nhà máy chế biến cá tra.
Thực hiện nhiệm vụ khoa học của Bộ Thủy sản giao (nay là Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt
Nam bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II đã nghiên cứu thành
công đề tài “Cải thiện chất lượng di truyền chọn giống cá tra”. Hoạt động giai
đoạn I (2001-2004) của đề tài đã nghiên cứu tạo được 3 đàn vật liệu ban đầu
làm tiền đề cho chương trình chọn giống. Tiếp theo giai đoạn II (2006-2008)
của đề tài đã thực hiện chọn lọc 2 tính trạng tăng trưởng và tăng tỉ lệ phi-lê.
Kết quả thực tế thu được là cá tra chọn giống cho trọng lượng tăng trưởng 13%
sau một thế hệ, hơn cá bình thường không chọn giống trong cùng điều kiện và
tỉ lệ phi-lê tăng hiệu quả qua chọn lọc 0,9%.
Năm 2007 Trung tâm quốc gia giống thủy sản Nam bộ đã cung cấp hơn
2.000 cá bố mẹ cho Trung tâm giống thủy sản của An Giang, Đồng Tháp và

một số trại cá giống trong vùng. Con giống từ nguồn cá bố mẹ này được người
nuôi thừa nhận đã phát huy được ưu thế nổi trội của giống chọn lọc.
Theo quy chế quản lý sản xuất, kinh doanh giống thủy sản quy định “Cơ
sở thực hiện sinh sản nhân tạo giống cá tra,…phải sử dụng đàn bố mẹ đảm bảo
chất lượng theo Tiêu chuẩn ngành, có chứng nhận xuất xứ dòng thuần được tiếp
nhận từ các Trung tâm giống thuỷ sản (của Viện nghiên cứu hoặc của tỉnh)
hoặc từ cơ sở có đăng ký kinh doanh đàn giống thuần chủng, đàn giống ông bà,
đàn giống bố mẹ; mỗi cá thể sử dụng cho sinh sản không quá 2 lần trong một
năm…”. Tuy nhiên, hiện nay giá thành cá hậu bị chọn giống có giá 100 ngàn
đồng/kg là khá cao so với giá cá nguyên liệu chỉ 15 ngàn đồng/kg. Nhiều cơ sở
không đủ khả năng tài chính để thay đổi đàn cá bố mẹ bằng cá chọn giống. Mặt
khác, do chưa quản lý được cá giống lưu thông nên cá có nguồn gốc cũng như
cá trôi nổi giá bán không khác nhau nên người sản xuất giống không muốn
phải mất một khoản tiền lớn cho việc thay đổi đàn cá bố mẹ. Điều này đã hạn
chế đến việc thực hiện quy chế quản lý của ngành và gây thiệt hại cho nghề
nuôi cá tra. Chỉ khi áp dụng quy chế quản lý bắt buộc thì các trại mới thay đổi
đàn cá bố mẹ.
III. Giải pháp nâng cao chất lượng giống cá tra
1. Thay đổi đàn cá bố mẹ của các trại giống bằng cá chọn giống
Cá tra chọn giống có những ưu thế nổi trội, tăng trưởng nhanh. Để hạ giá
thành sản phẩm và nâng cao chất lượng cá nguyên liệu thì cần thiết phải nhân
nhanh nguồn cá chọn giống ra nuôi đại trà. Theo nội dung của quy chế quản lý
5

×