Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH HUYỆN BẮC SƠN TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.15 KB, 21 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH HUYỆN BẮC SƠN TRONG
NHỮNG NĂM VỪA QUA ( 2004 - 2007)
2.1 Khái quát về phòng tài chính kế hoạch huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng
Sơn
2.1.1 Khái quát về huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn
2.1.1.1 Về địa lý hành chính
Bắc Sơn là huyện miền núi vùng cao thuộc tỉnh Lạng Sơn, có đường quốc lộ
1B đi qua, cách trung tâm Thành phố Lạng Sơn 85 km, cách thành phố Thái
Nguyên 75 km. Tổng diện tích tự nhiên 69.999,95ha, trong đó diện tích đất lâm
nghiệp và khả năng lâm nghiệp chiếm 3/4 tổng tiện tích; đất sử dụng vào sản
xuất lâm nghiệp 33.125,3 ha, chiếm 48,5%; đất sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp 11.459,7 ha, chiếm 16,4%; đất nuôI trồng thuỷ sản 98,85 ha, chiếm
0,11%; đất phi nông nghiệp 1.630 ha chiếm 2,3%; đất chưa sử dụng 22.980,4ha,
chiếm 32,8%.
Toàn huyện có 19 xã và một thị trấn, gồm 224 thôn bản; trong đó có 3 xã và
thị trấn thuộc khu vực vùng I, có 13 xã vùng II, và 3 xã thuộc vùng III ; trong đó
toàn huyện hiện nay có 6 xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II; dân số hiện
nay là 66.546 người, gồm 14,044 hộ; dân số sống ở nông thôn chiém 93,7%,
dan số sống ở khu vực thị trấn, thị tứ chiém 6,3%. Huyện Bắc Sơn có 5 dân tộc
chính, dân tộc tày chiếm 65,55%, dân tộc dao chiếm 10,92%, dân tộc nùng
chiếm 8,34%, dân tộc mông và dân tộc khác chiếm 0,48%.
2.1.1.2 Về kinh tế
Bắc Sơn là huyện miền núi, nền kinh tế của huyện cũng có những đặc điểm
chung như hầu hết các huyện miền núi khác của các tỉnh miền núi phía Bắc.
Nền kinh tế chưa phát triển, sản xuất nông lâm nghiệp là chủ yếu; quy mô nền
kinh tế còn nhỏ; các ngành công nghiẹp xây dựng, thương mại dịch vụ còn nhỏ
bé; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở vật chất nhỏ bé chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển.
Nền kinh tế mới có bước phát triển nhanh và ổn định trong khoảng 8 năm
trở lại đây. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ( GDP) bình quân hàng năm thời kỳ thời
kỳ 2000- 2005 là 9,46%; năm 2007 là 10,21%, trong đó ngành Nông-Lâm


nghiệp tăng 5,7%, công nghiệp-xây dựng tăng 22,5%, thương mại- dịch vụ tăng
21,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng hướng, hướng
đẩy mạnh c ông nghiệp hoá hiện đại hoá, giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm
nghiệp, tăng dần các ngành công nghiệp xây dựng cơ bản và thương mại dịch
vụ: Tỷ trọng ngành nông-lâm nghiệp chiếm 72,84% năm 2001 xuống còn
62,99% năm 2007, ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 7,1% năm 2001
lên 9,01% năm 2007; Thương mại - dịch vụ chiếm từ 20,06% năm 2001 lên
28,0% năm 2005.
Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển nhanh và ổn định, giá trị sản
xuất tăng bình quân hàng năm trên 5,9%; sản lượng lương thực có hạt năm 2001
đạt 22.598 tấn, đến năm 2007 đạt lên 31.026 tấn, lương thực bình quân đầu
người tăng từ 343,3 kg/ người/ năm năm 2001 lên 466,2 kg/ người/năm năm
2007. Cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp đã có những bước chuyển biến quan
trọng, tỷ trọng giá trị trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, lâm nghiệp
ngày càng tăng. Nông nghiệp từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng
hoá, bước đầu hình thành một số vùng chuyên canh tập trung, có sản lượng
hàng hoá lớn, như vùng thuốc lá ( giá trị sản xuất hàng năm của cây thuốc lá
khoảng 45 đến 55 tỷ đông), vùng hồi, vùng quýt ( giá trị sản xuất hàng năm
khoảng 40 - 45 tỷ đồng). Trồng rừng mới hàng năm được thực hiện tốt, kết hợp
với công tác khoanh nuôi, bảo vệ rừng có hiệu quả, nên đã nâng độ che từ 28 %
năm 1986 lên 45% năm 2005. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 đạt 6,7
triệu đồng/người/năm.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong những năm gần đây có
bước phát triển mới, ngày càng tăng về cơ sở và số hộ sản xuất, đa dạng hoá
ngành nghề và số lượng sản phẩm , đặc biệt phát triển các cơ sở chế biến lương
thực thực phẩm, sản xuất đồ mộc gia dụng, mộc xây dựng, sửa chữa máy móc,
thiết bi, xe máy các loại, sản xuất vật liệu xây dựng các loại với quy mô ngày
càng lớn, không ngừng đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. giá
trị sản xuất hàng năm tăng bình quân trên 13,5%.
Thương mại dịch vụ ngày càng phát triển, khối lượng hàng hoá cũng như

tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn và bán lẽ ngày càng tăng nhanh; giá trị
sản xuất ngành thương mại dịch vụ trong những năm qua tăng bình quân hàng
năm 18,3%/ năm, do vậy đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng
của nhân dân và đóng góp cho ngân sách nhà nước ngày càng nhiều.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội trong những năm qua đã
đạt được những kết quả tích cực, tập trung khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư của tỉnh, huy động có hiệu quả sự đóng góp của dân, khai thác
mọi nguồn thu, tiết kiệm chi thường xuyên, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội ( Điện, đường, trường, trạm, kiên cố hoá kênh mương, các
công trình thuỷ lợi đầu mối) và đầu phát triển được chú trọng, đáp ứng một
bước quan trọng đời sống và sản xuất của nhân dân. Tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn năm 2007 là 200 tỷ đồng.
Đến nay 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 95% số xã có đường ô
tô đến trung tâm xã được cả 4 mùa. Phong trào làm đường bê tông xi măng
nông thôn đang phát triển mạnh; 95% số xã có xã, thị trấn và 62% số hộ có điện
lưới quốc gia; hệ thống các công trình thuỷ lợi được đầu tư, sửa chữa nâng cấp
tăng thêm năng lực tưới tiêu, nhiều công trình trường học, bệnh viện, các cơ sở
văn hoá thông tin, phát thanh, truyền hình được đầu tư, nâng cấp tạo điều kiện
cho việc nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần nhân dan; không còn phòng học
tranh tre nứa lá.
2.1.1.3.Về văn hoá - xã hội
Đi đôi với phát triển kinh tế, các lĩnh vực xã hội được trú trọng:Trong những
năm qua sự nhiệp giáo dục đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất
lượng và hiệu quả. Mạng lưới trường, lớp phát triển vững mạnh, đáp ngày một
tốt hơn nhu cầu giảng dạy và học tập; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi huy động đến
trường đạt trên 99,5 % ; số học sinh giỏi các cấp ngày một tăng, công tác xã hội
hoá giáo dục được đẩy mạnh, huy động có hiệu quả các nguồn lực tham gia xây
dựng và phát triển giáo dục; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù
chữ ; phổ cập trung học cơ sở đến nay được 16/20 đơn vị ; xây dựng được 2
trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia.

Công tác phòng bệnh, chữa bệnh chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
có nhiều tiến bộ. Hàng năm triển khai và thực hiện tốt các chương trình Quốc
gia về ytế, hàng năm trẻ em được tiêm chủng đat trên 95%. Mạng lưới ytế từ
huyện đến xã, thôn bản được củng cố cả về số lượng và chất lượng, Đến nay đã
có 100% trạm xá xã được kiên cố hoá; cán bộ y tế xã được đào tạo cơ bản,
nhiều trạm xá xã đã có bác sỹ, các thôn đều có cán bộ ytế.
Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, giáo dục và chăm sóc trẻ em đã đạt
được những tiến bộ rát quan trọng, tỷ lệ giảm sinh hàng năm đạt từ 0,5-0,6%o,
tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng hiện nay còn 27%.
Các hoạt động văn hoá thông tin phong phú, đa dạng và có nhiều chuyển
biến tịch cực, tuyên truyền có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, nhằm nâng cao dân trí, định hướng dư luận góp phần
giữ gìn và từng bước được phát huy truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc;
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, làng văn
hoá, gia đình văn hoá từng bước thực hiện có hiệu quả, đã có 62,5% số hộ đạt
gia đình văn hoá; 100% số thôn bản xây dựng được quy ước, hương ước đưa
vào thực hiện. Đến nay có 100% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam, 80%
số hộ được xem truyền hình, 60% số xã có sân chơi thể thao, 25% số xã có điểm
văn hoá vui chơi ; hệ thống bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đến nay đạt
6 máy điện thoại/100 dân; 100% xã có báo đọc trong ngày.
Các cấp uỷ, chính quyền đã triển khai nhiều biện pháp tích cực để xoá đói
giảm nghèo. Do vậy, tỷ lệ hộ đói nghèo năm 2007 chỉ còn 22,2% ( Theo tiêu chí
mới ), số hộ khá và giàu ngày càng tăng; triển khai thực hiện tốt phong trào"
Đền ơn đáp nghĩa", " Uống nước nhớ nguồn", giải quyết tốt chính sách đối với
người có công, gia đình chính sách, các hoạt động từ thiện và các chính sách xã
hội khác.
Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ quốc phòng
an ninh luôn được quan tâm, củng cố; thực hiện tốt huấn luyện dân quân, tự vệ;
tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dự bị
động viên; chỉ đạo thực hiện tốt việc đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật tự

an toàn xã hội, chủ động phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, tạo
môi trường và bảo vệ cuộc sống yên lành cho nhân dân, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội.
2.1.1.4 Mục tiêu định hướng của kế hoạch 5 năm (2006 - 2010)
Xác định phương hướng chuyển dịch kinh tế phù hợp với phương
hướng của Tỉnh và điều kiện cụ thể của địa phương, dựa trên khả năng khai
thác các lợi thế cho mục tiêu phát triển. Tập trung sức thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội với nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao hơn giai đoạn trước, khắc
phục những tồn tại, yếu kém của nền kinh tế huyện nhà, đẩy mạnh công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ứng
dụng rộng rãi các tiến bộ của khoa học-kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra sự
chuyển biến rõ rệt trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh
tranh và hiệu quả cho sản xuất kinh doanh. Quan tâm đúng mức tới phát triển
giáo dục đào tạo, coi trọng phát huy nhân tố con người; chăm lo về y tế, giải
quyết các vấn đề bức xúc về giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, cải
thiện đời sống của nhân dân, giữ vững ổ định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo đảm quốc phòng an ninh.
- Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn
(2006-2010) là 9,5-10%. Trong đó: Ngành nông lâm nghiệp tăng 5,8%-
6,5/năm; Công nghiệp-xây dựng tăng 19-20%; ngành thương mại-dịch vụ
tăng 21-22%.
- Cơ cấu kinh tế đến 2010: Ngành nông - lâm nghiệp chiếm 52%;
ngành công nghiệp-xây dựng chiếm 19%; thương mại- dịch vụ chiếm 29%.
- Thu ngân sách hàng năm tăng từ 15 % trở lên.
- Tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số dưới 1%/năm.
- 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về ytế xã.
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 22%
- Tạo thêm việc làm mỗi năm cho trên 1.000 lao động.
- Thu nhập bình quân đầu người đạt 9,5 triệu/người/năm
- 90% số hộ được dùng điện lưới quốc gia.

- 100% số xã có đường ô tô đi lại được 4 mùa đến trung tâm xã
- 85% dân số nông thôn được dùng nước sạch.
- Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn dưới 14.
- 50% số xã có trường mầm non.
- 100% trẻ em đi học tiểu học đúng độ tuổi
- Phổ cập trung học cơ sở đạt 100%.
- 90% dân số được xem truyền hình
- 50% số thôn có nhà văn hoá
- 100% số xã có sân thể thao.
2.1.2 Khái quát về phòng tài chính kế hoạch huyện Bắc Sơn tỉnh
Lạng Sơn
2.1.2.1 Sự hình thành và phát triển của phòng tài chính kế hoạch huyện
Bắc Sơn tỉnh lạng Sơn
* Địa chỉ Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Bắc Sơn: Tiểu khu Hoàng
Văn Thụ, thị trấn Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
* Điện thoại: 025.837.226
* Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Bắc Sơn, tiền thân của nó là Ban tài
chính huyện, được thành lập từ những năm 60 của thế kỷ 20; qua nhiều lần sáp
nhật với các Phòng Kế hoạch và phòng thương nghiệp để đến năm 2001 đổi tên
thành phòng kế hoạch - Tài chính - Thương mại huyện Bắc Sơn, cán bộ lúc đó
có 18 người: đến năm 2006 đổi tên thành Tài chính - Kế hoạch huyện Bắc Sơn.
2.1.2.2 Vị trí và chức năng của phòng tài chính kế hoạch
Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân huyện, là cơ quan tham mưu, giúp uỷ ban nhân dân huyện thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: Tài chính, ngân sách, tài sản, giá
cả; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh, tổng hợp thống nhất quản lý về
kinh tế hợp tác xã, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và theo quy định
của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực
công tác ở địa phương.

Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân cấp huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ
ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về
chuyên môn nghiệp vụ của Sở Tài chính và Kế hoạch đầu tư.
2.1.2.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tài chính Kế hoạch huyện
Phòng tài chính kế hoạch huyện có nhiệm vụ trình Uỷ ban nhân dân
huyện ban hành các quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và
hàng năm về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách;
đề ra các chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành
chính nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính - ngân sách, kế
hoạch và đầu tư, đăng ký kinh doanh.
Hướng dẫn các cơ quan, đơn vị dự toán thuộc huyện, uỷ ban nhân dân
các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, xây dựng dự toán
thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, chi ngân sách địa phương hàng năm
theo khung kế hoạch và hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách của Sở Kế
hoạch đầu tư và của Sở Tài chính
2.2. Thực trạng quản lý ngân sách huyện Bắc Sơn trong những năm vừa
qua ( 2004-2007)
2.2.1 Công tác thu ngân sách trong những năm qua
Huyện đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo các cơ quan chức năng thực
hiện Luật Ngân sách Nhà nước và các chế độ quản lý kinh tế Tài chính, từng
bước đưa công tác quản lý Tài chính vào hoạt động có nề nếp từ việc lập, chấp
hành đến quyết toán Ngân sách, phát huy hiệu quả sử dụng kinh phí Ngân sách
Nhà nước, phục vụ tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của huyện có cơ cấu kinh tế
chủ yếu sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, chưa có nghành
kinh tế mũi nhọn nhưng huyện đã từng bước đưa công tác thu vào hoạt động có
hiệu quả, có nề nếp.
Chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện và Phòng Tài chính (Đây là ba
đơn vị đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý và điều hành Ngân sách huyện )
đã làm khá tốt nhiệm vụ tham mưu cho uỷ ban nhân dân và hội đồng nhân dân

huyện về công tác lập kế hoạch theo kế hoạch Luật ngân sách nhà nước.
Công tác chấp hành Pháp lệnh Kế toán thống kê tương đối tốt, thường
xuyên có sự hướng dẫn và kiểm tra của Phòng Tài chính - thương mại huyện đã
xây dựng được đội ngũ, tổ chức cán bộ ngày càng kiện toàn. Các nhân viên
không ngừng rèn luyện, học tập, tìm tòi để nâng cao chất lượng công tác. Huyện

×