Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa việt nam và hàn quốc trong khuôn khổ hiệp định thương mại tự do việt nam – hàn quốc VKFTA TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.25 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----o0o-----

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ
HÀN QUỐC TRONG KHUÔN KHỔ HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – HÀN QUỐC (VKFTA)

Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9310106

HOÀNG HẢI

Hà Nội, 2021


LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM THU HƯƠNG

Phản biện 1:…………………………………..

Phản biện 2:…………………………………..

Phản biện 3:…………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp
tại……………………………………………………………………………….


vào hồi…….giờ……tháng……năm……

Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện ĐH Ngoại thương


DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hoàng Hải (2017), Đẩy mạnh quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh
Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Chủ nhiệm
đề tài NCKH cấp cơ sở, Trường Đại học Ngoại thương, 2016-2017
2. Hoàng Hải, Vũ Thị Minh Ngọc (2017), Tăng cường đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang Hàn
Quốc, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 95/2017, trang 3 – 14.
3. Hoàng Hải, Vũ Thị Minh Ngọc (2017), Tác động của ODA đến thu hút FDI của Hàn Quốc
và thương mại song phương Việt – Hàn, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, tháng 10/2017, số 30
(670), trang 7-10.
4. Hoàng Hải (2017), Dự báo tác động của thuế quan trong VKFTA tới giá trị xuất nhập khẩu
của mặt hàng rau quả Việt Nam sang Hàn Quốc, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, tháng 02/2017,
số 06, trang 7-10.
5. Vũ Thị Minh Ngọc, Hoàng Hải, Đặng Hương Giang, Hồng Thị Minh (2019), Một số vấn đề
về quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương
mại tư do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Hàng Hải.



LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngay từ năm 1992, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Kể từ
đó, mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc liên tục được phát triển trên một giai đoạn mới của quan hệ
song phương, một giai đoạn đặc biệt của quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác toàn diện giữa hai
nhà nước. Quan hệ hai nước hiện nay nâng tầm ở mức “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược”. Thương

mại đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa hai nền kinh tế vốn có những nét đặc trưng
tương đồng về nét văn hóa, lịch sử
Trong gầm 30 năm qua, Hàn Quốc ln đứng trong danh sách nhóm 5 nước có quan hệ kinh
tế quy mơ lớn nhất với Việt Nam. Vì vậy, có thể nói Hàn Quốc đã trở thành một trong những đối
tác kinh tế quan trọng bậc nhất của Việt Nam.. Kể từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao cho đến
nay, giao dịch thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng khoảng 54 lần, thu hút hàng trăm nghìn
người lao động Việt Nam vào làm việc. Điều này đã góp phần cải thiện tình hình kinh tế xã hội và
nâng cao uy tín của từng quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Năm 2019, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và là thị trường xuất
khẩu lớn thứ tư, thị trường nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (dangcongsan.vn, 2020). Số liệu
trên cho thấy tầm quan trọng của thị trường Hàn Quốc đối với thương mại của Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc cũng là những đối tác gắn bó chặt chẽ ngay trong các diễn đàn khu
vực và quốc tế như ASEAN+3, APEC, ASEM, Liên hợp Quốc, WTO. Năm 2007, Việt Nam và các
nước ASEAN khác đã ký Hiệp định FTA ASEAN-Hàn Quốc. Các Hiệp định đa phương này đã
đem lại sự khởi sắc cho mối quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc. Tuy nhiên, quan hệ thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc vẫn bị ràng buộc bởi các cam kết đa phương. Cán cân thương mại hai
chiều Việt Nam – Hàn Quốc vẫn ln ở mức xuất siêu từ phía Hàn Quốc.
Chính vì vậy, để tăng cường mối quan hệ song phương Việt Nam – Hàn Quốc, năm 2012,
chính phủ hai nước đã khởi động các vòng đàm phán ký kết Hiệp định thương mại tự do song
phương Việt Nam – Hàn Quốc. Hiệp định bao gồm các nhóm nội dung chính về: Thương mại hàng
hóa (cam kết cắt giảm thuế quan); Thương mại dịch vụ (bao gồm các Phụ lục về viễn thơng, tài
chính...), Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và Kiểm dịch động thực
vật (SPS); Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa hải quan, Phịng vệ thương mại, Hàng rào kỹ thuật trong
thương mại (TBT), Thương mại điện tử, cạnh tranh, Thể chế và Pháp lý, Hợp tác kinh tế.
Khi Hiệp định VKFTA chính thức được ký kết trong năm 2015, luồng hàng hóa và vốn di
chuyển sẽ tự do hóa giữa hai quốc gia, các cơ hội thương mại được mở rộng hơn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam và Hàn Quốc. Song, cơ hội nhiều, thách thức cũng sẽ càng lớn. Nguy cơ
đối với các DN VN như phá sản, mất thị trường ngay trên sân nhà có thể nhìn thấy ngay trước
mắt. Quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Hàn Quốc và Việt Nam sẽ có nhiều sự thay đổi
theo nhiều chiều, cả về mặt tích cực và tiêu cực, dẫn tới tác động đến sự phát triển kinh tế của

từng quốc gia.
So với AKFTA, trong VKFTA, Hàn Quốc dành riêng cho Việt Nam những ưu đãi hơn về
cam kết dòng thuế, về mở cửa thị trường hơn đối với một số sản phẩm nhạy cảm. Bên cạnh đó, lĩnh
vực thương mại dịch vụ cũng được nhấn mạnh hơn, các cam kết về thương mại điện tử lần đầu tiên
được đề cập đến trong quan hệ thương mại giữa hai bên.
Năm 2019, 4 năm sau khi Hiệp định VKFTA được ký kết, Việt Nam và Hàn Quốc vẫn là
những đối tác thương mại lớn của nhau, song, trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến
động phức tạp với sự leo thang căng thẳng trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung và quan hệ
thương mại Nhật – Hàn làm tăng trưởng trong thương mại Việt Nam – Hàn Quốc đã chậm lại. 8
tháng đầu năm 2019 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc chỉ đạt 4,4 tỷ USD,
chỉ tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2018. Việt Nam vẫn là đối tác nhập siêu lớn của Hàn Quốc. Sự
giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc cũng đã làm ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu
của Việt Nam. Tình hình dịch bệnh Covid – 19 đang diễn ra từ đầu năm 2020 đã khiến nền kinh
tế cả hai nước chịu ảnh hưởng, giảm sút thương mại hàng hóa và cả thương mại dịch vụ giữa hai
quốc gia. Trong 9 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc chỉ
đạt 14,5 tỷ USD, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2019. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh quan hệ thương

1


mại song phương Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh mới càng trở nên cấp thiết hơn. Việt Nam
và Hàn Quốc cần phải tích cực phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – Hàn Quốc trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai quốc gia trong thời gian tới.
Rõ ràng, sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt văn hóa, địa lý, chính trị, kinh tế giữa hai nước, bên
cạnh đó, nhu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững của cả hai nước dẫn tới yêu cầu phải phát triển
mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại trên một bình diện mới. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia
phải đánh giá đúng cơ hội và thách thức mà mối quan hệ hợp tác thương mại trong bối cảnh mới
đem lại, từ đó đưa ra những quan điểm và giải pháp hợp lý về chính sách kinh tế, nhằm đảm bảo
các lợi ích kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế và hội nhập hiệu quả.
Đề tài: Đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong khuôn khổ Hiệp

định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) với mong muốn đem lại một góc nhìn
mới, trong bối cảnh mới về quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Hàn Quốc; đồng thời gợi ý một số
định hướng, giải pháp đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác thương mại giữa hai quốc gia; cũng là những
biện pháp có thể giúp Việt Nam phát triển kinh tế, nâng cao vị thế quốc gia và hội nhập thành công
trong thời đại mới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu:
Mục tiêu chung: thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đến năm 2030
Mục tiêu cụ thể:
- Làm rõ mối quan hệ thương mại ở cả hai mảng: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ
giữa Chính phủ và doanh nghiệp hai nước Việt Nam và Hàn Quốc trước khi ký kết VKFTA và sự
thay đổi của mối quan hệ này sau khi VKFTA chính thức được ký kết.
- Phân tích sự phát triển kinh tế Việt Nam đặt trong mối quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn
Quốc trước và sau khi VKFTA có hiệu lực.
- Xác định các giải pháp đẩy mạnh mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Hàn Quốc
tới năm 2030 trong bối cảnh VKFTA, đảm bảo thu được lợi ích kinh tế cho Việt Nam từ hợp tác
thương mại song phương Việt Nam – Hàn Quốc.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng về quan hệ thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn
Quốc trước khi ký kết VKFTA như thế nào, sau khi ký VKFTA thì có thay đổi gì? Những mặt được
và hạn chế trong mối quan hệ thương mại Việt Nam và Hàn Quốc là gì?
- VKFTA có tác động gì đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc?
- Việt Nam cần làm gì để phát triển mối quan hệ hợp tác thương mại với Hàn Quốc trong bối
cảnh Việt Nam ký kết Hiệp định VKFTA vào năm 2015, đồng thời đảm bảo được lợi ích kinh tế từ
quan hệ hợp tác thương mại này?
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quan hệ thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa hai nước Việt Nam và
Hàn Quốc đặt trong bối cảnh Hiệp định thương mại Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) có hiệu lực.
.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Không gian nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu quan hệ thương mại về hàng hóa và dịch vụ giữa Việt Nam
và Hàn Quốc, không nghiên cứu các mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác
trên thế giới.
3.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian: Từ năm 1992 – 2019 (đối với thương mại hàng hóa) khi Việt Nam và Hàn Quốc
bắt đầu đặt quan hệ thương mại chính thức và Từ năm 1995 đến năm 2019 (đối với thương mại dịch
vụ) do dữ liệu thống kê chỉ thống kê bắt đầu từ năm 1995. Giải pháp được đề xuất áp dụng đến
năm 2030.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ hợp tác thương mại song phương chính thức trên hai
mảng: thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Đề tài không đi

2


sâu vào phân tích các mối quan hệ khác giữa hai quốc gia như đầu tư, du lịch… Mặc dù trong q
trình phân tích, NCS cũng có đề cập đến các vấn đề này nhưng chỉ ở góc độ thương mại dịch vụ.
- Về thương mại hàng hóa: NCS nghiên cứu tác động của VKFTA đến kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt Nam – Hàn Quốc (dữ liệu được thu thập theo chương (mã HS 2 số))
- Về thương mại dịch vụ: tác giả nghiên cứu tác động của VKFTA đến kim ngạch xuất nhập
khẩu dịch vụ của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp bao gồm: Mô tả thống kê đối với các phần phân
tích về thực trạng thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Để phân tích tác động của Hiệp định VKFTA đến thương mại hàng hóa và dịch vụ của Việt
Nam và Hàn Quốc, NCS sử dụng mơ hình trọng lực, là mơ hình phù hợp để phân tích tác động của
Hiệp định thương mại đến xuất nhập khẩu của một quốc gia. Luận án tiếp thu kết quả của các nghiên
cứu trước và lựa chọn một số biến giải thích phù hợp với đặc điểm thương mại hàng hóa và dịch vụ

giữa Việt Nam và Hàn Quốc, bao gồm các biến về GDP bình quân đầu người của Việt Nam và Hàn
Quốc (giải thích được nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, là cơ sở để luân chuyển dòng hàng và dịch
vụ đi từ quốc gia này sang quốc gia khác), các yếu tố khác về kinh tế vĩ mô như chỉ số lạm phát,
yếu tố về cơ sở hạ tầng, yếu tố về lao động, chủng loại hàng hóa, v.v.. cũng đã được đưa vào mơ
hình để giải thích yếu tố ln chuyển hàng hóa và dịch vụ từ Việt Nam sang Hàn Quốc và ngược
lại. Trong bối cảnh giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã có những thỏa thuận thương mại ưu đãi nhằm
tạo điều kiện hơn nữa cho thương mại song phương, Luận án cũng đã sử dụng các biến về Hiệp
định thương mại tự do để giải thích tác động của các Hiệp định này đến thương mại hàng hóa và
dịch vụ hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, do dữ liệu về thương mại dịch vụ hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc chưa đi
sâu vào từng loại hình dịch vụ khác nhau, nên Luận án đã sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn
sâu chuyên gia (bao gồm các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, tổ chức và nhà nghiên cứu) để làm rõ hơn
tình hình thương mại trong một số lĩnh vực dịch vụ chủ yếu trong quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc.
Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện trong tháng 5/2020 thông qua phỏng vấn trực tiếp và
trao đổi qua điện thoại do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid – 19. Các ý kiến trao đổi đã được ghi
chép và sử dụng có chọn lọc làm cơ sở cho các nhận định trong Luận án.
4.2. Nguồn dữ liệu
Các dữ liệu được sử dụng trong đề tài được lấy từ nhiều nguồn khác nhau: trong đó, số liệu
về thương mại hàng hóa của Việt Nam và Hàn Quốc được sử dụng từ nguồn của tổ chức KITA (The
Korea International Trade Association – Hiệp hội Thương mại quốc tế Hàn Quốc) với dữ liệu chi
tiết đến chương.
Với dữ liệu về thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc, để phân tích tác động của
VKFTA đến thương mại dịch vụ của Việt Nam, NCS sử dụng dữ liệu của OECD trong giai đoạn
1995 đến 2019 để phân tích.
Các dữ liệu khác nhằm phục vụ cho q trình phân tích mơ hình cũng được sử dụng ở nhiều
nguồn tin cậy khác nhau, như: GDP, lạm phát, dân số, tỷ giá hối đoái, cơ sở hạ tầng… đều được lấy
nguồn từ WB. Với nguồn dữ liệu về đầu tư FDI giữa hai quốc gia trong giai đoạn nghiên cứu (1991
đến 2019) được lấy từ nguồn dữ liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam.
Để bổ sung cho các nhận định về thương mại dịch vụ, NCS sử dụng nguồn tin sơ cấp thu thập từ
việc phỏng vấn sâu các chuyên gia. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, do khó khăn trong việc

tìm kiếm và thu thập dữ liệu thứ cấp, do vậy, các nhận định, dữ liệu đánh giá về thương mại dịch
vụ Việt Nam – Hàn Quốc sẽ được bổ sung thông qua phỏng vấn các chuyên gia.
5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
Như vậy, trong tổng thể các nghiên cứu trong và ngoài nước, NCS nhận thấy đề tài Đẩy mạnh
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – Hàn Quốc (VKFTA) là một đề tài mới, cần được nghiên cứu sâu thêm. Đóng góp mới của
Luận án tập trung vào những điểm như sau:

3


Một là, đề tài đã góp phần hệ thống hóa được các cơ sở lý luận về quan hệ thương mại, xác
định mơ hình tác động của Hiệp định thương mại tự do đến quan hệ thương mại song phương Việt
Nam và Hàn Quốc trong khuôn khổ VKFTA.
Hai là, đi sâu vào phân tích quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc khơng chỉ ở góc
độ thương mại hàng hóa, mà cịn ở góc độ thương mại dịch vụ thơng qua việc phân tích các dữ liệu
thứ cấp và thông qua các thông tin phỏng vấn sâu từ các chuyên gia, là lãnh đạo doanh nghiệp, các
nhà nghiên cứu và các nhà quản lý.
Ba là, đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích định lượng (mơ hình trọng lực) kết hợp với
phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia nhằm giải thích tác động của Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) nói riêng và các yếu tố khác nói chung đến thương mại hàng hóa
và thương mại dịch vụ giữa hai quốc gia, trên cơ sở đó để đánh giá việc tận dụng các cơ hội và
thách thức mà VKFTA mang lại, thúc đẩy thương mại của Việt Nam và Hàn Quốc theo hướng hai
bên cùng có lợi, góp phần tăng trưởng kinh tế của hai quốc gia. VKFTA có tác động tích cực đối
với thương mại hàng hóa, song lại có tác động ngược chiều đối với thương mại dịch vụ, do độ trễ
trong tác động của VKFTA đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ, bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều rào
cản đối với lĩnh vực dịch vụ bởi đây là lĩnh vực có phạm vi rộng khắp nền kinh tế.
Bốn là, đề tài đã đề xuất được một số giải pháp từ phía Nhà nước và doanh nghiệp nhằm đẩy
mạnh mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Hàn Quốc tới năm 2030 trong bối cảnh VKFTA,
đảm bảo thu được lợi ích kinh tế cho Việt Nam từ hợp tác thương mại song phương Việt Nam –

Hàn Quốc.
Đề tài này hy vọng sẽ lấp được khoảng trống trong nghiên cứu, trong đó, tác giả dự định sẽ
đi sâu vào phân tích quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trên cả hai góc độ: thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ, đặt trong bối cảnh trước và sau khi Hiệp định VKFTA được ký kết.
Hy vọng nghiên cứu của tác giả sẽ mang lại cái nhìn tổng quan và toàn diện nhất về quan hệ thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc.
6. KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài Mục lục, Danh mục hình, bảng, danh mục từ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu
tham khảo, kết cấu của Luận án được chia thành 5 chương như sau:
Chương 1: Tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan tới đề tài luận án
Chương 2: Một số vấn đề lý thuyết về quan hệ thương mại và Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)
Chương 3: Thực trạng thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc
Chương 4. Phân tích tác động của Hiệp định thương mại tự do đến quan hệ thương mại Việt
Nam – Hàn Quốc
Chương 5: Định hướng, giải pháp và kiến nghị thúc đẩy mối quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Hàn Quốc trong bối cảnh VKFTA

4


CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Về quan hệ hợp tác thương mại song phương giữa hai quốc gia, nhiều nghiên cứu đã đề cập
đến việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác thương
mại giữa hai quốc gia hoặc giữa một quốc gia với một khối kinh tế.
Về hợp tác thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc:
Nhiều nghiên cứu của Kwesi Atuaful Quansah và Woo ChulAhn (2017), ADB (2010),
Jae – Ho Lee (2016), Park Noh Wan, (2014), Kim Kyoung Mi, (2011), Phan Thanh Hoan, Ji

Young Jeong (2014) đã đề cập đến mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, trong đó có
nhiều nghiên cứu phân tích cụ thể quan hệ thương mại Việt Nam và Hàn Quốc, dựa trên cơ sở
các Hiệp định thương mại tự do song phương và cho rằng đây là một công cụ tốt để thúc đẩy
tăng trưởng thương mại hai chiều.
Các nghiên cứu chủ yếu tập trung phân tích dưới góc độ định tính, một số sử dụng cơng
cụ định lượng như chỉ số thương mại nội ngành (IIT) trong mơ hình thương mại nội ngành giữa
một nước phát triển và một nước đang phát triển, chỉ số cường độ thương mại (TII), chỉ số lợi
thế so sánh (RCA) của từng quốc gia để đánh giá mức độ hợp tác thương mại song phương giữa
Việt Nam – Hàn Quốc.
Hầu hết các tác giả chỉ đề cập đến quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trên góc độ chung nhất,
khơng đi sâu vào mối quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Hàn Quốc. Nhiều nghiên
cứu đề cập đến quan hệ thương mại nhưng chưa thấy được tác động của một Hiệp định thương
mại tự do song phương đối với sự phát triển kinh tế của hai quốc gia. Đây là điểm trống trong
nghiên cứu mà NCS sẽ khai thác trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả cơng
trình này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về mơ hình lực hấp dẫn để giải thích tác động của các Hiệp định
đến thương mại song phương nhưng không đề cập trực tiếp đến thương mại Việt Nam – Hàn
Quốc như Chan (2005), Somayeh Razzaghi và cộng sự (2012), Rose và Frankel (2002); Projan
(2001), Papazoglou (2007), Tri Thai Do (2006), Gul và Yasin (2011),. Kết quả của các nghiên
cứu trên cũng sẽ được NCS tiếp thu và ứng dụng trong nghiên cứu của mình.
Về thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc: hiện theo kết quả nghiên cứu của
NCS, chưa có đề tài nào đi sâu khai thác quan hệ thương mại dịch vụ của Việt Nam và Hàn
Quốc, nhất là đặt trong bối cảnh VKFTA đã được ký kết.
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Về mối quan hệ hợp tác thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc, có một số
cơng trình, dự án nghiên cứu của một số cơ quan nhà nước như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, VCCI,
Bộ Ngoại giao, sách của nhiều tác giả trong nước về quan hệ song phương giữa Việt Nam –
Hàn Quốc. Nhiều cơng trình trong số này đề cập đến mối quan hệ tổng thể giữa Việt Nam –
Hàn Quốc, trong đó có đề cập đến mối quan hệ song phương về thương mại. Có thể kể đến một
số cơng trình về vấn đề này của các tác giả: VCCI, (2014), Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam

tại Đại hàn Dân quốc, (2011, Đỗ Hoài Nam, (2005), Phạm Thu Hương, (2002), Ngơ Xn
Bình, (2010), MUTRAP, (2011), Phạm Hữu Tài (2016). Các tác giả thường đề cập đến quan hệ
hợp tác kinh tế chung giữa Việt Nam và Hàn Quốc, hoặc chủ yếu đi sâu vào thương mại hàng
hóa chứ khơng đề cập đến thương mại dịch vụ giữa hai quốc gia, và chưa đề cập đến mối quan
hệ này trong bối cảnh sau khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc được ký kết.
Một số nghiên cứu của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam lại sử dụng mơ hình lượng mơ hình
cân bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của AKFTA đến mối quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam và Hàn Quốc nói chung hoặc sử dụng phân tích đa nhân tố, sử dụng mơ hình Input –
Output truyền thống có cải tiến và cho thấy nền kinh tế Việt Nam có lợi thế so sánh đáng kể về
gạo, may mặc, đồ nội thất và giày dép từ các FTA này, mang lại hy vọng cho tương lai. Mặc
dù vậy, các tác giả khơng đi sâu phân tích quan hệ song phương Việt Nam - Hàn Quốc mà chỉ
đánh giá với góc độ của cả khu vực ASEAN.

5


Về thương mại dịch vụ: Có một số tác giả đề cập đến thương mại dịch vụ, ở góc độ xuất
khẩu dịch vụ của Việt Nam, nhưng chưa nói đến quan hệ thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn
Quốc hoặc đề cập đến mối quan hệ này ở một khía cạnh cụ thể như xuất khẩu lao động hoặc du
lịch. Các tác giả điển hình như Hà Văn Hội, (2008), Phạm Chi Lan, Dorothy I. Riddle, (2005,
Phạm Thị Kim Oanh, (2013) Nguyễn Thị Hồng Vân, (2013). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trên
chưa đề cập đến quan hệ thương mại dịch vụ giữa Viêt Nam và Hàn Quốc mà chỉ nghiên cứu thương
mại dịch vụ chung của Việt Nam.
Bản thân tác giả cũng đã có cơng trình nghiên cứu về đề tài này. Trong một nghiên cứu năm
2016, tác giả đã sử dụng mơ hình trọng lực để thấy được tác động của việc ký kết VKFTA tới thúc
đẩy xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam sang Hàn Quốc. Với phạm vi nghiên cứu hẹp, đề tài
này cũng chưa thể bao quát được mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Về mơ hình trọng lực, NCS cũng dựa trên một số kết quả nghiên cứu của Đồn Quang
Hưng (2013), Nguyễn Bình Dương và cộng sự, (2012), Từ Thúy Anh (2008) để làm cơ sở cho
nghiên cứu của Luận án.

1.3. Kết luận chung về tổng thể nghiên cứu
Có thể khẳng định, đề tài nghiên cứu về mối quan hệ hợp tác thương mại - đầu tư giữa
Việt Nam – Hàn Quốc trong khuôn khổ hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc
(VKFTA) là một đề tài mới. Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Thương mại, Công nghiệp và
Năng lượng Hàn Quốc đã ký bản Ký tắt Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc vào
ngày 30/3/2015, bản chính thức được ký kết trong năm 2015. Từ đó cho đến nay, do nhiều
nguyên nhân, trong đó có hạn chế về mặt dữ liệu nên chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập
đến hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đặt trong bối cảnh hiệu lực của VKFTA.
Đây cũng là khoảng trống trong nghiên cứu, dựa trên cơ sở đó tác giả đi sâu vào phân tích và
khai thác mảng đề tài này.
1.4. Khoảng trống nghiên cứu của đề tài
Trong các cơng trình nghiên cứu trên tác giả nhận thấy một số khoảng trống trong nghiên
cứu, có thể liệt kê như sau:
 Về nội dung nghiên cứu:
 Đã có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và Hàn Quốc, song chủ yếu chỉ dừng lại ở thương mại hàng hóa. Có một vài cơng trình nghiên
cứu đề cập đến quan hệ thương mại dịch vụ, song chỉ đề cập đến thương mại dịch vụ của Việt
Nam nói chung, chưa phân tích vào quan hệ thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc. Trong
khi đó, Luận án này đi sâu vào lý giải quan hệ thương mại giữa hai quốc gia ở cả góc độ thương
mại hàng hóa và thương mại dịch vụ.
 Chưa có nghiên cứu nào phân tích mối quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc,
nhất là thương mại dịch vụ giữa hai quốc gia được đặt trong bối cảnh Hiệp định VKFTA. Mặc
dù trước đó, có một số cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến các hiệp định như AKFTA đến mối
quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư nói chung của Việt Nam và Hàn Quốc. Song hầu hết các
nghiên cứu trên chưa phân tích tác động của một Hiệp định thương mại tự do song phương đến
quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc.
 Về phương pháp nghiên cứu:
Nhiều cơng trình chỉ sử dụng phương pháp phân tích thống kê báo cáo; hoặc chỉ sử dụng
phương pháp định lượng thông qua các chỉ số TII, IIT, PCI để phân tích mối quan hệ thương
mại song phương Việt Nam – Hàn Quốc; hoặc sử dụng mơ hình cân bằng tổng thể CGE có sử

dụng số liệu phân tích GTAP để phân tích tác động của Hiệp định AKFTA đến quan hệ thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc; hoặc chỉ sử dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn để phân tích và
đánh giá hoạt động xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam.
Dựa trên các dữ liệu thu thập được, tác giả sử dụng các dữ liệu thứ cấp thu thập được từ
nguồn của OECD và WB để phân tích tác động của VKFTA đến thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ của Việt Nam và Hàn Quốc. Mô hình phù hợp nhất với dữ liệu thu thập

6


được là trên cơ sở mơ hình trọng lực. Trong đó, biến giả VKFTA sẽ được đưa vào mơ hình
cùng với một số biến khác để đo lường và đánh giá tác động của VKFTA đến xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với đối tác Hàn Quốc. Trên cơ sở các kết luận từ mơ hình
và các đánh giá định tính, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp phù hợp.
Bên cạnh đó, do nguồn dữ liệu về thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc được
sử dụng từ nguồn của OECD chưa đầy đủ, và do có sự thay đổi cách tính từ phía OECD từ năm
2012 nên để đánh giá được tình hình thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc, NCS đã sử
dụng thêm phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia. Các đánh giá, nhận định của các chuyên
gia đến từ các cơ sở nghiên cứu, lãnh đạo các doanh nghiệp và bộ ngành góp thêm cơ sở để
đánh giá tình hình thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc.
Như vậy, Luận án đã sử dụng được kết hợp nhiều phương pháp để làm rõ các nội dung
nghiên cứu, trong đó, Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê mơ tả, phương pháp
định tính thơng qua mơ hình trọng lực và phương pháp định tính thơng qua phỏng vấn sâu
chuyên gia. Đây là điều mà chưa thấy sử dụng ở các cơng trình nghiên cứu khác cùng chủ đề.

7


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VÀ HIỆP
ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – HÀN QUỐC (VKFTA)

Chương 2 sẽ đề cập đến các vấn đề lý thuyết về quan hệ thương mại, các nội dung của Hiệp
định VKFTA và mơ hình tác động của VKFTA đến quan hệ thương mại song phương giữa Việt
Nam và Hàn Quốc. Đây là cơ sở để thực hiện phân tích và đánh giá trong các chương tiếp theo.
2.1. Các vấn đề chung về quan hệ thương mại quốc tế
2.1.1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
Các lý thuyết về thương mại quốc tế đã giải thích cho các quan hệ thương mại giữa các quốc
gia. Theo đó, các quốc gia sẽ có quan hệ thương mại với nhau khi có lợi ích trong thương mại. Các
lợi ích này có thể là lợi thế tuyệt đối hoặc lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế. Các lý thuyết
cổ điển về lợi thế tuyệt đối của A.Smith và lợi thế so sánh của D. Ricardo sẽ vẫn là những lý thuyết
nền tảng giải thích nguyên nhân dẫn đến quan hệ thương mại giữa hai quốc gia.
2.1.1.1. Lý thuyết về lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối
Đây là các lý thuyết cổ điển quan trọng, chứng minh mối quan hệ thương mại giữa hai quốc
gia đều dựa trên cơ sở lợi ích, theo nguyên tắc: đơi bên cùng có lợi.
* Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A. Smith:
Theo lý thuyết của A. Smith, hai quốc gia sẽ tiến hành trao đổi và mua bán với nhau khi dựa
vào lợi thế tuyệt đối của từng quốc gia. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được khi một quốc gia tập
trung chun mơn hóa vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn các
quốc gia khác thì tất cả các quốc gia đều có lợi.
* Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo
D. Ricardo tiếp thu và phát triển lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của A. Smith, nêu rõ thương
mại quốc tế vẫn có thể diễn ra giữa một quốc gia gặp bất lợi tuyệt đối về tất cả các mặt hàng và một
quốc gia có lợi thế tuyệt đối về tất cả các mặt hàng, nếu như các quốc gia này có lợi thế so sánh.
2.1.1.2. Lý thuyết trọng lực:
Lý thuyết trọng lực cũng là một trong những lý thuyết hiện đại được sử dụng để giải thích sự
dịch chuyển của hàng hóa từ địa điểm này sang địa điểm khác. Mơ hình lực hấp dẫn trong kinh tế
quốc tế cũng tương tự như mơ hình lực hấp dẫn trong các mơn khoa học xã hội khác, dự đoán rằng
trao đổi thương mại song phương phụ thuộc vào quy mô của hai nền kinh tế và khoảng cách giữa
chúng. Mơ hình lý thuyết cơ bản giữa hai nền kinh tế A và B được biểu diễn theo công thức sau:
ln (Trao đổi thương mại hai chiều) = α + βln(GDP quốc gia A) + βln(GDP quốc gia B) βln(Khoảng cách) + ε
Dựa trên nền tảng lý thuyết của Jan Tinbergen, nhiều nhà nghiên cứu đã bổ sung làm đầy

đủ hơn mơ hình trọng lực với việc phát triển các yếu tố có thể tác động tới thương mại giữa hai
quốc gia. Nhiều yếu tố đã được đưa thêm vào mơ hình như mức thu nhập bình quân theo đầu người
(GDP per capita), chỉ số giá tiêu dùng, ngôn ngữ, thuế quan, quan hệ láng giềng (ADB, 2010).
Nhiều nghiên cứu về sau đã phát hiện ra thêm nhiều yếu tố có thể tác động đến thương mại giữa hai
quốc gia, như FDI, thậm chí cả yếu tố giảm phát (Devaluation) và một số các biến khác như cơ sở
hạ tầng, trình độ lao động, các hiệp định thương mại quốc tế (các biến số này có thể được biểu diễn
dưới dạng các biến giả - dummy variable) v.v.
2.1.2. Các khái niệm liên quan đến quan hệ thương mại quốc tế
2.1.2.1. Khái niệm về thương mại và thương mại quốc tế:
Có thể thấy thương mại quốc tế chính là việc thực thi thương mại giữa các chủ thể ở hai hay
nhiều quốc gia.
2.1.2.2. Phân loại thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại, song căn cứ vào đối tượng
mua bán giao dịch, có thể chia thành: thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Sau này có một
số hàng hóa đặc biệt, là các sản phẩm điện tử, số hóa, nên hình thành thêm khái niệm về thương
mại điện tử. Tuy nhiên, trong nội dung của Luận án chỉ đề cập đến thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ.
GATT không đưa ra khái niệm “thương mại dịch vụ” mà chỉ trình thương mại dịch vụ theo
4 phương thức cung cấp, tùy thuộc vào sự hiện diện trên lãnh thổ của nhà cung cấp và khách hàng
trong thời gian tiến hành giao dịch, theo đó, bao gồm:

8


+ Cung cấp qua biên giới – thương mại xuyên biên giới (phương thức 1)
+ Tiêu dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2)
+ Hiện diện thương mại (phương thức 3)
+ Hiện diện thể nhân (phương thức 4)
Trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) thương mại dịch vụ cũng
được định nghĩa giống như định nghĩa của GATS.

2.1.2.3. Khái quát về quan hệ thương mại quốc tế và các Hiệp định thương mại tự do
* Quan hệ thương mại quốc tế: thực chất là mối quan hệ thương mại giữa một quốc gia với
phần còn lại của thế giới dựa trên cơ sở công bằng, đôi bên cùng có lợi. Các quan hệ thương mại
quốc tế có thể hình thành trên cơ sở quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia hoặc giữa nhiều quốc gia,
hoặc giữa một quốc gia với một khu vực.
* Hiệp định thương mại tự do: FTA – Free Trade Agreement- là các thỏa ước giữa hai hay
nhiều quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế
quan theo một lộ trình cam kết, nhằm mục đích thành lập một khu vực mậu dịch tự do, cho phép di
chuyển tự do dòng hàng, vốn, lao động giữa các nước thành viên. Việc ký kết các FTA sẽ làm giảm
các rào cản thương mại giúp các ngành công nghiệp tiếp cận thị trường mới, tăng cường tiếp cận và
số lượng người mà họ có thể bán sản phẩm của mình; đồng thời mang lại lợi ích cho người tiêu
dùng.
* Đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia:
Về mặt lý luận, chưa có nghiên cứu nào đề cập rõ ràng về khái niệm đẩy mạnh quan hệ thương
mại. Gandolfo (1986) cho rằng thúc đẩy là cách tăng xuất khẩu cả về giá trị tuyệt đối và tương đối
so với nhập khẩu. Đẩy mạnh quan hệ có thể được đo lường bằng nhiều yếu tố khác nhau như: gia
tăng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương giữa hai quốc gia theo thời gian, hoặc gia tăng tỷ trọng
thương mại song phương trong tổng cơ cấu thương mại của mỗi quốc gia; hoặc gia tăng chủng loại
mặt hàng/dịch vụ trong cơ cấu thương mại hai chiều.
2.2. Căn cứ hình thành và tác động đến mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia
2.2.1. Cơ sở hình thành quan hệ thương mại quốc tế
* Quan hệ đối ngoại
Rõ ràng, việc thiết lập quan hệ đối ngoại sẽ là nền tảng cho phép tạo lập các mối quan hệ về
thương mại quốc tế giữa hai quốc gia. Sự ràng buộc giữa hai nhà nước ở trên cả hai mặt chính trị
và kinh tế, vì vậy chính sách về đối ngoại sẽ thường đi song song với các chính sách về kinh tế.
* Lợi thế của mỗi quốc gia
Có thể thấy hầu hết các quốc gia khi tham gia vào thị trường quốc tế đều dựa trên cơ sở các
lợi thế của mình. Như đã được giải thích trong các lý thuyết về thương mại quốc tế, phần lớn các
quốc gia sẽ tăng cường xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt
hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa có hiệu quả.

* Các nguyên tắc thực thi thương mại quốc tế
Dựa trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, không phân biệt đối xử và đôi bên cùng có lợi, các
mối quan hệ thương mại quốc tế được phát triển trên nhiều cấp độ khác nhau. Các hiệp định thương
mại song phương và đa phương thường dựa trên các nguyên tắc chủ yếu như: Nguyên tắc tối huệ
quốc (MFN – Most Favoured Nation), Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT – Nation Treatment)
2.2.2. Các yếu tố tác động đến quan hệ thương mại giữa hai quốc gia
Các yếu tố này vừa xuất phát từ cả hai phía, tạo nên lực đẩy và lực hút, vừa là các nhân tố
hình thành, nhưng cũng đồng thời là các nhân tố tác động đến mối quan hệ thương mại giữa hai
quốc gia.
Các yếu tố này bao gồm cả các yếu tố tác động đến quan hệ thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ giữa hai quốc gia, trong đó, các yếu tố chủ yếu bao gồm: (i) Phát triển kinh tế; (ii)
Chính sách thương mại; (iii) Hoạt động đầu tư quốc tế; (iv) Cơ sở hạ tầng; (v) Cơ cấu sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ; (vi) Tỷ giá hối đoái.
2.3. Khái quát về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)
2.3.1. Cơ sở ra đời
Từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, hai nước Hàn Quốc và Việt Nam đã
phát triển quan hệ hợp tác vượt bậc trên mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.

9


2.3.2. Quá trình đàm phán VKFTA của Việt Nam và Hàn Quốc
Tháng 10/2009, Việt Nam và Hàn Quốc đã nhất trí thành lập Nhóm Cơng tác chung để nghiên
cứu khả năng thúc đẩy và tính khả thi của “Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam – Hàn
Quốc". Ngày 6 tháng 8 năm 2012, Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam và Bộ trưởng phụ trách
thương mại Bộ Ngoại giao và Thương mại Hàn Quốc cùng ra tuyên bố chính thức khởi động đàm
phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA). Trong phiên họp ngày 30/11,
Quốc hội Hàn Quốc đã phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Việt Nam. Ngày 20 tháng
12 năm 2015, Hiệp định VKFTA chính thức có hiệu lực, đem đến những cơ hội mới đối với cả hai
bên Hàn Quốc và Việt Nam.

2.3.3. Nội dung chính của VKFTA
2.3.3.1. Sơ lược về nội dung của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA)
Hiệp định gồm 17 Chương (208 Điều), 15 Phụ lục và 01 Thỏa thuận thực thi quy định. Các
Chương chính là: - Thương mại hàng hoá + Các quy định chung (gọi là cam kết lời văn) và + Các
biểu cam kết thuế quan cụ thể (gọi là cam kết mở cửa thị trường) - Quy tắc xuất xứ - Thuận lợi hóa
hải quan - Phịng vệ thương mại - Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực
vật (SPS) - Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) - Thương mại Dịch vụ + Các quy định chung
(gọi là cam kết lời văn) với các Phụ lục về Dịch vụ Viễn thơng, Dịch vụ Tài chính, Di chuyển thể
nhân + Các biểu cam kết mở cửa dịch vụ cụ thể (gọi là cam kết mở cửa thị trường) - Đầu tư - Sở
hữu trí tuệ - Thương mại Điện tử - Cạnh tranh - Minh bạch - Hợp tác kinh tế - Thể chế và các vấn
đề pháp lý.
2.3.3.2. Nội dung chính liên quan đến thương mại Việt Nam – Hàn Quốc
a) Thương mại hàng hóa
Thương mại hàng hóa bao gồm các cam kết về thuế quan và các cam kết về xuất xứ
* Các cam kết thuế quan:
Về cơ bản, các cam kết thuế quan trong VKFTA được xây dựng trên nền các cam kết thuế
quan trong FTA ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA), nhưng với mức độ tự do hóa cao hơn. Nói cách
khác, VKFTA sẽ cắt giảm thêm một số dòng thuế mà trong AKFTA chưa được cắt giảm hoặc mức
độ cắt giảm còn hạn chế.
* Cam kết về Quy tắc xuất xứ:
Để được hưởng ưu đãi thuế quan trong VKFTA, hàng hóa phải đáp ứng được các quy tắc
xuất xứ của Hiệp định. Nói chung, Quy tắc xuất xứ trong VKFTA chặt hơn so với AKFTA nhưng
vẫn tương đối đơn giản. Nhìn chung, để được hưởng ưu đãi thuế quan theo VKFTA, hàng hóa cần
đáp ứng được một trong các tiêu chí sau: (i) Tỷ lệ Hàm lượng giá trị khu vực (RVC) theo quy định
(thường là trên 40%); (ii) Chuyển đổi mã HS (2 số, 4 số hoặc 6 số); hoặc (iii) Trải qua một công
đoạn sản xuất hoặc chế biến nhất (các sản phẩm dệt may).
b) Thương mại dịch vụ
Chương về Dịch vụ trong VKFTA được chia làm 02 phần:
- Cam kết về nguyên tắc: bao gồm các định nghĩa, các quy định chung về nghĩa vụ: Đối xử
quốc gia, Đối xử tối huệ quốc…, và 03 Phụ lục về Tài chính, Viễn thơng, Di chuyển thể nhân.

- Cam kết về mở cửa thị trường: là 01 Phụ lục riêng bao gồm 02 Danh mục mở cửa của Việt
Nam và Hàn Quốc về từng lĩnh vực dịch vụ.
2.4. Cơ sở lý thuyết về tác động của VKFTA đến thương mại hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam
2.4.1. Khung lý thuyết
Để phân tích tác động của VKFTA đến thương mại hai chiều Việt Nam sang Hàn Quốc, tác
giả dựa trên lý thuyết lực hấp dẫn trong thương mại.
Để thuận tiện cho việc phân tích mơ hình trọng lực, tác giả sử dụng phương pháp logarit tự
nhiên đối với cả hai vế của phương trình. Mơ hình trên sẽ được viết lại thành:
ln (Xij ) = ln GSi + ln Mj + ln φij
Công thức trên đo lường mức độ tác động (tính bằng tỷ lệ) của các yếu tố đến thương mại hai
chiều giữa hai quốc gia i và j. Bởi vậy, việc lấy logarit sẽ cho phép đánh giá tốt hơn tác động của
các yếu tố đến xuất nhập khẩu giữa các quốc gia.
Cơng thức trên được chi tiết hóa thành mơ hình các yếu tố tác động đến xuất khẩu hoặc nhập
khẩu hàng hóa/ dịch vụ như sau:

10


+ Mơ hình các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa:
ln Ex = a0 + a1* lnEXR + a2* lnFDI + a3*Infr + a4*CPI + a5*FTA + a7*HS + a8* GDPt + ui
Trong đó: Ex: xuất khẩu hàng hóa từ nước i sang nước j (đại diện cho yếu tố Xij)
Các yếu tố đại diện cho yếu tố nhu cầu của thị trường nước nhập khẩu (GSi) tạo ra lực thu hút
hàng hóa từ nước ngồi vào trong nước, bao gồm: GDPt (GDP bình quân của nước nhập khẩu trong
năm t), chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái của hai nước EXR, vốn FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài),
chênh lệch về cơ sở hạ tầng giữa hai quốc gia Infr, chênh lệch về chỉ số giá, thể hiện lợi thế so sánh về
chi phí sản xuất sản phẩm CPI, FTA (các hiệp định thương mại tự do), HS (đo lường mức độ phân loại
hàng hóa), ui: các biến khác.
+ Mơ hình các yếu tố tác động đến nhập khẩu hàng hóa:
Tương tự như mơ hình các yếu tố tác động đến xuất khẩu, có thể thể hiện mơ hình tác động đến
nhập khẩu hàng hóa như sau:

ln Im = a0 + a1* lnEXR + a2* lnFDI + a3*Infr + a4*CPI + a5*FTA + a7*HS + a8* GDPt + ui
+ Mơ hình các yếu tố tác động đến xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ:
Thương mại dịch vụ thông thường chịu tác động từ các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của
chính phủ. Bên cạnh đó, việc tăng cường các hoạt động thương mại hàng hóa cũng sẽ góp phần thúc
đẩy giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ. Các yếu tố về hạ tầng cơ sở và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cũng sẽ tạo ra sức hút đối với nhu cầu về dịch vụ của các quốc gia.
LnEXSt = a0 + a1* LnGIM + a2*LnEx + a3* FTA + a4* Lninfr + a5* Lnfdi + ui
LniIMSt = a0 + a1* lnGIM + a2*LnEx + a3* FTA + a4* Lninfr + a5* Lnfdi + ui
Các mơ hình lý thuyết trên sẽ được áp dụng để phân tích các yếu tố tác động đến thương mại
hàng hóa và thương mại dịch vụ hai chiều Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh ký kết hiệp định
VKFTA và các Hiệp định đa phương khác.
2.4.2. Mơ hình phân tích tác động của VKFTA đến quan hệ thương mại hàng hóa và dịch vụ của
Việt Nam với Hàn Quốc
2.4.2.1. Mơ hình đánh giá tác động
Bên cạnh các yếu tố đã phân tích ở trên, theo NCS, việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hạ
tầng công nghệ thông tin sẽ là yếu tố thúc đẩy hoạt động sản xuất, giúp sản phẩm và dịch vụ cung
ứng của Việt Nam phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường Hàn Quốc. Do vậy, mơ hình phân tích
tác động của VKFTA đến thương mại của Việt Nam và Hàn Quốc được thể hiện như sau:
* Mơ hình tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc:
lnEXVt = a0 + a1* lnEXRVKt + a2* lnFKt + a3*InfrVKt + a4*CPIVKt + a5*AKFTA +
a6*VKFTA + a7*HS + a8*GDPKt + ui
* Mơ hình tác động đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Hàn Quốc:
lnImVt = a0 + a1* lnEXRVKt + a2* lnFKt + a3*InfrVKt + a4*CPIVKt + a5*AKFTA +
a6*VKFTA + a7*HS + a8*GDPVt + ui
* Mơ hình tác động đến xuất nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam sang Hàn Quốc
LnEXSVt = a0 + a1* LnGIMV + a2*LnExV + a3* AKFTA + a4* VKFTA + a5* Lninfrv + a6*
Lnfk + ui
LniIMSVt = a0 + a1* LnGIMV + a2*LnExV + a3* VKFTA + a4* AKFTA + a5* Lninfrv + a6*
lnfk + ui
2.4.2.2. Nguồn dữ liệu sử dụng trong tính tốn:

Do khơng có đủ dữ liệu tính tốn theo cùng một nguồn, nên tác giả sử dụng nhiều nguồn tham
khảo khác nhau trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 2019 (đối với thương mại hàng hóa),
và trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến 2018 đối với thương mại dịch vụ , trong đó: Kim ngạch
XNK được lấy từ dữ liệu của KITA Hàn Quốc, các dữ liệu khác lấy từ Ngân hàng Thế giới (WB),
FDI lấy từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam. Các biến giả AKFTA và VKFTA
sẽ được nhận giá trị 0 khi Hiệp định chưa được ký kết, và nhận giá trị 1 khi Hiệp định được ký kết
và đi vào hoạt động.
Bên cạnh các dữ liệu sơ cấp thu thập được, do vấn đề về thương mại dịch vụ tương đối phức
tạp nên để bổ sung cho các kết quả nghiên cứu, NCS sử dụng thêm các thông tin và dữ liệu thu thập
từ phỏng vấn sâu các chuyên gia, là lãnh đạo một số doanh nghiệp và các chuyên gia đến từ Kotra
Hà Nội và các trường Đại học.

11


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC
3.1. Thực trạng thương mại hàng hóa Việt Nam – Hàn Quốc
3.1.1. Thực trạng chung
* Xuất nhập khẩu của Việt Nam
Về thương mại hàng hóa của Việt Nam, sau rất nhiều năm nhập siêu, trong giai đoạn từ năm
2012 đến 2019, Việt Nam đã có xuất siêu trong khoảng từ 7 tỷ đến 16 tỷ USD.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam theo chiều hướng tăng dần, tuy nhiên
từ thời điểm năm 2012, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu ở mức trên 100 tỷ USD mỗi năm, trong
3 năm 2017 đến 2019, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đạt trên 200 tỷ USD. Điều này cho thấy
Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
* Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam – Hàn Quốc
Riêng đối với đối tác Hàn Quốc, Việt Nam thường xuyên nhập siêu hàng hóa với mức độ
ngày càng trầm trọng hơn.
Trong giai đoạn trước năm 2015, thương mại hàng hóa của Việt Nam của Việt Nam sang Hàn
Quốc chỉ nhập siêu ở mức dưới 20 tỷ USD, thì sau năm 2015 đến nay, mức nhập siêu ngày càng

lớn hơn, vào khoảng 30 tỷ USD. Đây cũng là một vấn đề thách thức đối với Việt Nam, bởi rõ ràng,
sau khi VKFTA có hiệu lực, giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam ln ở mức ngày
càng cao so với xuất khẩu, gây áp lực đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán của Việt Nam.
Mặc dù vậy, trong bức tranh xuất nhập khẩu của Việt Nam và Hàn Quốc vẫn có thể thấy
những điểm sáng. Đó là sau năm 2015 khi Hiệp định VKFTA có hiệu lực, tốc độ gia tăng giá trị
xuất khẩu đã có dấu hiệu tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của nhập khẩu trong vài năm gần đây.
Giá trị xuất khẩu của Việt Nam đến Hàn Quốc năm 2019 tăng 2,1 lần so với năm 2015, trong khi
giá trị nhập khẩu từ Hàn Quốc chỉ tăng 1,7 lần vào năm 2019 so với năm 2015. Cán cân thương mại
cũng đã có dấu hiệu tích cực khi giảm nhập siêu, mặc dù thâm hụt trong cán cân thương mại vẫn
cịn cao.
3.1.2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc
Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, theo dữ liệu cập nhật của KITA, hẩu hết các mặt hàng
trong chương 85 có giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất trong quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Hàn Quốc.
* Về cơ cấu nhập khẩu:
Đa số các mặt hàng nhập khẩu đều nằm trong nhóm sản phẩm về điện, điện tử, phục vụ cho
các hoạt động gia công, sản xuất hàng điện tử của các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc tại Việt Nam.
10 nhóm hàng này đã chiếm khoảng 50% giá trị kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường
Hàn Quốc. Cơ cấu nhập khẩu vẫn hầu như khơng có sự thay đổi trước và sau năm 2015, vẫn chủ
yếu là các sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất, các nguyên liệu phục vụ cho ngành may mặc.
Như vậy, cũng có thể thấy trong nhiều năm, Việt Nam vẫn hầu như phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu
từ bên ngồi trong những ngành hàng địi hỏi sự gia công chế biến phức tạp, công nghệ cao hoặc
các nguyên liệu cho những ngành hàng gia công như may mặc.
* Về cơ cấu xuất khẩu:
Theo dữ liệu thống kê của KITA, top 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt
Nam sang Hàn Quốc vẫn là những mặt hàng thành phẩm của các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc tại
Việt Nam, và nhóm hàng giày dép, quần áo.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong năm 1992 và 2015 đã có sự
chuyển biến từ các nguyên liệu thô dần chuyển sang các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn.
Đến năm 2015, tỷ trọng các mặt hàng thô, sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn

Quốc đã giảm đáng kể, những mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn như máy điện, dụng cụ
quang học, giày dép… đã trở thành những mặt hàng chính trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
sang Hàn Quốc. Lợi thế so sánh của Việt Nam không phải chỉ là tài nguyên thiên nhiên, mà phần
lớn là dựa vào lực lượng lao động dồi dào, chi phí thấp.
Đến năm 2019, sau tác động từ Hiệp định VKFTA, giá trị xuất khẩu của Việt Nam cũng đã
tăng lên. Nhìn về dữ liệu thì thấy các mặt hàng có hàm lượng cơng nghệ và chế biến cao đang chiếm
ưu thế trong tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc. Nhưng phân tích sâu xa hơn, thì thực
chất, phần lớn là các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại dựa vào các sản phẩm gia công

12


điện tử, giày dép, xuất phát từ các doanh nghiệp FDI, giá trị hàm lượng nội địa của Việt Nam thấp.
Do vậy, việc tăng cường năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
luôn là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm hàng đầu.
3.2. Thực trạng thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc
3.2.1. Tình hình chung về thương mại dịch vụ của Việt Nam và thương mại dịch vụ Việt Nam –
Hàn Quốc
3.2.1.1. Tình hình thương mại dịch vụ của Việt Nam
Theo dữ liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) tình hình trên thị trường dịch vụ lại có
xu hướng ngược chiều với thị trường hàng hóa. Trong cả giai đoạn 1996 – 2019, Việt Nam liên tục
nhập siêu, chỉ có duy nhất 1 năm là vào năm 2005, cán cân chênh lệch trong thương mại dịch vụ
với các nước khác trên thế giới chỉ ở mức cân bằng. Đối với tất cả các năm còn lại, hầu hết đều
nhập siêu dịch vụ với khoảng cách ngày càng chênh lệch nhiều hơn.
Các dữ liệu được phân tích theo từng hình thức dịch vụ như sau: cơ cấu dịch vụ vận tải và du
lịch là hai hình thức chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu xuất nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam.
Trong khi hình thức dịch vụ chuyển dịch theo hướng tăng giá trị xuất khẩu so với giá trị nhập khẩu,
thì dịch vụ vận tải lại chuyển theo hướng ngược lại.
3.2.1.2. Tình hình thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc
Do hạn chế về nguồn dữ liệu, NCS chỉ thu thập được dữ liệu về thương mại dịch vụ giữa Việt

Nam và Hàn Quốc theo năm, không thu thập được dữ liệu chi tiết theo các loại hình. Theo đó, xuất
khẩu dịch vụ và nhập khẩu dịch vụ giữa hai quốc gia ở mức tương đối đồng đều. Có những năm
thậm chí xuất khẩu dịch vụ cịn đạt mức cao hơn nhập khẩu. Song trong những năm gần đây, từ
năm 2016 đến 2019, xuất khẩu dịch vụ giảm mạnh so với nhập khẩu.
Về hình thức cung cấp dịch vụ, mặc dù không thu thập được dữ liệu chi tiết từ giai đoạn 2013 cho
đến 2019, song từ nguồn dữ liệu đánh giá của OECD (2012) thì hai lĩnh vực nhập khẩu chủ yếu là lĩnh
vực xây dựng và giao thông vận tải (chiếm tỷ trọng tương ứng khoảng 45% và 38%). Về cơ cấu xuất
khẩu: Hai lĩnh vực mà Việt Nam xuất siêu sang thị trường Hàn Quốc là dịch vụ kinh doanh và du lịch
(49,6% và 30,68%)
* Tỷ trọng thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc trong GDP
Thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc chỉ chiếm khoảng 1% trong GDP của Việt Nam.
Chỉ số này khá thấp và chưa tương xứng với tiềm năng phát triển thực sự trong quan hệ hợp tác
giữa hai quốc gia. Mức tăng trưởng tỷ trọng có biến động theo chiều hướng tăng qua từng năm,
nhưng mức tăng rất chậm và thường chỉ dao động ở mức 1% trong suốt giai đoạn từ năm 1995 đến
năm 2019. Đóng góp của xuất khẩu và nhập khẩu vào giá trị GDP là tương đối cân bằng, mặc dù
trong một vài năm, tỷ trọng của xuất khẩu trong GDP nhỉnh hơn một chút so với nhập khẩu. Song,
điều này cũng phản ánh thị trường Hàn Quốc có ý nghĩa đối với xuất khẩu của Việt Nam hơn so
với nhập khẩu.
3.2.2. Cơ cấu thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc theo phương thức XNK
Thực tế, việc phân loại tình hình thương mại Việt Nam – Hàn Quốc theo phương thức XNK
cũng gặp rất nhiều khó khăn, bởi các giá trị xuất nhập khẩu thường đan xen với nhau theo các
phương thức XNK khá phức tạp.
Trong khuôn khổ Luận án, tác giả cũng đã rất cố gắng để phân tích thương mại dịch vụ song
phương Việt Nam – Hàn Quốc một cách chi tiết theo các phương thức XNK, nhưng sai số là khơng
thể tránh khỏi do tính chất phức tạp của các hoạt động kinh doanh trên thực tế, cũng như việc thiếu
các dữ liệu thống kê.
* Phương thức 1 – Phương thức thương mại xuyên biên giới
Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ tài chính thường được thực hiện theo phương thức 1 và phương
thức 3. Các dịch vụ chuyển tiền thông qua ngân hàng của 2 nước sẽ được ghi nhận vào giá trị xuất
nhập khẩu của mỗi quốc gia. Các hình thức này chủ yếu được thực hiện theo phương thức 1.

Dịch vụ máy tính và thông tin được cung cấp theo phương thức 1 là chủ yếu, nhất là đối với
hoạt động xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam sang Hàn Quốc, bởi hoạt động đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực này của Việt Nam hầu như rất nhỏ.
* Phương thức 2 – Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ
Dịch vụ du lịch và các dịch vụ chính phủ thích hợp với phương thức cung cấp này. Các dịch

13


vụ khác như vận tải, xây dựng, kinh doanh, các dịch vụ văn hóa giải trí cũng được cung cấp chủ
yếu theo phương thức 2 trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.
* Phương thức 3 – Phương thức hiện diện thương mại
Thường áp dụng đối với các dịch vụ vận tải – kho bãi, các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư
không nhiều tại Việt Nam, chỉ chiếm khoảng 2% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc tại Việt
Nam.
* Phương thức 4: Phương thức hiện diện thể nhân
Do Việt Nam và Hàn Quốc chưa cam kết theo phương thức này trong hầu hết các dịch vụ của
Việt Nam nên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam chỉ tính theo các dịch vụ cá nhân, văn
hóa và giải trí khác (thường tính theo giá trị xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc).
Kết quả cho thấy, giá trị xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam chủ yếu dựa vào xuất khẩu tại chỗ
theo phương thức 2. Phương thức 1 cũng đóng góp khoảng 16% vào giá trị xuất khẩu dịch vụ chung
của Việt Nam nhờ việc tăng cường các dịch vụ viễn thông, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ thơng
tin. Phương thức 3 cũng đóng góp một phần nhỏ vào làm tăng giá trị xuất khẩu thơng qua một số ít
các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc.
Đối với hoạt động nhập khẩu, phương thức 3 lại chiếm vị trí chủ đạo vì hầu hết các dịch vụ
được nhập khẩu vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc tại Việt Nam với
hơn 62 tỷ USD, trong hơn 7000 dự án đầu tư tại Việt Nam. Lượng khách du lịch Việt Nam cũng
như số lượng các lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc theo các hợp đồng xuất khẩu lao
động đang tăng dần qua các năm đã khiến cho tỷ lệ nhập khẩu dịch vụ tại Hàn Quốc của các công
dân Việt Nam tăng lên. Đây chính là lý do khiến cho phương thức 2 cũng chiếm một tỷ trọng không

nhỏ trong cơ cấu nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam từ thị trường Hàn Quốc.
3.2.3. Cơ cấu xuất nhập khẩu dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc theo loại hình dịch vụ
3.2.3.1. Về cơ cấu nhập khẩu:
Trước thời điểm ký kết VKFTA, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các dịch vụ xây dựng và giao
thông vận tải (chiếm tỷ trọng tương ứng khoảng 45% và 38%).
Hai hình thức dịch vụ xây dựng và vận tải chiếm phần lớn trong cơ cấu nhập khẩu dịch vụ
của Việt Nam từ Hàn Quốc.
Dữ liệu từ đó đến năm 2019, do OECD thay đổi cách tính dữ liệu và bản thân tác giả chưa có
điều kiện để tiếp cận với bộ dữ liệu gốc của OECD do dữ liệu về thương mại dịch vụ giữa Việt Nam
và Hàn Quốc hiện đang gặp tình trạng “missing”. Tuy nhiên, theo ý kiến của các chuyên gia, hoạt
động nhập khẩu dịch vụ xây dựng và logistics vẫn chiếm chủ đạo.
3.2.3.2 Về cơ cấu xuất khẩu:
Hai lĩnh vực mà Việt Nam xuất siêu sang thị trường Hàn Quốc là dịch vụ kinh doanh và du
lịch.
3.3. Đánh giá quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc:
3.3.1. Kết quả đạt được
* Về thương mại hàng hóa:
Việc thực hiện các cam kết trong VKFTA đã có tác động tích cực, làm giá trị xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc đã có những khởi sắc đáng kể. Nếu năm 1991, giá trị
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc chỉ đạt 41 triệu USD, thì sang đến năm 2018, giá
trị xuất khẩu đạt 19,6 tỷ USD, tăng 477 lần. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
Hàn Quốc mang tính bổ sung, khơng mang tính cạnh tranh trực nên có cơ hội hợp tác phát triển
thương mại hai chiều.
Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam (sau Trung Quốc và Liên minh
châu Âu), là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, trao
đổi thương mại giữa hai nước tăng nhanh chóng sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam Hàn Quốc có hiệu lực từ cuối năm 2015. Việt Nam là đối tác hết sức quan trọng của Hàn Quốc
trong khu vực ASEAN, đặc biệt là quy mô trao đổi thương mại giữa Việt Nam - Hàn Quốc chiếm
hơn 40% tổng quy mô trao đổi thương mại giữa Hàn Quốc và các nước ASEAN.
Về cơ cấu xuất khẩu hàng hóa, có sự chuyển đổi từ nhóm hàng có hàm lượng chế biến và giá
trị gia tăng thấp như hàng nơng, lâm thủy sản và cơng nghiệp nhẹ sang nhóm hàng có hàm lượng

chế biến cao hơn như các mặt hàng cơ khí chế tạo, điện tử viễn thơng và công nghiệp nặng, thực

14


phẩm chế biến cao cấp, hàng thời trang, nông thủy sản chế biến. Đồng thời các sản phẩm xuất khẩu
của Việt Nam đã và đang dần xây dựng được thương hiệu tại thị trường Hàn Quốc; trong đó phải
kể đến mặt hàng dệt may.
Dưới tác động của các Hiệp định thương mại AKFTA và VKFTA, nhiều mặt hàng trước đây
khó thâm nhập vào thị trường Hàn Quốc như các mặt hàng nơng sản của Việt Nam (dừa, dứa, thanh
long, xồi, chuối…) đã có cơ hội tiếp cận thị trường khó tính này. Giá trị xuất khẩu mặt hàng rau
quả và trái cây của Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc đạt 2,145 tỷ USD.
* Về thương mại dịch vụ:
Mặc dù dữ liệu chi tiết về thương mại dịch vụ giữa hai quốc gia chỉ được cung cấp đến năm
2012, song dựa vào dữ liệu tổng thể cho thấy, xu hướng xuất nhập khẩu dịch vụ giữa hai quốc gia
có chiều hướng tăng nhanh. Năm 1995, tổng thương mại dịch vụ giữa hai nước đạt mức 366 triệu
USD, đến năm 2018, tổng giá trị thương mại hai chiều Việt Nam và Hàn Quốc đạt mức 4109 triệu
USD, gấp hơn 10 lần so với mức năm 1995. Điều này cho thấy sự tăng trưởng trong giao dịch
thương mại dịch vụ giữa hai nước.
Các thỏa thuận và cam kết về thương mại dịch vụ trong các Hiệp định AKFTA và VKFTA
mặc dù còn chưa có tác động rõ rệt đến giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ giữa hai nước, song cũng đã
có tác động tích cực bước đầu. Theo kết quả phân tích ở trên, Hiệp định AKFTA có tác động làm
tăng giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ hai chiều. Điều này thể hiện rõ ràng việc mở cửa từ các chính
sách nhà nước cũng đã tác động tích cực đến thương mại dịch vụ giữa hai quốc gia.
Thứ nhất, giá trị thương mại dịch vụ của Việt Nam có sự tăng trưởng vượt bậc, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia. Năm 1995, tổng giá trị thương mại dịch vụ của Việt Nam và Hàn
Quốc đạt 366 triệu USD (trong đó, xuất khẩu đạt 198 triệu USD và nhập khẩu đạt 168 triệu USD).
Đến năm 2018, tổng giá trị thương mại dịch vụ của Việt Nam đạt mức 4 tỷ USD (trong đó xuất
khẩu đạt 1,8 tỷ USD, nhập khẩu đạt 2,2 tỷ USD), gấp hơn 10 lần giá trị của năm 1995.
Thứ hai, phát huy được năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Xu hướng tăng

giá trị xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam sang Hàn Quốc trong các lĩnh vực dịch vụ du lịch, viễn
thông, tài chính, sản xuất kinh doanh cũng cho thấy Việt Nam đã dần cải thiện quá trình sản xuất
và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng với nhu cầu của thị trường thế giới. Bên cạnh việc tăng thu hút
khách du lịch từ Hàn Quốc sang Việt Nam, dòng vốn đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam cũng hiện diện tại Hàn Quốc, mở đường cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt trên “xứ sở kim chi”.
Thứ ba, mặc dù chưa có số liệu cụ thể chứng minh, song việc mở cửa hội nhập vào nền kinh
tế thế giới trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã có tác động tích cực và cộng hưởng tới thương mại hàng
hóa. Việc mở cửa và tăng trưởng của các ngành dịch vụ như vận tải, tài chính ngân hàng đã hỗ trợ
cho việc phát triển thương mại hàng hóa và hoạt động đầu tư.
Thứ tư, đóng góp vào tăng trưởng GDP. Mặc dù sự đóng góp của thương mại dịch vụ nói
chung và thương mại dịch vụ với Hàn Quốc nói riêng vào GDP của Việt Nam còn thấp, nhưng rõ
ràng, việc phát triển các dịch vụ cũng góp phần bổ sung vào nguồn thu trong ngân sách nhà nước.
Thứ năm, tăng cường thắt chặt mối quan hệ kinh tế - thương mại – đầu tư giữa Việt Nam và
Hàn Quốc. Song song với phát triển hợp tác thương mại hàng hóa, hợp tác đầu tư, việc thúc đẩy
hợp tác trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ sẽ giúp sự gắn kết giữa hai quốc gia ngày càng bền
vững hơn. Hàn Quốc là một trong các đối tác chiến lược của Việt Nam cả về địa chính trị và địa
kinh tế.
3.3.2. Hạn chế tồn tại
* Về thương mại hàng hóa:
Việt Nam thường xuyên nhập siêu từ thị trường Hàn Quốc, khoảng cách chênh lệch giữa nhập
khẩu và xuất khẩu ngày càng rộng hơn theo thời gian và chưa có dấu hiệu giảm. Đây cũng là vấn
đề nan giải không chỉ riêng đối với các cơ quan quản lý nhà nước, mà còn của các doanh nghiệp.
Nhờ các cam kết mở cửa trong VKFTA, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù đã
có sự gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu, song vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng khá nhỏ trong tổng dung
lượng thị trường của Hàn Quốc, trong khi cơ cấu nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam lại
ở mức khá cao, gây mất cân đối về cơ cấu xuất khẩu và nhập khẩu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam chưa thực sự phát huy được thế mạnh về xuất xứ Việt Nam, cũng như chưa tận

15



dụng được các cơ hội mà VKFTA mang lại, như đối với hàng nông sản, tỷ trọng mặt hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam chỉ khoảng 6% trong tổng số 35,2 tỷ USD dung lượng thị trường nhập
khẩu nông sản (năm 2018) của Hàn Quốc.
Vấn đề về xây dựng thương hiệu mặc dù đã được chú ý, song vẫn là một trong những rào cản đối
với hàng hóa của Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc, nhất là đối với các mặt hàng có xuất xứ
tồn bộ như các mặt hàng nông sản và thủy sản, hiện nay chưa xây dựng được thương hiệu của Việt Nam
trên thị trường Hàn Quốc.
* Về thương mại dịch vụ:
Xu hướng nhập khẩu dịch vụ gia tăng nhiều hơn so với mức tăng của xuất khẩu, làm cho cán
cân thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc thường ở chiều hướng nhập siêu về phía Việt
Nam. Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc trên nhiều
lĩnh vực. Điều này cũng chứng tỏ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp
ứng được yêu cầu của thị trường dịch vụ.
Bên cạnh đó, có thể do độ trễ về mặt thời gian, VKFTA chưa có tác động tích cực làm tăng
giá trị thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc mặc dù so với AKFTA, hai nước đã thực
hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ở mức độ sâu hơn.
Tỷ trọng của thương mại dịch vụ trong GDP cịn thấp, thiếu vắng nhiều dịch vụ có giá trị gia
tăng cao. Các vấn đề mà thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc đang gặp phải tập trung vào
các nội dung như:
Thứ nhất, Cán cân thương mại vẫn thâm hụt qua các năm cho thấy giá trị xuất khẩu của Việt
Nam vẫn chưa khai thác được hết các tiềm năng. Với các cam kết về thương mại dịch vụ trong
VKFTA có xu hướng mở hơn so với AKFTA có tác động tích cực, song cũng tồn tại những mặt
trái. Mặc dù chưa có căn cứ cụ thể, song với dấu hiệu thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ ngày
càng trầm trọng giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong những năm gần đây thì có thể thấy việc mở cửa
thị trường dịch vụ trong VKFTA có thể mang lại những tác động không mong muốn đối với các
ngành dịch vụ của Việt Nam.
Thứ hai, tỷ trọng xuất khẩu trong GDP của dịch vụ còn thấp. Giá trị thương mại dịch vụ còn
thấp hơn nhiều so với thương mại hàng hóa, chỉ đạt khoảng 6 – 8% trong tổng giá trị GDP (nếu tính

tổng giá trị thương mại xuất nhập khẩu thì tỷ lệ này khoảng 14 – 15%). So sánh với các quốc gia
khác trong khu vực thì tỷ trọng của Việt Nam thấp hơn khá nhiều. Tỷ trọng này của các nước LDCs
– các nước có trình độ phát triển kém hơn Việt Nam là 23% (mức bình qn) và các nước ASEAN
– các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đương Việt Nam là 22% (mức trung bình) (VCCI,
2019). Điều này cho thấy Việt Nam chưa thực sự hội nhập sâu vào thị trường dịch vụ thế giới.
Thứ ba, chưa thể hiện đầy đủ dữ liệu về các hình thức dịch vụ. Nhiều dịch vụ khá quan trọng
song do giá trị xuất nhập khẩu còn thấp nên chưa thể đưa vào thống kê, như dịch vụ môi trường,
các dịch vụ giáo dục đào tạo. Sự thiếu vắng dữ liệu của các ngành dịch vụ dẫn tới việc đánh giá
tổng thể các ngành kinh tế dịch vụ của Việt Nam chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Việc hoạch định
các chính sách phát triển thương mại dịch vụ do vậy cũng thiếu căn cứ để thực hiện và điều chỉnh.
Thứ tư, nhiều dịch vụ được cho là tiềm năng chưa phát huy được thế mạnh. Có thể thấy điển
hình như các dịch vụ vận tải, logistics. Việt Nam với đường bờ biển dài, hệ thống cảng biển dày
đặc, rất thuận lợi cho việc phát triển các dịch vụ logistics. Song, các số liệu thống kê lại cho thấy
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các dịch vụ này, thay vì xuất khẩu.
Thứ năm, phương thức xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào phương thức 2 (xuất khẩu tại
chỗ) và phương thức 1, như vậy, mức độ vươn ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam chưa
cao. Trong khi đó, nhập khẩu lại được thực hiện thông qua phương thức 3 và phương thức 2. Việt
Nam vẫn thụ động chờ các doanh nghiệp nước ngoài đến, khả năng chủ động tiếp cận với thị trường
nước ngồi cịn thấp.
3.3.3. Ngun nhân
* Từ phía Nhà nước:
Một là, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, nhất quán và ổn định
Hai là, hoạt động xúc tiến thương mại chưa thực sự có hiệu quả
Ba là, thiếu sự liên kết giữa các ngành để tận dụng cơ hội mà VKFTA mang lại
Bốn là, thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng

16


Năm là, chưa thực sự mở cửa đối với ngành dịch vụ

Sáu là, tỷ lệ tận dụng các cơ hội và ưu đãi trong VKFTA vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng
của chính phủ hai nước.
Bảy là, cơng tác quản lý nhà nước chưa thực sự tốt, nhất là đối với lĩnh vực thương mại dịch
vụ
* Từ phía các doanh nghiệp:
Một là, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được các cơ hội từ VKFTA.
Hai là, Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ của Việt Nam còn thấp.
Ba là, chưa thực sự chú trọng đến vấn đề nghiên cứu thị trường và xây dựng thương hiệu cho
sản phẩm xuất khẩu
Bốn là, các hoạt động liên kết doanh nghiệp còn yếu và rời rạc

17


CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO ĐẾN
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – HÀN QUỐC
4.1. Cơ sở phân tích
4.1.1. Phân tích dựa trên cơ sở mơ hình trọng lực:
4.1.1.1. Mơ hình trọng lực:
Dựa trên cơ sở mơ hình trọng lực đã được phân tích trong chương 2, tác giả đã đề xuất mơ
hình đo lường tác động của Hiệp định VKFTA đến thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ
của Việt Nam và Hàn Quốc.
a) Mơ hình đối với thương mại hàng hóa:
* Đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc:
Dựa trên cơ sở dữ liệu về 97 chương hàng hóa (theo mã HS) trong danh mục hàng hóa xuất
nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc, NCS tiến hành đo lường tác động của các yếu tố đến xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc.
Mơ hình cụ thể đề xuất là:
lnEXVt = a0 + a1* lnEXRVKt + a2* lnFKt + a3*InfrVKt + a4*CPIVKt + a5*AKFTA +

a6*VKFTA + a7*HS + a8*GDPKt + ui
* Đối với nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Hàn Quốc:
Việc nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam sẽ chịu tác động từ các biến độc lập được
điều chỉnh theo mơ hình:
lnImVt = a0 + a1* lnEXRVKt + a2* lnFKt + a3*InfrVKt + a4*CPIVKt + a5*AKFTA +
a6*VKFTA + a7*HS + a8*GDPVt + ui
b) Mơ hình đối với thương mại dịch vụ:
* Đối với xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam:
Do thiếu các dữ liệu về thương mại dịch vụ hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc, dữ liệu
thu thập được từ nguồn của OECD chỉ dừng ở mức năm 2012, sau đó việc cung cấp dữ liệu thương
mại hai chiều gặp khó khăn do OECD sử dụng phương pháp tính mới, những dữ liệu q nhỏ thường
khơng được chi tiết trong bảng dữ liệu. Vì vậy, khơng thể đánh giá tác động của Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (được ký kết vào năm 2015) đến thương mại dịch vụ giữa hai
nước. NCS sẽ đánh giá tác động của Hiệp định VKFTA đối với thương mại dịch vụ của Việt Nam
nói chung.
Mơ hình cụ thể đề xuất là:
LnEXSVt = a0 + a1* LnGIMV + a2*LnExV + a3* AKFTA + a4* VKFTA + a5* Lninfrv + a6*
Lnfk + ui
* Đối với nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam:
Tương tự như đối với xuất khẩu dịch vụ, mơ hình đánh giá các yếu tố tác động đến nhập khẩu
dịch vụ của Việt Nam như sau:
LniIMSVt = a0 + a1* LnGIMV + a2*LnExV + a3* VKFTA + a4* AKFTA + a5* Lninfrv + a6*
lnfk + ui
Đối với phân tích về tác động của VKFTA đến quan hệ thương mại dịch vụ giữa Việt Nam
và Hàn Quốc, do dữ liệu chưa thực sự hoàn chỉnh, nên để bổ sung cho các nhận định đánh giá trong
Luận án, NCS đã sử dụng kèm thêm phương pháp đánh giá theo phỏng vấn sâu chun gia.
4.1.1.2. Các biến trong mơ hình phân tích:
a) Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Giá trị GDP của Việt Nam theo dữ liệu của WB năm 2019 khoảng 261 tỷ USD, bình qn đầu
người tính theo ngang giá sức mua đạt hơn 8300 USD, tăng gấp khoảng 8 lần so với năm 1995. Đây

cũng là một dấu hiệu tích cực để tạo ra sự ổn định trong nền kinh tế của Việt Nam, thu hút không chỉ
dòng vốn đầu tư mà còn là dòng thương mại hàng hóa và dịch vụ của nước ngồi, đồng thời cũng góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường
quốc tế, giúp Việt Nam tham gia hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới.
b) Đầu tư trực tiếp của Việt Nam và Hàn Quốc:
* Tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam
Tính đến hết năm 2019, Hàn Quốc đã đầu tư khoảng 75 tỷ USD (vốn đầu tư lũy kế) (trong đó
có 67 tỷ USD (vốn đăng ký còn hiệu lực)) vào Việt Nam với tổng số dự án đầu tư lên đến hơn 8400

18


dự án (dự án cịn hiệu lực). Trong đó, trước thời điểm ký kết Hiệp định VKFTA (ngày 5/5/2015)
Việt Nam đã tiếp nhận được 4251 dự án đầu tư, với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 42 tỷ USD. Trong
2 năm 2015, 2016, Việt Nam đã tiếp nhận gần số dự án gần bằng ¼ các năm trước cộng lại. Từ năm
2017 đến 2019, liên tiếp có thêm dự án đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc đổ vào Việt Nam, bên
cạnh các dự án đầu tư tăng vốn. Các dự án này đã tác động lớn tới kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng
vào thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam.
* Tình hình đầu tư của Việt Nam sang Hàn Quốc
Nếu như Việt Nam tiếp nhận ngày càng nhiều dòng vốn đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc thì ở chiều
ngược lại, tình hình có vẻ khá trầm lắng. Tính lũy kế đến hết năm 2019, Việt Nam hiện có 47 dự án đã
đầu tư sang Hàn Quốc còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam là 26,24 triệu USD,
đứng thứ 32/68 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam (Cục Đầu
tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2019) . Thực tế này chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai
nước. Việc ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) mở ra hy vọng về sự
tăng cường đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang xứ sở kim chi này.
c) Chỉ số về cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của khoa học công nghệ trong những năm gần đây đã giúp Việt Nam rút ngắn
dần khoảng cách về cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc. Nếu như trong những
năm đầu khi đặt quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, khoảng cách về cơ sở hạ tầng thông tin giữa

Hàn Quốc và Việt Nam khá xa. nhưng đến năm 2018, khoảng cách giữa 2 nước về cơ sở hạ tầng
thông tin đã rất gần nhau. Đây là một sự tiến bộ, nỗ lực đáng kể của Việt Nam để tạo ra lợi thế so
sánh khi tham gia vào thị trường thương mại toàn cầu.
d) Chỉ số giá tiêu dùng
Tại Việt Nam, chỉ số CPI chỉ thực sự được Tổng cục Thống kê Việt Nam tính tốn dựa trên
cơ sở Tổng Điều tra Dân số năm 1996, 1997. Bời vậy, giai đoạn trước đó, chỉ số CPI của Việt Nam
bị “missing”. Trong một số năm, chỉ số CPI của Việt Nam tương đối đồng đều so với Hàn Quốc.
Nhưng có thể thấy, từ năm 2004 trở lại đây, chỉ số CPI của Việt Nam luôn cao hơn gấp nhiều lần
so với Hàn Quốc, thể hiện sự tăng trưởng khá nóng của Việt Nam so với xứ sở kim chi, nhưng
ngược lại cũng tạo nên nhưng bất lợi khi làm giảm lợi thế so sánh trong các mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam ra nước ngoài.
e) Đặc điểm của hàng hóa:
Đặc điểm của hàng hóa được thể hiện qua mã HS của hàng hóa. Do hạn chế về mặt thời gian
và dữ liệu nên tác giả chỉ phân tích ở mức độ 2 số trong danh mục mặt hàng XNK của Việt Nam và
Hàn Quốc. Số lượng mẫu nghiên cứu theo chương là 97 chương, bao gồm các hàng hóa thuộc nhóm
thơ, sơ chế và các chế phẩm của nó. Càng là các chương cuối thì mức độ phức tạp của hàng hóa
càng cao. Xét trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có thể thấy Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu
những hàng hóa ở các chương đầu, là các hàng hóa tự nhiên, tươi sống, hoặc những hàng hóa là sản
phẩm gia cơng. Với các sản phẩm này thì hàm lượng xuất xứ thường cao, và đối với một số mặt
hàng, trong các FTA thường yêu cầu có xuất xứ tồn bộ.
f) Chỉ số tỷ giá hối đối
Tỷ giá hối đối là một trong những cơng cụ hay được các nước sử dụng để tài trợ cho xuất
khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Lấy USD làm đồng tiền tính giá, có thể thấy giá trị của VND
luôn giảm, trong khi giá trị của đồng Won của Hàn Quốc ổn định hơn. Mặc dù được sự tài trợ từ
chính sách phá giá hối đối, song dường như như vậy vẫn chưa đủ để làm kích thích xuất khẩu tăng
trưởng mạnh. Nguyên nhân là trong hầu hết các giao dịch giữa Việt Nam và nước ngoài, chủ yếu
sử dụng đồng USD để tính tốn và thanh tốn.
g) Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
Trước năm 2011, nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với xuất khẩu trong tổng GDP
của Việt Nam. Tuy nhiên, sau năm 2011, nhờ nỗ lực không ngừng hội nhập vào nền kinh tế thế

giới, Việt Nam đã từng bước giảm nhập siêu và tạo ra thặng dư trong cán cân thương mại hàng hóa
và dịch vụ. Tỷ trọng của thương mại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ trong GDP ngày càng lớn, cho
thấy Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào kênh thương mại quốc tế.
4.1.2. Phân tích từ kết quả phỏng vấn sâu chuyên gia
Tiến hành phỏng vấn sâu chuyên gia: Do dữ liệu về thương mại dịch vụ song phương Việt

19


Nam – Hàn Quốc khá hạn chế, do vậy, để bổ sung cho các nhận định về thực trạng thương mại dịch
vụ giữa hai nước, NCS sử dụng các thông tin đánh giá từ phỏng vấn sâu các chuyên gia. NCS thực
hiện phỏng vấn trực tiếp 5 người, trong đó, 2 người là lãnh đạo doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân
hàng và logistics, 2 người là giảng viên các trường đại học, chuyên nghiên cứu về quan hệ kinh tế
thương mại Việt Nam – Hàn Quốc, 1 người là đại diện của Kotra tại Việt Nam.
Nội dung phỏng vấn tập trung chủ yếu về các vấn đề về thực trạng thương mại dịch vụ của
Việt Nam và Hàn Quốc, những đánh giá về tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam –
Hàn Quốc (VKFTA) đến thương mại dịch vụ song phương, và những đề xuất về giải pháp để thúc
đẩy thương mại dịch vụ song phương tiếp tục phát triển trong tương lai. Dữ liệu và thông tin do các
chuyên gia cung cấp đã được lồng ghép để phân tích các vấn đề về hợp tác thương mại dịch vụ giữa
Việt Nam – Hàn Quốc.
4.2. Kết quả nghiên cứu:
4.2.1. Đối với thương mại hàng hóa Việt Nam – Hàn Quốc
Tiến hành chạy hồi quy để đo lường tác động của các yếu tố đến thương mại hàng hóa của
Việt Nam và Hàn Quốc, tác giả thu được các kết quả sau:
4.2.1.1. Đối với xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc:
Biến GDP của Hàn Quốc bị loại khỏi mơ hình do biến này đa cộng tuyến cao với các biến
khác trong mơ hình. Do vậy mơ hình chỉ còn 7 biến, với kết quả hồi quy như sau:
Kết quả mơ hình tác động được thể hiện như sau:
lnEXVt = -2436222 -1,87*lnEXRVKt + 0,077*lnFKt + 0,027*InfrVKt – 0,08*CPIVKt +
1,06*AKFTA + 2,06*VKFTA – 0,002*HS + ui

Kết quả cho thấy có 5 yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc,
bao gồm: các Hiệp định AKFTA và VKFTA, chỉ số về chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia, chỉ
số chênh lệch về cơ sở hạ tầng giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào
Việt Nam và chỉ số về loại hàng (được thể hiện thông qua mã HS) khơng có ý nghĩa thống kê (do
chỉ số P- value lớn hơn 0,05).
Tuy vậy, các biến độc lập trong mơ hình trên chỉ giải thích được 27,9% sự thay đổi của giá
trị xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Hàn Quốc.
VKFTA có tác động cùng chiều đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc và
đây là biến có tác động lớn nhất làm tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam so với Hiệp định
AKFTA và các biến khác trong mơ hình.
4.2.1.2. Đối với nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Hàn Quốc:
Việc nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam sẽ chịu tác động từ các biến độc lập được
điều chỉnh theo mơ hình:
lnImVt = a0 + a1* lnEXRVKt + a2* lnFKt + a3*InfrVKt + a4*CPIVKt + a5*AKFTA +
a6*VKFTA + a7*HS + a8*GDP + ui
Tiến hành hồi quy các biến, kết quả như sau:
Kết quả mơ hình tác động được thể hiện như sau:
lnImVt = -7294327 -1,648* lnEXRVKt + 0,22* lnFKt -0,001*InfrVKt -0,011*CPIVKt 0,717*AKFTA – 0,097*VKFTA + 0,027*HS + 1,14*GDP + ui
Kết quả cho thấy có 5 yếu tố tác động đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường
Hàn Quốc, bao gồm: Hiệp định AKFTA, đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam, GDP giữa
Việt Nam và Hàn Quốc, loại hàng hóa (thể hiện thơng qua mã HS), tỷ giá hối đối. Chỉ số chênh
lệch về cơ sở hạ tầng và chỉ số về chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia, cũng như biến VKFTA
khơng có ý nghĩa thống kê (do chỉ số P- value lớn hơn 0,05).
Tuy vậy, các biến độc lập trong mơ hình trên chỉ giải thích được 21,7% sự thay đổi của giá
trị nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Hàn Quốc.
VKFTA khơng có tác động đến nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam vì biến này
khơng có ý nghĩa thống kê. Ngun nhân là hầu hết các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn
Quốc đều là những mặt hàng máy móc, thiết bị, được nhập khẩu theo hình thức gia cơng và hoặc
sản xuất xuất khẩu. Những mặt hàng này vẫn được ưu đãi về thuế (thuộc diện miễn thuế) theo Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam. Bởi vậy, việc giảm thuế xuất nhập khẩu trong

VKFTA khơng có ý nghĩa nhiều đối với nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam. Biến có

20


tác động lớn nhất làm tác động đến cầu hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam là GDP. Tác động của
GDP làm tăng nhu cầu đối với hàng hóa nhập khẩu từ Hàn Quốc về Việt Nam. Biến đầu tư trực tiếp
của Hàn Quốc cũng có tác động dương đến nhập khẩu hàng hóa về Việt Nam thơng qua các dự án
nhập nguyên vật liệu, máy móc để tiến hành sản xuất gia công sản phẩm tại Việt Nam.
4.2.2. Đối với thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc
4.2.2.1. Đối với xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam:
Tiến hành chạy hồi quy để đo lường tác động, nhưng do biến LnExV bị loại khỏi mơ hình do
đa cộng tuyến với các biến khác trong mơ hình nên trong mơ hình chỉ cịn 5 biến độc lập. Kết quả
cho thấy có 4 yếu tố tác động đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường Hàn Quốc, bao
gồm: Hiệp định AKFTA, Hiệp định VKFTA, giá trị nhập khẩu hàng hóa, cơ sở hạ tầng của Việt
Nam. Biến cịn lại là Đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam khơng có ý nghĩa thống kê.
Kết quả mơ hình tác động được thể hiện như sau:
lnEXSVt = 15200000 + 0,47* LnGIMV + 0,158*AKFTA – 0,1017*VKFTA + 0,013*
Lninfrv – 0,014* Lnfk + ui
Như vậy, VKFTA có tác động âm đến xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam (với giá trị a của biến
VKFTA là - 0,1017, nghĩa là khi có VKFTA làm cho xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam giảm
0,1017%). Biến có tác động lớn nhất làm tác động đến xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam là thơng
qua kênh nhập khẩu hàng hóa, với mức ý nghĩa 99% (do giá trị P-value nhỏ hơn 1%). Khi tăng nhập
khẩu hàng hóa lên 1% thì mức xuất khẩu dịch vụ tăng lên 0,47%. Các quy định về mở cửa thị trường
dịch vụ từ AKFTA đã tạo điều kiện xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam sang Hàn Quốc, song dường
như việc mở cửa hơn nữa trong các phân ngành dịch vụ mà Việt Nam và Hàn Quốc cam kết dành
cho nhau chưa đủ để kích thích việc tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ, mà ngược lại, trong khoảng 3
năm Hiệp định được thực thi, năng lực xuất khẩu dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ
để tăng xuất khẩu ra nước ngoài.
4.2.2.2. Đối với nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam:

Trong quá trình tiến hành chạy hồi quy để đo lường tác động, biến LnExV bị loại khỏi mơ
hình do đa cộng tuyến với các biến khác trong mơ hình nên trong mơ hình chỉ cịn 5 biến độc lập.
Theo kết quả của mơ hình cho thấy, Hiệp định VKFTA có tác động làm tăng giá trị nhập khẩu dịch
vụ từ Hàn Quốc về Việt Nam. Có 3 yếu tố tác động đến nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam từ thị
trường Hàn Quốc, bao gồm: Hiệp định VKFTA, giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt
Nam và đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam. Biến Hiệp định AKFTA khơng có ý nghĩa
thống kê.
Kết quả mơ hình tác động được thể hiện như sau:
lnIMSVt = -14600000 + 0.5809*lngimv – 0,1355*VKFTA + 0,0406* AKFTA + 0,0241*
Lninfrv – 0,0537*lnfk + ui
Như vậy, VKFTA và đầu tư có tác động âm đến nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam (hệ số a
của biến VKFTA và biến lnfk lần lượt là -0,1355 và -0,0537). Biến có tác động lớn nhất làm tác
động đến nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam là thông qua kênh nhập khẩu hàng hóa (với giá trị của
biến lngimv là 0.5809, thể hiện khi nhập khẩu hàng hóa tăng 1% thì giá trị nhập khẩu các dịch vụ
của Việt Nam tăng 0,5809%). Đi cùng với các hoạt động nhập khẩu hàng hóa là các dịch vụ như
vận chuyển, bảo hiểm. Các quy định về mở cửa thị trường dịch vụ từ AKFTA đã tạo điều kiện xuất
khẩu dịch vụ của Việt Nam sang Hàn Quốc, tuy nhiên tác động này không rõ ràng bởi vì biến
AKFTA khơng có ý nghĩa thống kê trong mơ hình (do hệ số a của biến AKFTA bằng 0,0406, thể
hiện tác động dương của biến AKFTA đến nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam, tuy nhiên hệ số pvalue của biến AKFTA lớn hơn 5%, nên AKFTA khơng có ý nghĩa thống kê).
4.3. Đánh giá tác động của Hiệp định VKFTA đến hoạt động thương mại song phương Việt
Nam –Hàn Quốc
4.3.1. Các kết luận rút ra từ mơ hình tác động:
* Hiệp định VKFTA có tác động tích cực đến thương mại hàng hóa nhưng lại tác động âm
đến thương mại dịch vụ của Việt Nam
* Đầu tư trực tiếp từ Hàn Quốc vào Việt Nam làm gia tăng thương mại hàng hóa nhưng lại
khơng có tác động tích cực đến gia tăng thương mại dịch vụ của Việt Nam

21



×