Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Pháp luật về chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.92 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thành Đức
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1411271328

: Tạ Thiên Nguyên Thư
Lớp: 14DLK14

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến với các thầy cơ
của trường Đại học Cơng Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh đặc biệt là thầy trưởng
khoa Tiến sĩ: Nguyễn Thành Đức đã tạo điều kiện và nhiệt tình hướng dẫn cho em
hồn thành tốt bài khóa luận.
Trong q trình làm bài khóa luận, khó tránh khỏi sai sót, rất mong thầy cơ
bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế
nên bài khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến


đóng góp của thầy cơ để em học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm và kiến thức.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Tạ Thiên Nguyên Thư; MSSV: 1411271328
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn thực tế và trên các trang tin tức, diễn đàn, sách
báo khoa học chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định).
Nội dung trong Khóa luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ
q trình học tập và nghiên cứu. Nếu sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo
qui định của nhà trường và pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................4
5. Kết cấu đề tài ........................................................................................................5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ LOẠI HÌNH
DOANH NGHIỆP VÀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC CHUYỂN ĐỔI CƠNG TY
.....................................................................................................................................6
1.1 Khái qt chung về loại hình doanh nghiệp.......................................................6
1.1.1 Khái qt về cơng ty trách nhiệm hữu hạn .................................................... 6
1.1.2 Khái quát về công ty cổ phần ...................................................................... 11
1.2 Lý luận về chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần ... 21

1.3 Sự cần thiết của việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ
phần 22
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN .......26
2.1 Điều kiện và trình tự thủ tục để chuyển đổi công ty TNHH thành công ty cổ
phần ........................................................................................................................26
2.1.1 Điều kiện để chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành cơng ty cổ
phần ..................................................................................................................... 26
2.1.2 Trình tự thủ tục để chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty
cổ phần ................................................................................................................ 28
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành
công ty cổ phần ......................................................................................................31
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHUYỂN ĐỔI HÌNH THỨC CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN .............................................................................45


3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi hình thức cơng ty trách
nhiệm hữu hạn thành cơng ty cổ phần. ..................................................................45
3.2. Định hướng hồn thiện pháp luật về chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn
thành công ty cổ phần ............................................................................................46
3.3 Kiến nghị về việc chuyển đổi hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn thành
cơng ty cổ phần ......................................................................................................48
KẾT LUẬN: .............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: .............................................................53


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Người ta cho rằng thành tố rất quan trọng để nhìn nhận về một cộng đồng
một quốc gia có phát triển hay khơng chính là doanh nghiệp, một trong những yếu
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của một công ty là sự phù hợp giữa mong muốn
và năng lực của nhà đầu tư với hình thức cơng ty. Chính vì vậy Luật Doanh nghiệp
cần tạo lập ra hình thức cơng ty đa dạng và phong phú cho các nhà đầu tư lựa chọn
mà trong đó phải có sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi hình thức cơng
ty khi nhà đầu tư mong muốn hoặc khi có sự kiện pháp lý phát sinh là điều kiện
chuyển đổi hình thức công ty.
Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế thì cần địi hỏi nhiều hình thức cơng ty được pháp luật ghi nhận để khẳng
định mình trong vị thế xã hội của một quốc gia rồi vươn ra tầm cao đến thế giới.
Với tình hình kinh tế hiện nay thì cần phải có sự chủ động trong việc hội nhập, tiếp
thu và sàng lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của các nước phát triển trên thế giới,
khởi xướng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền bá lại những ưu điểm của
các bậc cao nhân vì các bậc cao nhân ấy đều có một điểm chung là mưu cầu hạnh
phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Từ đó, đề cập đến hình thức
công ty cổ phần với tên gọi là công ty vô danh để sử dụng trong quan hệ Nhà nước
kiểu mới cùng với tư nhân góp vốn kinh doanh.
Sau khi thống nhất đất nước, với chính sách mở cửa, Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam năm 1987 đã cho phép tạo lập công ty trách nhiệm hữu hạn để thu hút
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kế tiếp đó là ngày 21/12/1990, Quốc hội khóa VIII
nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua hai đạo luật quan trọng là
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, tạo cơ sở pháp lý cho các loại hình
doanh nghiệp ngồi quốc doanh như cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp tư nhân phát triển, góp phần to lớn trong việc giải phóng lực lượng
sản xuất, phát huy nội lực, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước, thúc đẩy nhanh thời kỳ quá độ chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường. Tuy vậy, theo thời gian nhiều nội dung của hai đạo luật đó đã tỏ
ra bất cập, khơng cịn đáp ứng nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình

doanh nghiệp giai đoạn mới. Để đảm bảo phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, đảm bảo
quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư,
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh, Đảng và


2

Nhà nước ta đã khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật. Luật Doanh nghiệp
1999 thay thế Luật Công ty 1990.
Luật Cơng ty năm 1990 đã mở ra hai hình thức cơng ty mà các nhà đầu tư
Việt Nam có thể lựa chọn đó là cơng ty cổ phần và cơng ty trách nhiệm hữu hạn.
Đến năm 1999, sau chín năm thực hiện, Luật Công ty năm 1990 đã được thay thế
bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, đã mở rộng sự lựa chọn của các nhà
đầu tư Việt Nam trong năm hình thức doanh nghiệp đó là cơng ty cổ phần và cơng
ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên (mà chủ sở hữu là tổ chức), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt được những thành thành tựu đáng kể trong
việc cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng cũng có nhiều hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế đó và mở rộng quyền tự do kinh doanh, tăng
cường khả năng gia nhập thị trường, Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế
Luật Doanh nghiệp năm 1999 và khẳng định quyền của cá nhân được thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Xong vẫn còn những hạn chế, pháp
luật chồng chéo, gây khó khăn trong việc chuyển đổi hình thức cơng ty. Điều 154
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển
đổi thành cơng ty cổ phần hoặc ngược lại chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên ở Điều 155. Luật này chỉ quy định hai hình thức chuyển đổi cơng ty,
các quy định về điều kiện chuyển đổi, các chế tài về vi phạm thủ tục, điều kiện
chuyển đổi còn bị hạn chế gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn

hình thức doanh nghiệp để đầu tư, các quy định về thủ tục chuyển đổi tạo ra rào cản
lớn cho các nhà đầu tư muốn thực hiện việc chuyển đổi cơng ty. Có thể nói các bất
cập của pháp luật về chuyển đổi hình thức cơng ty có thể gây khó khăn cho việc bảo
đảm quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của các cơng ty. Trong khi đó
pháp luật của các nước khác cho phép chuyển đổi hình thức cơng ty khá rộng rãi và
linh động, thậm chí có thể chuyển đổi từ các hình thức cơng ty có trách nhiệm vơ
hạn sang các hình thức cơng ty có trách nhiệm hữu hạn và ngược lại, mà vẫn đảm
bảo được các giá trị cần bảo vệ. Để khắc phục và mở rộng hơn trong việc chuyển
đổi thì Luật Doanh Nghiệp 2014 đã ra đời thay thế cho Luật Doanh Nghiệp 2005.
Sự phát triển các hình thức cơng ty nói trên cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã chú
ý tương đối thích đáng tới quyền lựa chọn hình thức cơng ty của nhà đầu tư, và
cũng cho thấy sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc lựa chọn hình thức
tổ chức kinh doanh.
Nghiên cứu cho thấy, chuyển đổi hình thức cơng ty khơng phải là vấn đề
mới, nhưng ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một
cách đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành


3

quy định về chuyển đổi hình thức cơng ty chưa đầy đủ, chưa phản ánh được bản
chất kinh tế và vai trò của việc chuyển đổi.
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chuyển đổi hình thức cơng ty có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước mở
rộng, bảo hộ quyền tự do kinh doanh, tăng cường năng lực gia nhập thị trường của
các doanh nghiệp, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như
hiện nay quy định về vấn đề chuyển đổi hình thức cơng ty có vị trí, vai trị quan
trọng trong pháp luật về doanh nghiệp. Chuyển đổi hình thức cơng ty phù hợp góp
phần quyết định sự thành cơng hay thất bại của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cho đến
nay trong khoa học pháp lý vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều và chuyên

sâu ở nước ta. Do vậy, để tiếp thu sàng lọc những thành tựu hiện có, để góp phần
đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chuyển đổi hình thức cơng ty, để khắc phục những
khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này thì em đã lựa chọn đề tài
“Chuyển đổi cơng ty trách nhiệm hữu hạn thành Công ty cổ phần” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước cơng ngun thì cơng ty là một chế định hình thành khá sớm trong
lịch sử lồi người và được phát triển dần qua thời gian, đối với các nước trên thế
giới có nền kinh tế phát triển thì việc chuyển đổi hình thức cơng ty là một vấn đề
pháp lý khá quen thuộc đối với họ. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề chuyển đổi hình
thức cơng ty chưa được quan tâm từ phía những người nghiên cứu khoa học pháp
lý. Mặc dù những vấn đề chuyển đổi hình thức cơng ty đã được một số nhóm
nghiên cứu viết lại nhưng vì áp dụng quy định của pháp luật doanh nghiệp theo từng
thời kì nên việc chuyển đổi cịn nhiều hạn chế và ít được quan tâm trong khi thành
lập doanh nghiệp yếu tố đầu tiên mà nhà đầu tư mong muốn là lựa chọn hình thức
doanh nghiệp sao cho phù hợp, nhưng trong quá trình hoạt động cũng có thể vì một
số vấn đề khiến cho nhà đầu tư muốn thay đổi loại hình doanh nghiệp để phù hợp
với mong muốn, mục tiêu nhu cầu xã hội thì họ muốn chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp. Việc nghiên cứu cơng trình này cần mở rộng theo pháp luật doanh nghiệp
hiện hành. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên
cứu một cách chuyên sâu, toàn diện về hệ thống chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
ở Việt Nam trên cơ sở so sánh, học tập kinh nghiệm của nước ngồi, từ đó đưa ra
những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát và tạo điều
kiện tốt cho hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả việc thành lập và chuyển đổi
loại hình doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Trải qua các thời kì
các nhà nghiên cứu cũng để lại một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: Trước
năm 1975, vấn đề chuyển đổi hình thức công ty đã được đề cập trong cuốn “Luật


4


thương mại toát yếu” của Lê Tài Triển Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, 1959. Tiếp
đó trong cuốn “Luật thương mại Việt Nam dẫn giải” của Lê Tài Triển, Nguyễn
Vạng Thọ và Nguyễn Tân (Nhóm nghiên cứu dự hoạch xuất bản, Sài Gòn, 1972).
Sau năm 1975, vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp cũng đã được nghiên cứu
trong cuốn Thông tin khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp, cuốn “Tổ chức công ty”
được xuất bản bằng Tiếng Việt ở Việt Nam của Maurice Cozian, Alain Viandier do
Nguyễn Văn Bình và Lê Thị Lý dịch và được xuất bản năm 1989 bởi Viện Nghiên
cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
Sau đó, một số Luận án tiến sĩ luật học và Luận văn thạc sĩ luật học cũng có
đề cập khơng nhiều tới vấn đề chuyển đổi hình thức công ty. Liên quan tới Luật
Doanh nghiệp 2005, Nguyễn Mạnh Bách đã nghiên cứu về chuyển đổi hình thức
cơng ty trong cuốn “Các công ty thương mại” xuất bản tại Nhà xuất bản Đồng Nai,
Đồng Nai, 2006.
Mặc dù vậy, nhưng các cơng trình này chưa khai thác sâu vào các vấn đề
chuyển đổi hình thức cơng ty theo pháp luật Việt Nam hiện nay để đưa ra các kiến
nghị thích hợp, đồng thời các cơng trình này chưa tập trung nhiều vào vấn đề lý
luận pháp luật liên quan tới chuyển đổi hình thức cơng ty. Từ năm 2015 cho đến
nay khi Luật Doanh nghiệp số 28/2014 đã có hiệu lực pháp luật từ 1/7/2015 nhưng
vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào viết về đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về
chuyển đổi hình thức cơng ty trong đó trọng tâm là nghiên cứu các quy định của
Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi
hành như Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn
chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005, Nghị định 43/2010/NĐCP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký Doanh nghiệp Luật 2005 và nghị
đinh 78/2015 NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký Doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp
2014.
Khóa luận cịn nghiên cứu pháp luật về chuyển đổi hình thức công ty của
một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiêm cho Việt Nam trong q

trình hồn thiện pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng: Xem xét giải pháp pháp lý nhằm hồn
thiện pháp luật về chuyển đổi hình thức cơng ty ở Việt Nam hiện nay một cách toàn


5

diện trong mối tương quan với một số nước phát triển thế giới và thực tiễn tại Việt
Nam.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân chia các vấn đề lớn, phức tạp thành
những vấn đề nhỏ chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích từng mơ hình doanh nghiệp
rồi tổng hợp lại và khái quát để đưa tới sự nhận thức tổng thể về pháp luật chuyển
đổi hình thức cơng ty ở Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện.
Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Đề tài đi từ những vấn đề
chung đến những vấn đề riêng, từ những hiện tượng riêng lẻ đến những cái chung.
Phương pháp thống kê: Đề tài tập hợp những số liệu về chuyển đổi hình thức
cơng ty ở Việt Nam được lấy từ nguồn Sở kế hoạch và đầu tư để làm thực tiễn cơ sở
khoa học.
Phương pháp so sánh: Đề tài đặt thực tiễn về vấn đề cần nghiên cứu trong
mối liên hệ và so sánh với thực tiễn theo pháp luật hiện hành và pháp luật cũ, qua
đó tìm ra những ưu nhược điểm của vấn đề và đề xuất phương hướng hoàn thiện để
giải quyết nội dung vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích tìm hiểu những vấn đề lý luận
về công ty, doanh nghiệp và hình thức chuyển đổi Doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp 2014, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó, từ đó kiến nghị đưa ra
giải pháp nhằm hồn thiện các quy định pháp luật về chuyển đổi hình thức cơng ty.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận phải giải quyết được một số nhiệm vụ
sau:

Giải quyết một số vấn đề khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, lý luận về công ty, chuyển đổi hình thức cơng ty và điều kiện trình tự thủ
tục để thực hiện việc chuyển đổi.
Nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về doanh nghiệp và so sánh pháp
luật doanh nghiệp những năm trước đó khi nói về vấn đề chuyển đổi hình thức cơng
ty để đưa ra kiến nghị và giải pháp phù hợp nhất.


6

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ LOẠI
HÌNH DOANH NGHIỆP VÀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC CHUYỂN ĐỔI
CƠNG TY
1.1 Khái qt chung về loại hình doanh nghiệp
1.1.1 Khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
được pháp luật Doanh Nghiệp thừa nhận. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực
thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty là
thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty. Công ty
trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp có khơng q 50 thành viên cùng
góp vốn thành lập và cơng ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài chính khác trong phạm vi nghĩa vụ tài sản của cơng ty. “Trong lịch sử trên thế
giới, mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn ra đời sau hình thức công ty cổ phần và
càng muộn hơn so với các loại hình cơng ty đối nhân”.1 Các cơng ty theo mơ hình
của cơng ty trách nhiệm hữu hạn chỉ thực sự xuất hiện ở cuối thế kỷ 19 và phát triển
mạnh ở thế kỷ 20. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu
hạn xuất hiện “như là một sản phẩm của hoạt động lập pháp”.2 Sự xuất hiện của mơ
hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn có lẽ sẽ thích hợp cho kinh doanh ở quy mơ vừa
và nhỏ. Mơ hình cơng ty này vừa có yếu tố quan hệ nhân thân gữa các thành viên
như cơng ty đối nhân, vừa có tư cách pháp nhân và chế độ trách nhiệm hữu hạn của

thành viên như cơng ty cổ phần. Vì thế, mơ hình này dường như được ưa chuộng ở
tất cả các nước. Tỷ lệ các công ty trách nhiệm hữu hạn trong tổng số các cơng ty
thường chiếm rất cao, ví dụ ở Anh vào tháng 3 năm 2001 có tới 99% trong tổng số
1,5 triệu công ty ở nước này là công ty trách nhiệm hữu hạn.3 Vào cuối tháng 6
năm 2002, ở Úc có tới 98,3% trong tổng số 1,248 triệu các công ty là công ty trách
nhiệm hữu hạn.4 Pháp luật công ty châu Âu đã được người Pháp đem đến Việt Nam
từ cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi mà pháp
luật công ty của Việt Nam đã bị ảnh hưởng lớn bởi mơ hình luật cơng ty châu Âu.
1

Pamela Hanrahan, Ian Ramsay & Geof Stapledon, Commercial Applications of Company Law, Nhà xuất
bản CCH Australia Limited, Sidney, 2004, trang 13-15.
2

Rudiger Vilhard & Arndt Stengel (ed.), German Limited Liability Company, Nhà xuất bản John Wiley &
Sons Ltd, 1997, trang 7-8.
3

Paul L.Davies, Gower and Davies's Principle of Modern Company Law, Nhà xuất bản Thomson Sweet &
Maxwell, London 2003, trang 14.
4

Pamela Hanrahan, Ian Ramsay & Geof Stapledon, sđd, trang 92.


7

Các hình thức cơng ty như trong luật thương mại của Pháp đã xuất hiện trong các
Bộ luật thời Pháp thuộc như Dân luật thi hành tại các tòa án Nam Bắc kỳ 1931 và
Bộ luật thương mại Trung Kỳ 1942. Hai bộ luật này đều có quy định về các mơ

hình cơng ty, được gọi là hội hay cơng ty, mà chúng ta thấy ngày nay trong luật
định Việt Nam. Những quy định của Bộ luật thương mại Trung Kỳ vẫn tiếp tục
được áp dụng tại miền Nam Việt Nam cho đến khi Bộ luật thương mại Việt Nam
Cộng hịa năm 1972 có hiệu lực áp dụng. Trong Bộ luật thương mại nước Việt Nam
Cộng hịa năm 1972, mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn cũng tiếp tục được ghi
nhận bên cạnh các hình thức cơng ty khác.
Luật Doanh Nghiệp 2014 tại khoản 1 Điều 73 có định nghĩa công ty trách
nhiệm hữu một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở
hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty) chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của
công ty.
Về thành viên: Cơng ty chỉ có một thành viên duy nhất làm chủ sở hữu. Chủ
sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể là tổ chức hoặc cá
nhân.
Về vốn điều lệ: Vốn điều lệ của công ty do chủ sở hữu duy nhất của công ty
đầu tư. Trong cơng ty khơng có sự liên kết góp vốn của nhiều thành viên như những
loại hình cơng ty khác.
Về chế độ chịu trách nhiệm: Chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Về chuyển nhượng vốn: Chủ sở hữu cơng ty có quyền chuyển nhượng một
phần hoặc tồn bộ vốn điều lệ của cơng ty cho tổ chức, cá nhân khác. Sau khi
chuyển nhượng vốn, công ty có thể chuyển đổi thành cơng ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên hoặc doanh nghiệp tư nhân.
Về phát hành chứng khốn: Cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
không được phát hành cổ phần.
Về tư cách pháp lý: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đây là loại hình doanh nghiệp một chủ, chủ doanh nghiệp có thể là tổ chức
hoặc là cá nhân, đặc điểm này cho thấy sự khác biệt với quan niệm công ty truyền

thống là tổ chức của nhiều người góp vốn. Chủ sở hữu công ty là cá nhân ta thấy
điểm tương đồng với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên chủ sở hữu chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ, từ đây phát sinh một
yêu cầu cơ bản đối với chủ sở hữu cá nhân là phải tách bạch tài sản công ty với tài


8

sản riêng và phải tách bạch chi tiêu cá nhân và gia đình với chi tiêu trên cương vị là
chủ tịch hoặc là giám đốc công ty. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên không tồn tại hiện tượng hùn hạp của nhiều người, vốn được đầu tư vào công
ty là của một chủ sở hữu duy nhất, chủ sở hữu tự gách vác toàn bộ rủi ro trong suốt
q trình kinh doanh nhưng đây là người có tồn quyền quyết định đối với hoạt
động của cơng ty và là người duy nhất thụ hưởng toàn bộ lợi nhuận có được nếu
cơng ty kinh doanh phát sinh lợi nhuận.
Mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khơng phải là mơ hình
“cơng ty truyền thống” Điều này là do lịch sử hình thành của loại hình công ty này
xuất phát từ những sự kiện pháp lý phát sinh trên thực tế có liên quan đến cơng ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Ban đầu công ty được thành lập trên cơ
sở hùn hạp của nhiều thành viên nhưng trên thực tế toàn bộ vốn của công ty chỉ là
của một người hoặc trong quá trình hoạt động vì nhiều lý do khác nhau đã làm cho
các công ty trách nhiệm hữu hạn từ nhiều thành viên, sau một thời gian hoạt động
chỉ còn lại một thành viên duy nhất. Chẳng hạn một thành viên nhận chuyển
nhượng lại tồn bộ vốn khi cơng ty trách nhiệm hữu hạn chỉ còn lại hai thành viên,
hoặc có thành viên chết, ra khỏi cơng ty mà điều lệ công ty không cho phép tiếp
nhận thành viên mới. Từ thực tế này, pháp luật công ty các quốc gia thừa nhận mơ
hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.5 Theo quy định của Luật Doanh
Nghiệp năm 2014 thì cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Dù được thành
lập bởi một nhà đầu tư nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được

pháp luật thừa nhận là pháp nhân mọi hoạt động của cơng ty phải có sự tách bạch rõ
ràng với chủ sở hữu công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên là một dạng của công ty
đối vốn, các thành viên của cơng ty phải góp vốn vào cơng ty và chịu trách nhiệm
hữu hạn về các khoản nợ trong phạm vi số vốn góp vào cơng ty.6
Về tư cách pháp lý: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có tư
cách pháp nhân kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Về thành viên: Cơng ty phải có ít nhất hai thành viên và có tối đa khơng q
50 thành viên. Thành viên cơng ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong thực tế, các
5

Tình huống - dẫn giải – bình luận về luật doanh nghiệp Việt Nam của nhà xuất bản chính trị quốc gia – trích
phần định nghĩa và đặc điểm của công ty TNHH 1 thành viên tr. 128, 129, 130.
6

Khoản 2 điều 73 Luật doanh nghiệp 2014.


9

thành viên cơng ty trách nhiệm hữu hạn thường có mối liên hệ mật thiết với nhau về
nhân thân.
Về cấu trúc vốn: Sự khác biệt cơ bản giữa công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và công ty cổ phần thể hiện ở đặc điểm về cấu trúc vốn. Công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có cấu trúc vốn “đóng”. Vốn điều lệ của
công ty không nhất thiết phải chia thành những phần có giá trị bằng nhau và khơng
được thể hiện dưới hình thức cổ phần. Việc chuyển nhượng vốn của thành viên cho
người không phải là thành viên công ty bị hạn chế bởi quyền ưu tiên nhận chuyển
nhượng của các thành viên cịn lại trong cơng ty.7 Đặc điểm này của công ty trách
nhiệm hữu hạn cho phép các thành viên có thể ngăn chặn sự thâm nhập của người

bên ngồi cơng ty bằng cách cùng nhau mua hết phần vốn của thành viên muốn
chuyển nhượng vốn.
Về huy động vốn: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không
được quyền phát hành cổ phần.
Về chế độ chịu trách nhiệm: Các thành viên của Công ty chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào cơng ty trách nhiệm hữu hạn. Cơng ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi tài sản của công ty.
Là dạng công ty đối vốn nhưng mang yếu tố “trọng nhân” sở dĩ như vậy là vì
trong thực tế đây là loại cơng ty của những thành viên có mức độ tin cậy về nhân
thân, mặt khác các quy định về chuyển nhượng vốn và xử lý vốn trong một số
trường hợp riêng biệt của loại cơng ty này cũng có những điểm đặc thù so với
những công ty đối vốn thuần túy như công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp 2014
không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về công ty này chỉ xác định qua đặc điểm.
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá
50 thành viên. Đây là dấu hiệu nhận diện của loại hình cơng ty này với các loại
doanh nghiệp khác. Sự liên kết giữa các thành viên trong công ty thơng qua cơ chế
góp vốn cho phép cơng ty đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu kinh doanh ở quy mô lớn
hoặc vừa phải nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, thực tế đã chứng minh, biết phân tán, hạn chế rủi ro là một trong những
yếu tố quan trọng hàng đầu đem lại sự thành công cho các nhà đầu tư trong q
trình kinh doanh. Ở phương diện này cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên có những lợi thế nhất định so với loại hình doanh nghiệp chỉ có một chủ. Để
7

Điều 52, 53, 54 – Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13.


10


trở thành thành viên công ty phải đảm bảo các quy định của luật Doanh nghiệp tức
là không thuộc đối tượng bị cấm tham gia, thành lập, quản lý và góp vốn.
Cơng ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Một cơng ty có tư cách pháp nhân khi: (i) được thành lập hợp pháp
(ii) có cơ cấu quản lý chặt chẽ (iii) có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó (iv) tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Luật Doanh nghiệp
quy định “ đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan
quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó
khi có đủ điều kiện theo quy định” Việc xác nhận doanh nhận có đủ điều kiện kinh
doanh được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu
cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.
Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào cơng ty. Tính chất này
thể hiện ở tên gọi loại công ty này là trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên tính chất chịu
trách nhiệm hữu hạn ở đây chỉ áp dụng cho các thành viên công ty trong một số
trường hợp số nợ của công ty vượt quá tổng giá trị tài sản của nó tại cùng thời điểm.
Nói cách khác về phía cơng ty với tư cách là một pháp nhân độc lập về tài sản với
thành viên góp vốn phải sử dụng hết tài sản của mình đã góp vào để trả nợ. Song
nếu đã sử dụng đến hết tài sản rồi mà vẫn khơng trả đủ số nợ thì các thành viên
khơng bị buộc phải dùng tài sản riêng của mình để trả nợ thay cho cơng ty. Chính
đặc điểm này đã làm cho công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên rất phổ
biến trên thế giới. Các thành viên dễ dàng kết hợp với nhau để cùng kinh doanh mà
khơng phải lo lắng nhiều vì khi cơng ty bị lâm vào tình trạng phá sản họ chỉ mất
phần vốn góp vơ chứ khơng ảnh hưởng gì đến tài sản riêng của họ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát
hành cổ phần. Đây là một trong những khác biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn so
với công ty cổ phần. Bởi lẽ số lượng thành viên công ty giới hạn ở mức tối đa là 50
nếu cho phép phát hành cổ phần và áp dụng các quy định như công ty cổ phần tất
yếu sẽ dẫn đến đặc tính của cơng ty này bị thay đổi. Quy định không được quyền

phát hành cổ phần làm cho việc tăng vốn của công ty này bị giới hạn trong một số
trường hợp cụ thể và phải được sự chấp thuận của tất cả thành viên (trường hợp
tăng vốn bằng cách kết nạp thêm thành viên).8

8

Điều 47 Luật doanh nghiệp 2014.


11

1.1.2 Khái quát về công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát
triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của
cơng ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
“Công ty cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là
phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho
kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển”.9
Ở các nước khác nhau, cơng ty cổ phần có thể có những tên gọi khác nhau. Ở
Pháp là công ty vô danh, Ở Anh là công ty với trách nhiệm hữu hạn, ở Mỹ nó được
gọi là cơng ty kinh doanh, và ở Nhật Bản gọi là cơng ty chung cổ phần.10
Q trình cơng nghiệp hố ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ XVIII,
XIX cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện loại
hình cơng ty cổ phần. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất
kinh doanh phải có quy mơ ngày càng to lớn, cạnh tranh và độc quyền có mức độ
ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi
nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. Cơng ty cổ phần là
hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thu hút và tập trung tư bản, như nhận định của Các Mác “Qua các công ty
cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”.11

Về mặt lịch sử hình thành, cơng ty cổ phần ra đời sau các loại công ty đối
nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình cơng ty đối vốn. Khác với sự ra đời
của hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, cơng ty cổ phần được hình thành trong
hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được
pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý. Chẳng hạn như
ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100
năm đã có sự xuất hiện của các cơng ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở Anh mới có
Luật về công ty cổ phần. Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty
Đông Ấn của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày 31/10/1860 bởi một nhóm
có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vịng 15 năm ở vùng
Đơng Á, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải
cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa
điểm nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng và Eo biển Magellan. Ngày
9

Nguyễn Ngọc Bích “Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong CTCP”, Nxb. Trẻ, 2003, tr.18.
Viện Kinh tế Thế giới “Công ty cổ phần các nước phát triển – Qúa trình thành lập, tổ chức quản lý”, Nxb.
KHXH, 1991, tr.5.
11
Các Mác “Tư bản”, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, HN 1975, tr.199.
10


12

01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia hạn. Công
ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi
biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”.12
Năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức tương tự

cơng ty của Anh, rồi lần lượt công ty cổ phần xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch,
Đức…
Ở Mỹ, công ty cổ phần phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường xe
lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên tồn lãnh thổ rộng lớn
của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị trường
chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính
trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ
về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào khơng dùng đến nó
là khơng thu hút được vốn.13
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, công ty cổ phần bắt đầu phát triển
ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế tạo cơ
khí, ngân hàng, bảo hiểm… các nước tư bản phát triển và về sau phát triển rộng rãi
ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ XIX, với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển
mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng
cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực
hiện nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng “Nếu như
cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể
đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa
có đường sắt”.14
Sự ra đời của công ty cổ phần đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết
được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo.
Tóm lại, trải qua q trình phát triển lâu dài, công ty cổ phần đã từ phạm vi ở
một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa quốc gia,
hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “Công ty cổ phần
đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mơ nhỏ đến quy

12

Đồn văn Trường “Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động CTCP”, Nxb. KHKT, HN 1996, tr.10.

Nguyễn Ngọc Bích. Sdd, tr.25.
14
Các Mác “Tư bản”, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, HN 1975, tr.199.
13


13

mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua
các công ty siêu quốc gia”.15
Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số
các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp. Ngày
nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành cơng nghiệp, dịch
vụ cơng cộng và trong các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mơ hình phổ biến nhất cho các
doanh nghiệp có quy mơ lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các cơng ty cổ phần
năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình của một công ty trách nhiệm
hữu hạn chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức năm 1980 có tới
66 cơng ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303 cơng ty cổ phần, chiếm
tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp.
Như đã phân tích, chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế – xã hội
cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư muốn chia sẻ
những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn đã dẫn đến
sự ra đời của công ty cổ phần. Sự ra đời và phát triển của cơng ty cổ phần địi hỏi
cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Ở Anh, Luật về công ty cổ phần được ban hành năm 1844. Theo đó, dù các
công ty muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Tuy nhiên,
luật này không cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế
này phản ánh sự nghi ngờ của dư luận về cơng ty cổ phần lúc đó. Tuy nhiên, vào
những năm 1850 có hơn 40 cơng ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành

lập cơng ty ở Pháp rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm 1855
ban hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty đã được thành lập
theo luật về công ty cổ phần. Cuối cùng cả hai luật kia được sáp nhập thành một
năm 1862 lấy tên là Luật về công ty.
Vào lúc ấy, nước Anh là đế quốc thống trị về hàng hải và là một cường quốc
công nghiệp hàng đầu thế giới. Luật công ty của Mỹ được ban hành năm 1881 ở
NewYork chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh do nguồn gốc hình
thành nước Mỹ. Các nước trong khối Thịnh Vượng Chung ngày nay có luật cơng ty
giống của Anh, riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về
văn hoá và lịch sử. Ở Đức, luật công ty cổ phần được ban hành năm 1870. Công ty
cổ phần của Đức bị luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của
15

Đặng Cẩm Thuý “Bàn về con đường hình thành CTCP ở các nước Tư bản và vận dụng vào Việt Nam”,
Tạp chí NCKT, Số 225, 2/1997, tr.35.


14

Anh và Mỹ. Ở Pháp, bộ luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công
ty bằng cách cho lập hội hợp tư cổ phần.16
Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy định là trong “Bộ Dân
luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ”, nói về hội bn được chia thành hai loại
là hội người và hội vốn. Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh
công ty cổ phần và hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định
của Pháp luật thời kỳ này về cơng ty cổ phần cịn rất sơ khai.17 Dưới thời Pháp
thuộc, các quy định của Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807, trong đó có quy định
về hình thức cơng ty cổ phần được áp dụng ở cả ba kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944,
chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng
tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về công ty cổ phần (gọi là công ty vô danh) từ

Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 171.
Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hồ ban hành Bộ luật Thương mại,
trong đó cơng ty cổ phần được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội
viên mệnh danh cổ đơng, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình
dưới hình thức cổ phần”18 và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở
lên”.19 Các vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp
vốn, cơ cấu quản lý đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật Thương mại 1972.
Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975
và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với
chính sách kinh tế kế hoạch hố tập trung, các hình thức cơng ty nói chung và cơng
ty cổ phần nói riêng hầu như khơng được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty”
trong giai đoạn này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo
hình thức kinh doanh. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn
này chủ yếu bao gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành
phần kinh tế tập thể) và cơng tư hợp danh (hình thành từ q trình cải tạo cơng
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của
nước ngồi ở nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ban hành (kèm theo
Nghị định 115/CP của Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức cơng ty
cổ phần khi quy định “xí nghiệp hoặc cơng ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình
thức “cơng ty vô danh” (một tên gọi khác của công ty cổ phần) nhưng lại khơng có
văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt động của hình thức công ty cổ
phần này. Và trên thực tế, cũng khơng có xí nghiệp hoặc cơng ty hỗn hợp nào được
16

Nguyễn Ngọc Bích, Sdd, tr.26.
Lê Thị Châu “Quyền sở hữu tài sản của công ty”, Nxb. Lao động, HN, 1997, tr.17.
18
Điều 236 Bộ Luật Thương mại năm 1972.
19
Điều 295 Bộ Luật Thương mại năm 1972.

17


15

thành lập theo hình thức “cơng ty vơ danh” theo quy định của Điều lệ về đầu tư của
nước ngoài năm 1977 kể trên. Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày
21/12/1990, hình thức cơng ty cổ phần mới chính thức được quy định cụ thể. Theo
Luật Cơng ty 1990, công ty cổ phần được xác định với các đặc điểm số thành viên
gọi là cổ đông mà cơng ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 7, vốn
điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị
mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đơng có thể mua 1 hoặc nhiều cổ
phiếu. Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của
sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên.
Cổ phiếu khơng ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được
chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, trừ trường hợp quy định
tại Điều 39 của Luật này.
Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban
hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức cơng ty cổ phần. Hoạt động của các
doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác,
do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp
này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như
trong Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định
về các loại hình tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà
nước và nhân dân, hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần chính là
các cơng ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ.
Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, Quy chế về tổ chức và hoạt động của cơng
ty chứng khốn ban hành kem theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày
13/10/1998 quy định “Cơng ty chứng khốn là công ty cổ phần thành lập hợp pháp

tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc
một số loại hình kinh doanh chứng khốn”.20
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Cơng ty đã phát huy được tích cực vai trị
của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên tục biến
đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục thành lập
và đăng ký kinh doanh. Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu với cách thức tổ
chức một công ty theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc sửa đổi, thay thế
luật này được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan.
20

Điều 2 K1 Quy chế về tổ chức và hoạt động công ty chứng khoáng kèm Quyết định số 04/1998/QĐUBCK.


16

Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp để thay thế cho
Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, Luật
Doanh nghiệp 1999 đã được thay đổi bằng Luật Doanh nghiệp 2005. Trong các văn
bản này, công ty cổ phần vẫn tiếp tục được ghi nhận và được quy định theo hướng
tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty cổ phần. Sau 9 năm áp
dụng Luật Doanh Nghiệp 2005 thì Luật Doanh Nghiệp 2014 ra đời với sự tiến bộ về
nền kinh tế nhà làm Luật đã đưa ra những điều khoản khá khả thi về những quy
định công ty cổ phần ở nước ta hiện nay.
Công ty cổ phần được Luật Doanh nghiệp 2014 quy định tại Chương V,
từ Điều 110 đến Điều 171. Trong các quy định nêu trên, điều Luật khái quát nhất,
thể hiện đầy đủ đặc điểm pháp lý về công ty cổ phần là Điều 110 như sau: “Công ty
cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần; Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu
là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản

nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp; Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật
Doanh Nghiệp 2014.
Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Cơng ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.
Qua quy định này, có thể thấy được cơng ty cổ phần có đặc điểm pháp lý chính về
các yếu tố:
Các đặc điểm chung của thương nhân. Đặc điểm về vốn điều lệ, chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Đặc điểm về chủ thể góp vốn, gọi là cổ đơng,
tối thiểu là 3 và không hạn chế tối đa. Đặc điểm về trách nhiệm tài sản, trách nhiệm
tài sản hữu hạn. Đặc điểm về tư cách pháp nhân: có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Đặc điểm về huy động vốn là có
quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.”21
Đặc điểm chung của thương nhân:
Công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khác đều mang đầy đủ các đặc
điểm của thương nhân theo quy định là: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế

21

Điều 110 Luật Doanh Nghiệp 2014


17

được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”.22
Như vậy, các đặc điểm chung của thương nhân cũng có ở Cơng ty cổ phần là:
Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp.

Hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xun, mang tính nghề
nghiệp.
Có đăng ký kinh doanh.
Ngồi ra, cơng ty cổ phần cịn có một số đặc điểm riêng như sau:
Đặc điểm về vốn của cơng ty cổ phần:
Cơng ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Vốn điều lệ của công ty
cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau, gọi là cổ phần. Giá trị của cổ phần
được phản ảnh bằng cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh giá trị của 1 hay nhiều
cổ phần.
Các hình thức huy động vốn:
Chào bán cổ phần riêng lẻ, bán cổ phần cho cổ đông trong công ty, phát hành
chứng khốn, phát hành trái phiếu.
Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp của cơng ty cổ phần: Cổ đơng có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp:
Trường hợp 1: Trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đơng sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng
cổ phần của mình cho cổ đơng sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần
phổ thơng của mình cho người khơng phải là cổ đơng sáng lập nếu được sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đơng.23
Trường hợp 2: Điều lệ cơng ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần.
Vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã bán (cổ
đơng đã thanh tốn đủ cho công ty). Tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp,
cổ phần đã bán là tổng số cổ phần các loại đã được đăng ký mua và đó cũng chính
là vốn điều lệ mà cơng ty đã đăng ký ban đầu.24
Vốn của công ty cổ phần: Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Như vậy có thể thấy đây là loại hình doanh
22

Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005
Khoản 3 Điều 119 Luật doanh nghiệp 2014.

24
Khoản 1 Điều 126 Luật doanh nghiệp 2014.
23


18

nghiệp duy nhất mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau. Trong khi
đó, ở các loại hình doanh nghiệp khác, ví dụ như cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên vốn điều lệ của công ty không bắt buộc phải chia thành các phần
bằng nhau. Vốn điều lệ của cơng ty được hình thành từ các phần vốn góp của các
thành viên. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ
phần. Một cổ đơng có thể mua nhiều cổ phần.
Các loại cổ phần:
Cổ phần phổ thông (bắt buộc phải có). Người sở hữu cổ phần phổ thơng là cổ
đơng phổ thơng.
Cổ phần ưu đãi (có thể có). Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu
đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm: cổ phần ưu đãi biểu quyết; cổ phần ưu đãi cổ
tức; cổ phần ưu đãi hoàn lại; cổ phần ưu đãi khác do điều lệ cơng ty quy
định.
Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đơng sáng lập mới có quyền
nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đơng sáng lập
chỉ có hiệu lực 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đơng sáng lập chuyển đổi
thành cổ phần phổ thông.
Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu
đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông.
Vốn pháp định: những công ty cổ phần đăng ký kinh doanh những ngành,
nghề, lĩnh vực mà pháp luật quy định phải có một khoản vốn nhất định thì phải đáp

ứng được u cầu đó. Vốn điều lệ khơng thể nhỏ hơn vốn pháp định.
Đặc điểm về thành viên công ty cổ phần: Chủ thể sở hữu ít nhất 1 cổ phần
của công ty cổ phần sẽ trở thành cổ đông của cơng ty cổ phần đó. Số lượng cơng ty
cổ phần phải có ít nhất 3 cổ đơng và khơng hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông của
công ty cổ phần có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức, chỉ cần không thuộc
vào các đối tượng khơng được thành lập và góp vốn theo quy định pháp luật. Trong
đó:
Cá nhân: Khơng phân biệt quốc tịch và nơi cư trú.
Tổ chức: Mọi tổ chức là pháp nhân, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư của
nước ngồi.
Phân loại cổ đơng dựa vào vai trị đối với việc thành lập công ty:


19

Cổ đơng sáng lập: là cổ đơng sở hữu ít nhất 1 cổ phần phổ thông và ký tên
trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Công ty cổ phần mới thành lập
phải có ít nhất 3 cổ đông sáng lập. Công ty cổ phần được chuyển đổi từ loại hình
cơng ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư của nhà nước hoặc
trường hợp được chia, tách từ một công ty cổ phần khác thì khơng nhất thiết phải có
cổ đơng sáng lập.
Cổ đơng góp vốn: là cổ đơng đưa tài sản vào công ty bằng cách mua cổ phiếu
do công ty phát hành hoặc mua lại cổ phiếu từ cổ đông khác, trở thành chủ sở hữu
chung của công ty.
Phân loại cổ đông dựa vào số cổ phần mà họ sở hữu:
Cổ đông phổ thông: là người sở hữu cổ phần phổ thơng. Cơng ty cổ phần bắt
buộc phải có loại cổ đông này.
Cổ đông ưu đãi: là người sở hữu cổ phần ưu đãi. Cơng ty cổ phần có các loại
cổ đông ưu đãi tương ứng với các loại cổ phần ưu đãi. Cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ
đông ưu đãi hồn lại khơng có quyền biểu quyết.

Tư cách pháp nhân: Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày đc cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần đáp ứng đủ các điều kiện
của pháp nhân: Được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ với điều lệ rõ
ràng, có sự độc lập về tài sản với các doanh nghiệp khác và với thành viên trong
cơng ty, có người đại diện nhân danh cơng ty, vì lợi ích của công ty tham gia vào
các quan hệ pháp luật.
Chế độ trách nhiệm tài sản: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài chính của cơng ty bằng tồn bộ tài sản của cơng ty. Các cổ
đông chịu trách nhiệm hữu hạn, tức là chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài chính của cơng ty trong phạm vi vốn góp vào công ty mà không liên
quan đến tài sản riêng.
Công ty cổ phần là một loại hình cơng ty đối vốn điển hình, theo đó cổ đơng
được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác mà không phải
chịu sự hạn chế như một công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh (trừ 1
số trường hợp ngoại lệ).


20

Khả năng huy động vốn: Cơng ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
các loại để huy động vốn. Đây cũng là loại hình doanh nghiệp có khả năng huy
động vốn lớn nhất trong các mơ hình doanh nghiệp hiện nay.25
Cơng ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đặt trưng cho công ty đối vốn.
Các nhà đầu tư khi đầu tư vào chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp nên
điều này khiến cho nhà đầu tư mạnh dạn để đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao
nhưng đem lại lợi nhuận lớn. Công ty hoạt động một cách độc lập với thành viên
của công ty vì vậy các cổ đơng tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình và khi
tham gia vào các cổ đông không quan tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm
đến phần vốn góp của mình.
Cơng ty cổ phần là một pháp nhân được thành lập một cách hợp pháp, có cơ

cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản riêng và độc lập với tổ chức cá nhân khác, tài sản
này được hình thành chủ yếu là do từ nguồn vốn của các cổ đơng góp và tách bạch
với các tài sản của cổ đông. Khi cổ đơng góp vốn vào cơng ty họ sở hữu một phần
trong công ty tương ứng với giá trị cở phần mà mình nắm giữ. Với tư cách là một
chủ thể pháp luật cơng ty cổ phần nhân danh chính mình vào các quan hệ pháp luật
và phải chịu trách nhiệm trước các nghĩa vụ phát sinh bằng chính tài sản của cơng
ty.
Là loại cơng ty có cấu trúc vốn mềm dẻo, linh hoạt và mang tính xã hội hóa
cao. Trong cơng ty có nhiều loại cổ phần khác nhau, với những ưu thế riêng đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhà đầu tư, với cấu trúc đa dạng dễ dàng chuyển
nhượng đã tạo cho cơng ty cổ phần có khả năng huy động vốn lớn để đầu tư kinh
doanh, cơng ty cổ phần được phát hành chứng khốn ra cơng chúng.
Có cơ cấu, bộ máy tổ chức quản lý chặt chẽ. Trong cơ cấu tổ chức, bộ máy
quản lý có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các bộ phận. Với quy định không
hạn chế số lượng thành viên tối đa nên cơng ty cổ phần cần có một bộ máy quản lý
chặt chẽ để có thể kiểm sốt kịp thời những hoạt động của cơng ty, để bảo về quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tính quản lý kiểm sốt chặt chẽ đối với
loại hình doanh nghiệp này khơng chỉ có ở pháp luật việt nam mà pháp luật doanh
nghiệp trên toàn thế giới cũng ghi nhận điều này.

25

Tình huống - dẫn giải – bình luận về luật doanh nghiệp Việt Nam của nhà xuất bản chính trị quốc gia –
trích phần khái niệm và các loại cổ phần theo pháp luật về doanh nghiệp của công ty Cổ phần tr. 210 đến
214.


×