Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

CA TRÙ - MỘT LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.82 KB, 7 trang )

CA TRÙ - MỘT LOẠI HÌNH NGHỆ
THUẬT ĐỘC ĐÁO
Ca trù là một trong những loại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam. Xuất
hiện vào đầu thế kỷ XVI, trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, có lúc tưởng
chừng như không thể tồn tại được, nhưng với những đặc trưng về loại hình nghệ thuật
độc đáo, sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng hát hoà cùng các nhạc khí: phách,
đàn đáy, trống chầu… cho tới ngày nay, ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng
không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. Đây là môn nghệ thuật dân gian đang
được Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân
loại.



Tên gọi và nguồn gốc

Ca trù còn có rất nhiều tên gọi.Tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca
trù còn gọi là hát ả đào, hát cô đầu, hay hát nhà tơ…tuy nhiên dù có tồn tại ở dạng tên
gọi nào thì sự tồn tại của ca trù luôn gắn liền với các đào nương “ không có đào nương
bất thành ca trù, khi nói đến ca trù không thể không nói tới đào nương”. Để trở thành
một đào nương cũng không phải là chuyện dễ, phải hội được nhiều tiêu chuẩn khắt khe
như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ,
lòng đam mê và kiên trì...sự tồn tại của ca trù được quyết định bởi chính các đào
nương. Các đào nương chính là những người chuyền tải và thể hiện những cái hay, cái
đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày nay.

Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và
quản giáp cai quản. Ca trù có qui chế về sự truyền nghề, cách học đàn học hát, có
những phong tục trong sự nhìn nhận đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy
cho phép mặc áo đào nương để biểu diễn chánh thức lần đầu tiên trong đình làng gọi là
Hát cửa đình), có nhũng qui chế về việc chọn đào nương đi hát thi (ngoài tài năng và
sắc diện cần phải có đức hạnh tốt). Các cuộc Hát thi và phát giải được tổ chức rành rẽ,


các lễ hội được cử hành rất nghiêm chỉnh.

Ca trù được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một số trò diễn và múa dân
gian. Ca trù lúc khởi thủy cũng như trong một thời gian khá dài là một bộ môn nghệ
thuật tổng hợp, bao gồm nhạc, thơ, múa và trò diễn. Chính vì vậy độc đáo của ca trù
chính là sự phối hợp đa dạng, tinh vi, nhuần chuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có
cả múa.

Loại hình

Hầu hết các loại hình nhạc cổ Việt Nam đều có sự phối hợp giữa thơ và nhạc
như: vè, đồng dao có thơ 3, 4 chữ, các bài hát ru, hò, lý, các làn điệu chèo thường là
thơ lục bát, lục bát biến thể hay song thất lục bát. Không chỉ có vậy, ca trù là một loại
nhạc thính phòng, như ca Huế miền Trung, ca Tài tử miền Nam. Nhưng trong các loại
nhạc thính phòng này, bài ca có những nét nhạc cố định, nếu đặt lời mới cũng phải
tuân theo nét nhạc đó, còn ca trù giai điệu không cố định mà tùy theo thanh giọng của
lời thơ, vì vậy mà trong các bài Gửi thư, Hát ru, Bắc phản, Mưỡu… có những giai điệu
khác nhau, cùng một thể hát nói nhưng có rất nhiều bài. Mỗi loại thơ đều có nét nhạc
và tiết tấu đặc biệt tạo ra nhiều thể trong ca trù.

Đặc biệt trong ca trù thanh nhạc và khí nhạc đi song song với nhau và mỗi loại
đều có nét đặc thù. Về thanh nhạc, ngoài hát tuồng có những kỹ thuật phong phú và
độc đáo còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền khác đều không có kỹ thuật thanh nhạc
phức tạp, tinh vi như ca trù. Thể hiện rõ nhất là khi đào nương cất tiếng hát, kỹ thuật
hát rất điêu luyện, không cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém
hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ. Hát trong cửa đình không
cần ngân nga. Hát chơi có cách đổ hột, đổ con kiến làm cho tiếng hát thêm duyên, có
khi như tiếng nức nở, thở than quyện vào lòng người.

Nhạc cụ


Trong ca trù bên cạnh thanh nhạc thì khí nhạc cũng hết sức quan trọng và đặc
biệt. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và trống chầu. Cỗ phách chỉ là một thanh tre
hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Gõ
hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp,
tiếng cao, tiếng trong, tiếng đục, tiếng dương, tiếng âm...Người biểu diễn cũng hết sức
nhịp nhàng, tay cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao, tay đưa xuống thấp uyển
chuyển như múa.


Đàn đáy - nhạc cụ đặc trưng của ca trù

Không thể không nói đến một loại nhạc cụ quan trọng, đó là đàn đáy được dùng
trong ca trù. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng cây ngô đồng, có
mặt mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở
ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có cách nhấn khác thường, tiếng vê,
tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân phương khi dìu dặt, dễ đi vào lòng người.

Góp thêm âm hưởng là trống chầu: trống chầu trong ca trù cũng khác với trống
chầu trong Tuồng, Hát bội...cả ở kích thước lẫn cách đánh. Kích thước và hình thức
của trống chầu rất gần với trống đế của chèo nhưng cách đánh và chức năng hoàn toàn
khác. Dùi trống không gọi là “dùi” mà gọi là “roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn dùi
trống khách. Người gõ trống (quan viên) phải là người sành về ca trù phải là người am
hiểu thấu đáo âm luật Ca trù mới có thể cầm roi được. Người đánh trống ít nhất phải
biết 5 phép trống dục, 6 phép trống chầu và nhiều cách biến hóa khác nữa. Khi đã cùng
hòa trong một canh hát thì tiếng trống sẽ trở thành nhạc cụ thứ ba sau phách và đàn
nhằm tôn vinh tiếng hát với lời thơ. Tất cả trở thành một bản hòa tấu vô cùng phong
phú của nhiều âm sắc, nhiều tính nǎng khác nhau và luôn có sự thay đổi, biến hóa
không ngừng.


×