LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề báo cáo thực tập này trước hết tôi xin gửi đến quý
Thầy, Cô trong Khoa Luật, trường Đại học công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
(Hutech) lời cảm ơn chân thành.
Đặc biệt, tơi xin gửi đến thầy Dương Tuấn Lộc – giảng viên tại khoa Luật,
trường Đại học Hutech, mặc dù thầy có khối lượng cơng việc dày đặc nhưng thầy
vẫn tận tình chỉ dẫn, định hướng để tơi hồn thành tốt bài khóa luận của mình. Một
lần nữa tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy, và chúc thầy có thật nhiều sức
khỏe.
Vì kiến thức bản thân cịn hạn chế, nên trong q trình hồn thiện chun đề
này tơi khơng tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được ý kiến đóng góp từ
q thầy cơ.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: PHẠM THỊ TRÂM
MSSV: 1411270971
Tôi xin cam đoan các số liệu, thơng tin sử dụng trong khóa luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn thực tế, trên các sách báo khoa học chun
ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong báo cáo này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ q
trình nghiên cứu và thực tế, KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu
khác.
Nếu sai sót tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà Trường
và pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)
PHẠM THỊ TRÂM
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2005
Bộ luật Dân sự 2005
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự 2015
HN&GĐ
Hơn nhân và Gia đình
TAND
Tịa án Nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................3
5. Kết cấu khóa luận..................................................................................................3
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ KHÔNG PHỤ
THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC .....................................................................4
1.1 Khái quát chung về thừa kế ..................................................................................4
1.1.1 Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế .........................................................4
1.1.2 Thừa kế theo di chúc ......................................................................................6
1.1.3 Thừa kế theo pháp luật ...................................................................................8
1.2 Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2015 ......12
1.2.1 Khái niệm về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc .....................12
1.2.2 Vai trò của chế định thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc ..........13
1.2.3 Chủ thể hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc .....................14
1.2.4 Điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc .17
1.2.5 Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản không phụ
thuộc vào nội dung di chúc ...................................................................................20
1.2.6 Các bước chia thừa kế bắt buộc và xác định giá trị của một suất thừa kế bắt
buộc ......................................................................................................................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................29
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI
CHÚC .......................................................................................................................30
1.3 Xác định tư cách hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc ..........30
1.3.1 Tư cách hưởng thừa kế bắt buộc của người được thành thai và sinh ra sau
thời điểm mở thừa kế ............................................................................................30
1.3.2 Tư cách hưởng thừa kế bắt buộc của con đã thành niên mà khơng có khả
năng lao động ........................................................................................................33
1.3.3 Kiến nghị ......................................................................................................35
1.4 Tranh chấp trong việc xác định khối tài sản được chia cho người hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc .....................................................................37
1.4.1 Tranh chấp trong việc xác định khối tài sản phát sinh trong tương lai sau
khi người để lại di sản chết ...................................................................................37
1.4.2 Tranh chấp về việc xác định khối tài sản dùng để di tặng, thờ cúng ...........41
1.4.3 Kiến nghị ......................................................................................................42
1.5 Tình huống xác định 2/3 suất thừa kế bắt buộc ..................................................43
1.5.1 Phân thích tình huống ..................................................................................43
1.5.2 Nhận xét .......................................................................................................45
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................46
KẾT LUẬN ..............................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................49
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế định về thừa kế là một trong những nội dung quan trọng trong Bộ luật
Dân sự 2015. Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, vấn đề về thừa kế ln đóng vị trí
quan trọng, để bảo đảm quyền và lợi ích của cơng dân, vì khi một người chết đi tài
sản của họ sẽ được dịch chuyển sang một người khác, cho nên pháp luật cần có
những quy định cụ thể về thừa kế, để xác định ai là người có được hưởng di sản
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Chính vì thế, pháp luật về thừa kế đã trở
nên rất quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người.
Những quy định về thừa kế ra đời, đã góp phần giúp xã hội ổn định, kinh tế
phát triển. Trải qua từng chế độ xã hội, chế định về thừa kế có những quy định khác
nhau để phù hợp hơn với từng chế độ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, sự phát triển đa dạng các quan hệ về xã hội, từ đó dẫn đến các vấn đề tranh
chấp về thừa kế diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp hơn, bởi vì giá trị của những
di sản thừa kế không chỉ là những tài sản thông thường mà là quyền sử dụng đất,
các tài sản có giá trị kinh tế cao...
Thừa kế có hai loại là thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật. Chế định
về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc ra đời, nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của những người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và mối quan hệ nuôi
dưỡng, trước những quyết định gây bất lợi của người để lại thừa kế. Hiện nay, việc
áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
cịn gặp nhiều khó khăn. Một số vướng mắc gây lúng túng ngay cả trong quá trình
giải quyết tranh chấp về thừa kế tại Tòa án, dẫn đến việc áp dụng sai thực tiễn các
quy định đó đặc biệt trong việc chia di sản thừa kế cho người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc. Nguyên nhân của tình trạng trên là do xuất hiện các
quan điểm trái chiều khi áp dụng điều luật, thiếu sự vận dụng liên kết giữa các điều
luật với nhau cũng như chưa có các văn bản dưới luật chuyên biệt hướng dẫn chi
tiết áp dụng một số điều của chế định thừa kế. Hậu quả của những tồn tại này chính
là việc xác định sai phần di sản được hưởng của người thừa kế do đó khơng bảo vệ
được quyền lợi của cả người thừa kế theo ý chí của người để lại di sản và cả người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Chính vì những lý do trên, dẫn đến việc lựa chọn đề tài “Thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2015 – Thực trạng và kiến nghị”,
nhằm tìm hiểu rõ hơn về các quy định về thừa kế nói chung và thừa kế khơng phụ
thuộc vào nội dung di chúc nói riêng. Để vận dụng các chế định về thừa kế trong
học tập cũng như phục vụ cho cơng việc sau này được chính xác, cơng bằng bảo
2
đảm quyền lợi ích cho những người thừa kế. Ngồi ra cịn nghiên cứu, đưa ra những
kiến nghị nhằm hồn thiện hơn pháp luật về thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Thừa kế là một chế định phổ biến, được ra đời từ rất lâu. Được quy định trong
Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Bộ dân luật Bắc kỳ (năm 1931), các chế định
về thừa kế đều chiếm một số lượng điều luật đáng kể. Trải qua quá trình phát trình
phát triển về kinh tế - xã hội, dẫn đến sự thay đổi về các chế định về thừa kế để phù
hợp hơn với đời sống. Bộ luật Dân sự 2015 ra đời, khắc phục những điểm cịn thiếu
sót trong các Bộ luật Dân sự trước.
Hiện nay, có rất nhiều những nghiên cứu về thừa kế, tập trung vào những khía
cạnh cụ thể về thừa kế như: “Một số vấn đề về thừa kế quyền sử dụng đất” của
Nguyễn Thị Anh; “Hạn chế phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành” của Nguyễn Thị Kiều Nhung hoặc những cuốn sách viết nào
chuyên tập hợp, phân tích, bình luận những quyết định, bản án của Tòa án như
cuốn “Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của PGS. TS. Đỗ Văn
Đại..., nhưng vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu cụ thể về khía cạnh “Thừa
kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc”.
Nhận thức được điều này, tác giả đã chọn đề tài này để làm bài khóa luận tốt
nghiệp của mình, nhằm làm sáng tỏ hơn những quy định liên quan đến “Thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc”, giúp các cơ quan lập pháp ban hành các
văn bản dưới luật để hoàn thiện những quy định về thừa, đồng thời giúp các cơ quan
áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết những
tranh chấp liên quan đến “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài không nghiên cứu tất cả các nội dung của chế
định thừa kế, mà chỉ tập chung nghiên cứu về các vấn đề cơ bản về thừa kế theo di
chúc, thừa kế theo pháp luật. Tập trung chủ yếu vào các vấn đề liên quan đến “Thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2015”. Kết quả
nghiên cứu đề tài sẽ là cơ sở để tiếp tục kiến nghị, bổ sung, sửa đổi nhằm hồn thiện
chế định về thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề này sẽ tập trung nghiên cứu
về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận thì đề tài này tác giả chủ yếu nghiên cứu
cách vận hành các điều luật liên quan đến thừa kế. Về mặt thực tiễn, tác giả tìm hiểu
và phân tích các tranh chấp về thừa kế có nội dung liên quan đến “Thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2015”.
3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu về đề tài “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo
BLDS 2015 – Thực trạng và kiến nghị” tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học truyền thông để tiếp cận đề tài như: Phương pháp lịch sử; Phương
pháp logic; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu khóa luận
Khóa luận có kết cấu bao gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận và pháp luật về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Chương 2: Thực trạng áp dụng và kiến nghị hoàn thiện các quy định về thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc
4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI
DUNG DI CHÚC
1.1 Khái quát chung về thừa kế
1.1.1 Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế
Theo quy luật của tự nhiên, mỗi người đều trải qua quá trình sinh, lão, bệnh,
tử. Một trong những vấn đề được đặt ra là khối tài sản mà con người tạo ra sẽ được
định đoạt như thế nào, tài sản sẽ thuộc về ai sau khi chết? Một người chết đi thì tài
sản của họ sẽ được duy trì và phát triển bởi những người còn sống. Khi con người
sản xuất ra của cải, vật chất và được duy trì cho các thế hệ tiếp theo sẽ là động lực
to lớn thúc đẩy xã hội phát triển bền vững. Sự chuyển dịch tài sản của người chết
cho người còn sống đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và từ đó hình
thành nên chế định về thừa kế.
Khi chưa có sự xuất hiện của Nhà nước, thừa kế được dịch chuyển bằng
những quy phạm xã hội như phong tục, tập quán, cũng có thể là sự quyết định của
người đứng đầu của các thị tộc, bộ lạc đó. Khi Nhà nước và pháp luật ra đời, quá
trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho một người cịn sống đã có sự tác
động bằng ý chí của Nhà nước, từ đó chế định về thừa kế mới phát triển đầy đủ.
“Khi Nhà nước xuất hiện, vấn đề sở hữu tài sản của cá nhân ngày càng được ghi
nhận và đảm bảo bởi pháp luật”1.
Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng chế độ xã hội, pháp
luật cũng có những quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa
kế. Sự thay đổi đó được thể hiện thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật. Các quy phạm này không những phụ thuộc vào sự thay đổi của quan hệ
sở hữu trong các chế độ xã hội khác nhau, mà còn phụ thuộc vào mức độ phát triển
trong từng chế độ xã hội nhất định, nghĩa là quan hệ pháp luật về thừa kế có sự biến
đổi. Do mỗi chế độ xã hội có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau
nên các quy định về thừa kế cũng khác nhau. Khi đó quan hệ thừa kế khơng những
là phạm trù pháp luật, mà còn được hiểu như là một phạm trù lịch sử. Trải qua từng
giai đoạn, cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội, khoa học pháp lý nói chung và
khoa học pháp lý về thừa kế nói riêng cũng phát triển khơng ngừng. Pháp luật về
thừa kế luôn được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với cuộc sống, góp phần bảo vệ tốt
hơn quyền thừa kế của chủ thể, qua đó khơng ngừng củng cố quyền sở hữu của chủ
thể.
1
PGS.TS Phạm Văn Tuyết – TS. Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.8.
5
Cụ thể là: “Trên cơ sở kế thừa những quy định của Pháp lệnh Thừa kế năm
1990, BLDS 1995 ra đời cụ thể hóa các quyền dân sự của cá nhân, tổ chức, trong
đó có quyền thừa kế. BLDS 1995 là sự phát điển hóa pháp điển hóa pháp luật dân
sự, theo đó, các quy định về thừa kế trong Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và trong
những văn bản hướng dẫn đã được đưa vào Bộ luật và sửa đổi, bổ sung cho hoàn
thiện. Tuy nhiên, do BLDS 1995 được ban hành trong giai đoạn đầu của công cuộc
đổi mới nên nhiều quy định đã không tránh khỏi tư duy chủ quan, hành chính trong
việc điều chỉnh quan hệ dân sự. Vì vậy, năm 2005 BLDS đã tiếp tục được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường và sự hội nhập sâu rộng của
nước ta vào thị trường kinh tế thế giới”2. Việc sửa đổi, bổ sung đó đã đáp ứng nhu
cầu của xã hội, góp phần củng cố các quyền dân sự của công dân, nhưng BLDS
2005 ra đời không tránh khỏi các bật cập, xung đột quyền lợi giữa các bên tham gia.
Sau thời gian góp ý, xây dựng luật, ngày 24 tháng 11 năm 2015 Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua BLDS 2015 để thay thế BLDS 2005 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. BLDS 2015 quy định tương đối cụ thể, rõ
ràng chặt chẽ về chế định thừa kế góp phần giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong
xã hội, tạo sự cơng bằng, bình đẳng hơn trong quan hệ thừa kế và góp phần ổn định
xã hội dân sự.
Về quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ bản của cơng dân được để lại
tài sản của mình cho những người cịn sống và quyền của cơng dân được nhận di
sản theo sự định đoạt của người có tài sản bằng di chúc (thừa kế theo di chúc) hoặc
theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định (thừa kế theo pháp luật). Quyền
thừa kế cần được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa chủ quan và nghĩa khách quan
Theo nghĩa chủ quan, quyền thừa kế là quyền dân sự của cá nhân trong việc để
lại di sản và hưởng di sản thừa kế cùng quyền kiện hay không kiện yêu cầu chia di
sản thừa kế.
Theo nghĩa khách quan, quyền thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người khác theo ý chí
của người đó khi cịn sống hoặc theo một trình tự nhất định. Mặt khác, các quy
phạm pháp luật ghi nhận và quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền của
người có tài sản, quyền của người thừa kế và các chủ thể khác trong quan hệ thừa
kế. Quyền này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật với các quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục, điều kiện chuyển dịch tài sản của người chết sang người sống.
2
Lê Minh Hùng (chủ biên) (2015), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế,
NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr 178.
6
Theo Điều 609 BLDS 2015 “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Pháp luật nước ta tôn trọng quyền tự định
đoạt của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản của họ. Vì vậy, khi cịn
sống họ có quyền định đoạt tài sản của mình cho những người khác. Nếu quá trình
dịch chuyển này được thực hiện dựa trên ý chí của người đã chết thể hiện trong di
chúc mà họ để lại sẽ được gọi là thừa kế theo di chúc. Mặt khác, nếu sự dịch chuyển
trên được thực hiện “theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật
qui định”3 sẽ được gọi là thừa kế theo pháp luật.
Bên cạnh quyền để lại di sản thừa kế, cá nhân cịn có quyền hưởng di sản thừa
kế. Nếu việc hưởng di sản của một người được xác định theo ý chí của người để lại
di sản thể hiện trong di chúc của họ thì được gọi là quyền hưởng di sản theo di
chúc. Nếu việc hưởng di sản của một người được xác định theo quy định của pháp
luật thì được gọi là quyền hưởng di sản theo pháp luật.
1.1.2 Thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc là một trong những hình thức thực hiện quyền thừa kế.
Cá nhân có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho người khác và ngược lại
cá nhân đó cũng có quyền nhận di sản thừa kế do người khác để lại cho mình.
Theo quy định của BLDS 2015 “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”4. Di chúc là phương
tiện để phản ánh ý chí đơn phương của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản
của họ cho người khác hưởng, sau khi người lập di chúc chết. Một người có thể để
lại nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý
chí tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật, nhưng không phải
tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật là di
chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thơng qua một hình thức nhất định. Theo quy
định tại Điều 627 BLDS 2015, di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: di chúc
bằng văn bản và di chúc miệng. Trong đó người lập di chúc bày tỏ ý chí của mình
về việc định đoạt một phần hay tồn bộ di sản của mình cho một hay nhiều người
khác.
Từ khái niệm pháp lý được nêu trong BLDS 2015 dựa vào bản chất, mục đích
của di chúc, có thể rút ra một định nghĩ đầy đủ về di chúc như sau: “Di chúc là sự
3
Điều 649 BLDS 2015.
4
Điều 524 BLDS 2015.
7
thể hiện ý chí đơn phương của cá nhân lúc cịn sống về việc định đoạt tài sản của
mình sau khi chết một cách tự nguyện, theo một hình thức, thể thức luật định, có thể
bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ bất cứ lúc nào bởi người lập di chúc khi người
đó cịn sống, và di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết”5.
Việc pháp luật thừa nhận hình thức thừa kế theo di chúc, không chỉ bảo đảm
cho chủ sở hữu tài sản có quyền quyết định số phận tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình khi cịn sống, mà cịn có thể quyết định số phận của các tài sản sau khi chết.
Định đoạt di sản bằng di chúc là một đặc quyền của cá nhân – chủ sở hữu tài sản, và
thừa kế theo di chúc là phương thức để bảo vệ tài sản của cá nhân cũng như để củng
cố và duy trì quyền sở hữu tư nhân.
Theo như phân tích trên có thể thấy di chúc chính là phương tiện để phản ánh
ý chí của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác sau khi
chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc để định đoạt một loại tài sản. Tuy
nhiên, di chúc phải đáp ứng các điều kiện luật định và thể hiện ý chí sau cùng của
người lập di chúc mới có hiệu lực pháp luật. Các điều kiện đó là:
(i) “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân” người lập di chúc chỉ có thể là cá
nhân, cá nhân đó có ý định xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế thông qua việc
lập di chúc. Nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình lập di chúc để định
đoạt tài sản nếu khơng có năng lực để lập di chúc.
(ii) Theo quy định của pháp luật thừa kế của nước ta thì: “Người thành niên có
đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền
lập di chúc để định đoạt tài sản của mình”6, trừ trường hợp đặc biệt được quy định
dưới đây:
(iii) Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc nếu
đáp ứng được một số điều kiện luật định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc”7. Ngược lại, nếu người ở độ tuổi này lập di chúc nhưng không
được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc của người giám hộ hợp pháp thì di chúc lập ra
khơng có giá trị pháp lý.
(iv) “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép”8. Những di chúc được lập do bị lừa dối, đe dọa cưỡng ép
5
Lê Minh Hùng, (1995), Vấn đề di chúc trong pháp luật thừa kế của nước ta hiện nay - Luận văn cử nhân
(Người hướng dẫn: TS. Chu Hải Thanh), PH Đại học Luật TP.HCM, tr 23.
6
Khoản 1 Điều 625 BLDS 2015.
Khoản 2 Điều 625 BLDS 2015.
8
Điểm a, khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
7
8
trong lúc không thể nhận thức, điều khiển hành vi của mình đều coi là di chúc bị vơ
hiệu. Pháp luật cũng đòi hỏi người lập di chúc phải là người có khả năng nhận thức
bình thường vào lúc lập di chúc. Điều này có nghĩa là vào thời điểm lập di chúc, sức
khỏe, tinh thần của người lập di chúc ở trong tình trạng hồn tồn minh mẫn, sáng
suốt. Sự minh mẫn sáng suốt là điều kiện để di chúc được lập có hiệu lực pháp luật.
Bởi lẽ, chỉ có minh mẫn mới giúp cho người lập di chúc nhận thức rõ hành vi của
mình, hiểu đúng việc mình làm. Có như vậy, di chúc được lập mới thể hiện đúng ý
chí của người lập di chúc.
(v) “Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật”9. Để di chúc được coi là hợp
pháp không chỉ dựa vào năng lực hành vi dân dự của người lập di chúc, mà còn dựa
vào nhiều yếu tố khác, trong đó có nội dung của di chúc cũng là một yếu tố quan
trọng trong việc xét di chúc đó có hợp pháp hay khơng. Nội dung của di chúc, là sự
tổng hợp các vấn đề mà người lập di chúc đã thể hiện trong di chúc đó. Vì vậy, một
di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu sự thể hiện trên không vi phạm những điều
pháp luật đã cấm, ngoài ra di chúc muốn được coi là hợp pháp thì nội dung của nó
phải phù hợp với đạo đức xã hội. Trường hợp chỉ có một số điểm trong nội dung
của di chúc khơng phù hợp với pháp luật thì chỉ riêng những phần đó bị coi là
khơng có giá trị pháp lý, cịn những phần khác của di chúc vẫn có hiệu lực pháp
luật.
(vi) Khi lập di chúc, di chúc phải được thực hiện bằng một trong những hình thức
của luật đã định, đây cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của di chúc. Tại
Điều 627 BLDS 2015 đã quy định “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu
không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Như vậy, theo
quy định của pháp luật di chúc chỉ có thể tiến hành theo một trong hai hình thức:
hoặc là bằng một văn bản, được coi là di chúc viết hoặc là thông qua lời nói, được
gọi là di chúc miệng, với mỗi loại di chúc cần đáp ứng được những yêu cầu nhất
định được quy định trong BLDS 2015.
1.1.3 Thừa kế theo pháp luật
Như đã phân tích ở các phần trên, nếu sự dịch chuyển di sản đó được căn cứ
vào ý chí của người chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, còn sự dịch
chuyển tài sản của người chết sang cho người sống căn cứ theo trình tự, điều kiện
của quy định pháp luật mà không dựa theo ý chí của người để lại di sản thì được gọi
là thừa kế theo pháp luật
9
Điểm b, khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
9
BLDS 2015 cũng đã định nghĩa về thừa kế theo pháp luật: “Thừa kế theo pháp
luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy
định”10. Khác với thừa kế theo di chúc là dựa vào ý chí của người có tài sản, thừa
kế theo pháp luật dựa vào hàng thừa kế. Thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch di
sản của người chết cho những người còn sống theo mối quan hệ ràng buộc về quan
hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng, giữa người để lại di sản sau
khi họ chết với người được nhận di sản. Thừa kế theo pháp luật về bản chất là bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quan hệ huyết thống, gia đình,
bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi thành viên một cách cơng bằng, phù hợp với
ý chí của Nhà nước và đạo đức xã hội Việt Nam dẫn đến sự ổn định của từng gia
đình trong xã hội, pháp luật về thừa kế góp phần giáo dục về tinh thần trách nhiệm
của mỗi thành viên trong gia đình.
Theo quy định tại Điều 650 BLDS 2015 các trường hợp thừa kế theo pháp luật
chia thành hai nhóm có phạm vi khác nhau: tồn bộ di sản mà người chết để lại
được chia cho những người thừa kế theo pháp luật và chỉ có một phần di sản thừa
kế được chia theo pháp luật còn một phần vẫn được chia theo di chúc.
Toàn bộ di sản thừa kế đƣợc chia theo pháp luật
(i) Trong trường hợp khơng có di chúc
Người có tài sản chết mà khơng lập di chúc hoặc có lập nhưng chính họ lại
tiêu huỷ di chúc như xé, đốt hoặc tuyên bố huỷ bỏ di chúc đã lập. “Người lập di
chúc có quyền khơng cơng nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trong trường
hợp này, người lập di chúc có thể bằng một văn bản tun bố khơng thừa nhận giá
trị pháp lý của di chúc do mình lập ra trước đó, hoặc bằng một hành vi cụ thể để
tiêu hủy toàn bộ di chúc đã lập. Khi di chúc bị hủy bỏ và cho đến lúc chết, người có
tài sản cũng khơng đưa ra một hình thức định đoạt nào khác đối với tài sản thì tài
sản đó sẽ trở thành di sản thừa kế được chia theo pháp luật”11.
Người chết có để lại di chúc nhưng kể từ thời điểm mở thừa kế di chúc đã bị
thất lạc hoặc hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di
chúc đó và cũng khơng thể chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di
chúc. “Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến
mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng khơng có bằng
10
Điều 649 BLDS 2015.
Lê Minh Hùng (chủ biên) (2015), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế,
NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr 318.
11
10
chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như
khơng có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật”12.
Nội dung di chúc không rõ ràng, gây ra nhiều cách hiểu khác nhau mà người
công bố di chúc và những người thừa kế khơng nhất trí về cách hiểu nội dung di
chúc. “Trường hợp nội dung di chúc khơng rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di
chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối
quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này khơng
nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền u cầu Tịa án giải quyết”13.
Tịa án có thể tun có hay khơng có di chúc trong trường hợp khơng thể hiểu rõ
nội dung di chúc. Nếu Tịa án tun là khơng có di chúc, thì tồn bộ di sản sẽ được
chia theo pháp luật
(ii) Trong trường hợp có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp
“Di chúc được lập hợp pháp chưa hẳn sẽ phát sinh hiệu lực khi người lập di
chúc chết, nhưng chắc chắn rằng để di chúc phát sinh hiệu lực vào thời điểm mở
thừa kế thì di chúc đó trước hết phải là di chúc hợp pháp”14. Một di chúc sẽ được
coi là không hợp pháp nếu di chúc không đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã được quy
định tại Điều 630 BLDS 2015 như đã trình bày ở mục trên và những điều kiện
chung của một giao dịch dân sự theo Điều 117 BLDS 2015 sẽ bị coi là di chúc
không hợp pháp. Riêng đối với điều kiện về nội dung, di chúc sẽ bị coi là vơ hiệu
tồn bộ nếu tồn bộ nội dung vi phạm điều cấm. Khi đó di chúc này sẽ khơng có
hiệu lực pháp luật nên khơng làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc. Toàn bộ
di sản được áp dụng thừa kế theo pháp luật trong trường hợp tất cả những người
thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ
quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế.
(iii) Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc
Trường hợp tồn bộ những người có trong di chúc chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người để lại di chúc thì tồn bộ di sản sẽ được chia theo pháp luật.
Tuy nhiên đối với trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc
12
Khoản 1, Điều 642 BLDS 2015.
Điều 648, BLDS 2015.
14
Lê Minh Hùng (chủ biên) (2015), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế,
NXB. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr 319.
13
11
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì chỉ phần di sản liên
quan đến họ mới được áp dụng thừa kế theo pháp luật để giải quyết.
(iv) Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản
Pháp luật tơn trọng ý chí của người để lại thừa kế, trong việc chỉ định người
được hưởng di sản thừa kế của mình. Tuy nhiên muốn trở thành người thừa kế theo
di chúc cần pháp đáp ứng các điều kiện mà luật định, trong đó có điều kiện: khơng
thuộc một trong những trường hợp khơng có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 621 BLDS 2015. Những người này đáng lẽ được hưởng di sản thừa
kế theo di chúc nhưng lại thực hiện hành vi đã quy định tại khoản này nên sẽ không
được hưởng di sản, trừ trường hợp người để lại di sản đã biết hành vi của những
người đó những vẫn cho họ hưởng theo di chúc.
Cá nhân có quyền tự định đoạt, tự do thể hiện ý chí của mình là một trong
những nguyên tắc chi phối xử sử của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự trong
đó có quan hệ thừa kế. Pháp luật khơng những bảo đảm cho người thừa kế được
hưởng di sản của mình, mà cịn bảo đảm cho người thừa kế có quyền từ chối hưởng
di sản. Pháp luật không bắt buộc người hưởng di sản phải nhận di sản thừa kế nếu
bản thân họ khơng muốn nhận phần di sản đó “Người thừa kế có quyền từ chối
nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản của mình đối với người khác”15.
Phần di sản liên quan đến người đã từ chối sẽ được áp dụng chia theo pháp
luật cho những người thừa kế khác. Vì thế, khi người này từ chối hưởng di sản theo
di chúc họ vẫn có thể hưởng thừa kế theo pháp luật. Nhưng trong trường hợp họ đã
từ chối tồn bộ quyền hưởng di sản thì tồn bộ phần di sản này sẽ chia theo pháp
luật cho những người thừa kế khác của người lập di chúc.
Một phần di sản thừa kế đƣợc chia theo pháp luật
(i) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
Nếu người để lại di sản chỉ định đoạt một phần di sản của mình trong di chúc,
thì phần cịn lại sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế thuộc diện
hưởng và hàng thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp một người đã được hưởng
di sản theo di chúc, mà cũng nằm trong hàng thừa kế theo pháp luật, thì người này
vẫn được hưởng di sản theo pháp luật, trừ trường hợp người lập di chúc chỉ rõ
người này chỉ được hưởng phần di sản đã được lập trong di chúc.
15
Khoản 1, Điều 620, BLDS 2015.
12
(ii) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật
Tuỳ theo từng trường hợp mà xác định mức độ vô hiệu của di chúc. Di chúc
có thể bị vơ hiệu tồn bộ nhưng có thể bị vơ hiệu một phần, nếu phần vơ hiệu đó
khơng ảnh hưởng đến phần cịn lại của di chúc. Trong những trường hợp này phần
di sản liên quan đến phần di chúc có hiệu lực vẫn được chia theo di chúc. Chỉ áp
dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản liên quan đến phần di chúc khơng
có hiệu lực.
(iii) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
khơng có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo
di chúc, nhưng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
1.2 Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Bộ luật Dân sự 2015
1.2.1 Khái niệm về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Theo như phân tích ở mục trên, di chúc là sự thể hiện ý chí tự do, tự nguyện,
phản ánh ý chí đơn phương của người để lại di sản cho những người thừa kế. Ý chí
đó cần được tơn trọng và thực hiện sau khi người lập di chúc chết. Tuy nhiên, quyền
tự do của cá nhân không phải tuyệt đối mà phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật,
“quyền tự định đoạt của người để lại di chúc khơng thể mang tính tuyệt đối”16. Quy
định trên một mặt pháp luật tơn trọng ý chí của người để lại di sản, mặt khác hạn
chế quyền tự do định đoạt của người này để bảo vệ quyền được hưởng thừa kế cho
một số đối tượng mà khi cịn sống họ có nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc, những
người này được gọi là những “Thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc” hay
còn gọi là thừa kế bắt buộc.
Chế định pháp luật về “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” lần
đầu tiên được quy định tại Thông tư 81 ngày 24 tháng 7 năm 1981 của Tòa án Nhân
dân tối cao ,“Người lập di chúc phải dành lại một phần tài sản cho những người
thừa kế bắt buộc (nếu có). Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng
góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao
động, bố mẹ già yếu và túng thiếu. Phần di sản phải dành lại cho mỗi người thừa kế
bắt buộc, ít nhất là 2/3 suất của thừa kế theo luật. Nếu di chúc truất quyền thừa kế
của người thừa kế bắt buộc hoặc phần dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít
hơn 2/3 suất thì phải trích chia cho đủ 2/3”17.
16
17
Kiều Thanh, (1996), Quyền tự định đoạt của người lập di chúc, Tạp chí luật học, tr. 57.
Phần III, thông tư 81/TANDTC, ngày 24 tháng 07 năm 1981.
13
Phát triển từ quy định của Thông tư 81 trong quy định của Pháp lệnh Thừa kế
năm 1990 cũng có quy định về nội dung này một cách ngắn gọn hơn: “Trong
trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như
di sản được chia theo pháp luật”18. Pháp lệnh cũng thay cụm từ “phần tài sản cho
những người thừa kế bắt buộc” thành “những người được hưởng di sản không phụ
thuộc vào nội dung di chúc”.
Sau Pháp lệnh thừa kế, BLDS 1995, BLDS 2005 và BLDS 2015 cũng quy
định về vấn đề này. Cụ thể, theo BLDS 2015: “Những người sau đây vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu
di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động”19.
Qua từng thời gian đoạn, từng thời kỳ và cùng với sự phát triển về kinh tế - xã
hội, chế định về “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” luôn được sửa
đổi, bổ sung, khắc phục những bất cập của những quy định trước để phù hợp với
từng giai đoạn của xã hội.
1.2.2 Vai trị của chế định thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc
Mục đích của quy định về “Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”,
nhằm bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ, vợ, chồng, con của người để lại di sản trước
những quyết định bất lợi đối của người để lại di chúc không cho họ hưởng di sản,
do ý chí của người lập di chúc không phù hợp với đạo lý, bởi người Việt Nam ta
sống vốn coi trọng tình nghĩa, “một ngày cũng là đạo nghĩa phu thê”, “một giọt
máu đào hơn ao nước lã”. Đây đều là những người có mối quan hệ thân thiết gần
gũi nhất với người để lại di sản. Trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng
cha mẹ, ngược lại, cha mẹ phải nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc các con
đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động để tự ni sống bản thân; vợ
chồng phải yêu thương, giúp đỡ lần nhau trong cuộc sống, giữa những người này
ngoài nghĩa vụ pháp lý họ cịn có các nghĩa vụ về đạo đức với nhau.“Ở một xã hội
mà các giá trị đạo đức đang ngày càng xuống cấp như Việt Nam hiện nay, sự gắn
bó giữa các thành viên trong gia đình ngày một lỏng lẻo, thì nhiệm vụ của pháp luật
khơng chỉ nhằm bảo vệ tài sản thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào đó, mà cịn
18
19
Điều 20, Pháp lệnh Thừa kế, năm 1990.
Điều 644, BLDS 2015.
14
phải góp phần duy trì, cải thiện những mối quan hệ tình cảm giữa các thành viên
trong gia đình”20. Do đó, pháp luật quy định trong trường hợp này, họ phải được
hưởng một kỷ phần nhất định từ di sản của người đã chết.
Cả phương diện pháp lý cũng như đạo lý đều quy định rằng: việc chăm sóc,
ni dưỡng những người này là bổn phận của người để lại di sản. Bổn phận ấy
không chỉ được thực hiện khi người để lại di sản còn sống, mà ngay cả khi họ chết
đi thì bổn phận ấy sẽ vẫn tiếp tục được thực hiện bằng việc người để lại di sản để lại
một phần tài sản của mình cho cha, mẹ, vợ, chồng con cái của họ.
Nếu những người này, vì một lý do nào đó mà khơng thực hiện hoặc thực hiện
khơng đầy đủ bổn phận của mình thì pháp luật bằng những quy định của mình sẽ ấn
định cho những người có quan hệ gần gũi với người này luôn được hưởng một phần
di sản từ khối di sản của người đó để lại, để bảo đảm quyền lợi chính đáng, bảo đảm
sự ổn định đến đời sống của một số thành viên trong gia đình, củng cố tình thương
u, đồn kết trong gia đình, thể hiện đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1.2.3 Chủ thể hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc
“Hơn nhân và gia đình – đó là những hiện tượng xã hội mà luôn luôn được
các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của
gia đình, cịn gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hịa
lợi ích của mỗi cơng dân, Nhà nước và xã hội”21. Chính vì vậy, những người được
hưởng di sản thừa kế bắt buộc sẽ là những người có mối quan hệ xoay quanh mối
quan hệ gia đình ràng buộc về mặt huyết thống, mặt hôn nhân và nuôi dưỡng đối
với người để lại di sản.
Cha, mẹ của ngƣời để lại di sản
“Theo luật định, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con dựa
trên sự kiện sinh đẻ (huyết thống) và sự kiện nhận nuôi con nuôi”22. Cha mẹ bao
gồm cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Cha mẹ nuôi phải là cha mẹ nuôi hợp pháp phải
phù hợp với các quy định về cha, mẹ nuôi và con nuôi theo quy định của pháp luật
Hơn nhân và Gia đình.
Theo Luật HN&GĐ 2014 con cái “có bổn phận u q, kính trọng, biết ơn,
hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia
20
Vũ Đức Hùng (2015), Hướng dẫn sửa đổi quy định về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong
bộ luật dân sự năm 2005 – Tạp chí Khoa học pháp lý, số (4-6)/2015, tr.54
21
TS. Nguyễn Văn Cừ (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, , NXB. Công an
nhân dân, tr.5
22
TS. Nguyễn Văn Cừ (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, , NXB. Công an
nhân dân,, tr.163
15
đình”23. Việc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ được xem là nghĩa vụ bắt buộc của
mỗi người con trong gia đình. Nếu khơng may con cái chết trước cha mẹ thì con cái
sẽ khơng thực hiện được nghĩa vụ chăm sóc, khơng làm trịn bổn phận của mình với
cha mẹ được nữa. Khi đó, việc chia thừa kế của con cho cha mẹ được pháp luật quy
định là bắt buộc, cha mẹ sẽ được hưởng phần di sản của con mình để lại. Mục đích
của việc chia di sản của con cái cho cha, mẹ được xem như là sự hiếu thảo cuối
cùng của người con đối với cha, mẹ cũng như giúp cuộc sống cha, mẹ sẽ tốt hơn khi
về già khi khơng cịn khả năng lao động.
Vợ, chồng của ngƣời để lại di sản
“Cơ sở để xác lập quan hệ vợ chồng là tình yêu thương giữa nam và nữ. Khi
nam nữ yêu thương nhau, hiểu nhau, thơng cảm cho nhau... thì họ quyết định xác
lập quan hệ hôn nhân và trở thành vợ chồng của nhau. Khi đã trở thành vợ chồng,
tình cảm u thương đó vẫn được duy trì trong suốt thời kỳ hơn nhân. Đó khơng chỉ
là địi hỏi về pháp luật mà cịn là yêu cầu đạo đức”24. Vợ, chồng là mối quan hệ
gắn kết giữa nam dựa trên ý chí tự nguyện của cả hai nhằm xây dựng một gia đình
hạnh phúc và góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển bền vững. Pháp luật
Việt Nam bảo vệ mối quan hệ hôn nhân.
Dựa trên sự ảnh hưởng từ nền văn hố coi trọng tình nghĩa của Việt Nam, mối
quan hệ giữa vợ và chồng xuất phát từ nền tảng cơ bản là tình cảm và sự tự nguyện
gắn kết nên việc bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của các bên vợ chồng là
điều tất yếu. Trong đó có quyền được thừa kế di sản của nhau giữa vợ và chồng.
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất
mang tính hai chiều hay cịn gọi là “thừa kế đối nhau”, có nghĩa là khi bên kia chết
thì bên này có quyền hưởng thừa kế và ngược lại.
“Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người còn sống sẽ được
thừa kế tài sản của vợ hoặc chồng mình đã chết. Vợ chồng thuộc hàng thừa kế thứ
nhất theo luật cùng với cha, mẹ và các con của người chết. Ngồi ra vợ, chồng cịn
được thừa kế tài sản của nhau theo di chúc”25
Ngoài ra, nghĩa vụ của vợ chồng là phải thương yêu chăm sóc giúp đỡ lẫn
nhau, nên khi một trong hai người mất đi, thì việc để lại di sản thừa kế cho những
người này là điều phù hợp với đạo đức, để bảo vệ quyền và lợi ích của người cịn lại
23
Khoản 2, Điều 70 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014.
TS. Nguyễn Văn Cừ (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, , NXB. Cơng an
nhân dân, tr.138
25
TS. Nguyễn Văn Cừ (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, , NXB. Công an
nhân dân, tr.160
24
16
khi người kia mất đi, giúp cuộc sống của người còn lại được tốt hơn, cũng như phần
nào xoa dịu được nỗi đau của họ khi phải mất đi người thương yêu, góp phần xây
dựng và phát triển xã hội. Nên pháp luật quy định vợ hoặc chồng của người đã chết
sẽ được hưởng di sản của người đã chết theo trường hợp hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc.
Con của ngƣời để lại di sản
Cha mẹ có nghĩa vụ “Trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản riêng để tự ni mình”26. Khi
cha hoặc mẹ mất đi, những trách nhiệm và nghĩa vụ đó cũng khơng tồn tại nữa.
Việc những người cịn sống được hưởng di sản có thể được xem như một “nghĩa
vụ” cuối cùng của cha, mẹ. Việc pháp luật quy định về nghĩa vụ ni con của cha,
mẹ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên và con thành niên
nhưng khơng có khả năng lao động. Nhằm đảm bảo cuộc sống của con cái sau khi
cha hoặc mẹ mất, con sẽ được hưởng di sản của người chết mà không phụ thuộc vào
nội dung di chúc.
“Theo luật định, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái
dựa trên sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi con nuôi”27. Quan hệ thừa kế giữa
con cái và cha mẹ cũng là “quan hệ hai chiều”. Quan hệ này được xác định theo hai
căn cứ như sau: nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì những người có cùng một
dịng máu trong phạm vi hai đời liền kề nhau, và được pháp luật thừa nhận, khơng
phân biệt giữa con trong hay ngồi giá thú, đều được hưởng di sản do cha, mẹ mình
để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau thì cha ni, mẹ ni của một
người, đã nhận người đó làm con ni đúng theo quy định của pháp luật về nhận
con ni thì khi cha, mẹ ni chết người đó cũng sẽ được hưởng di sản thừa kế bắt
buộc.
Các con không phân biệt con đẻ, hoặc con nuôi, con trong giá thú hay con
ngoài giá thú đều thuộc diện thừa kế bắt buộc, nếu thuộc các trường hợp:
(i) Con chưa thành niên: Là con chưa đủ tuổi thành niên tính từ thời điểm bắt
đầu mở thừa kế. Pháp luật quy định chia một phần di sản bắt buộc cho con chưa
thành niên cho dù khơng có tên trong di chúc, đã thể hiện tinh thần nhân văn, coi
trọng tình nghĩa của pháp luật nước ta, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ chưa
26
Khoản 2, Điều 69 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014.
TS. Nguyễn Văn Cừ (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, , NXB. Cơng an
nhân dân, tr.163.
27
17
thành niên. Khi được hưởng di sản của người đã mất sẽ giúp các con chưa thành
niên có cuộc sống tốt hơn khi khơng có sự quan tâm, chăm sóc từ cha hoặc mẹ nữa.
(ii) Con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động: Hiện nay, trong BLDS
2015 khơng quy định cụ thể thế nào là “khơng có khả năng lao động”. Trong các
bộ luật liên quan như Luật Lao động 2012 có nhắc đến “khả năng lao động”,
“Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc
theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử
dụng lao động”28, nhưng cũng chưa giải thích rõ về thuật ngữ “khơng có khả năng
lao động” là gì. Để việc xác định như thế nào là “con đã thành niên mà khơng có
khả năng lao động”, thì pháp luật nước ta cần có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ
thể về vấn đề này. Nhằm bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử và
bảo vệ con đã thành niên mà không có khả năng lao động sau khi cha hoặc mẹ
chúng chết đi.
1.2.4 Điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc
Điều 644 BLDS 2015 đã quy định những chủ thể được hưởng phần di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia
theo pháp luật như đã trình bày tại mục 1.2.3, nhưng khơng phải tất cả các chủ thể
nêu trên đều được hưởng một suất thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc,
mà phải xem xét tình trạng hưởng thừa kế và các điều kiện được hưởng thì khi đó
những người là cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà
khơng có khả năng lao động sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế tối thiểu bằng
hai phần ba một suất thừa kế theo quy định của pháp luật.
Cũng giống như những người thừa kế hợp pháp khác của người để lại di sản,
chủ thể thuộc trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc phải
tuân thủ các điều kiện các yêu cầu của một người thừa kế:
Thứ nhất, không từ chối nhận di sản theo Điều 620 BLDS 2015: “Người thừa
kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”29. Vì một lý do nào đó,
người được nhận di sản thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc từ chối việc
hưởng di sản của người đã mất, khi từ chối nhận di sản thì sẽ mất quyền nhận di sản
thừa kế, vì đây là quyết định của người nhận di sản, nên cho dù họ có thuộc trường
hợp thừa kế bắt buộc thì họ vẫn khơng được nhận di sản. Nhưng, người từ chối
không được từ chối nhận di sản đối với trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh
28
29
Khoản 1, Điều 3, Luật Lao động 2012.
Khoản 1, Điều 620, BLDS 2015.
18
việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người khác như nghĩa vụ trả nợ, bồi
thường thiệt hại, trả thù lao trong hợp đồng dịch vụ... Trong các trường hợp này,
pháp luật buộc họ phải nhận di sản để thanh tốn các khoản nợ mà người đó phải
thực hiện đối với người khác.
Thứ hai, không thuộc các trường hợp khơng có quyền nhận di sản quy định tại
Điều 621 BLDS 2015:
“Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành
vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm của người đó”. Người không được hưởng di sản phải là người
bị kết án bằng một bản án có hiệu lực của Tịa án về hành vi cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản.
“Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng là nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng người để lại di sản khi cịn
sống. Trên thực tế pháp luật khơng quy định thế nào là hành vi vi phạm nghiêm
trọng. Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Có thể hiểu quy định về
hành vi vi phạm nghiêm trọng là khi người có nghĩa vụ chăm sóc người để lại di sản
có đủ khả năng, điều kiện thực hiện nghĩa vụ, nhưng lại cố tình khơng chăm sóc
ni dưỡng, đã dẫn đến tình trạng sức khỏe, tinh thần của người để lại di sản bị
giảm sút.
“Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng”. Một người có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác,
và bị kết án bằng một bản án với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc tồn bộ di sản
mà người thừa kế đó có quyền hưởng, thì người này cũng khơng có quyền hưởng di
sản.
“Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.
Trường hợp này có thể dẫn đến di chúc vô hiệu, không áp dụng chia thừa kế bắt
buộc cho những người này, kể cả chia theo pháp luật thì họ cũng khơng có quyền
được hưởng di sản. Quyền tự định đoạt tài sản là một trong những quyền cơ bản của
chủ thể trong quan hệ thừa kế. Cho nên, những hành trên đi ngược lại quyền của
người để lại di sản, vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện của chủ thể trong quan hệ
thừa kế.
Những người trên đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có
những hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nên họ bị pháp luật tước đi quyền hưởng
19
thừa kế bắt buộc. Do đó, họ khơng cịn là người thừa kế theo pháp luật của người để
lại di sản. Tuy nhiên, pháp luật luôn tộn trọng và đề cao quyền tự quyết của chủ thể
để lại di sản. Do đó pháp luật có quy định: “Những người quy định tại khoản 1 Điều
này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những
người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”30.
Thứ ba, cá nhân còn sống, tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người
để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc khơng là cá nhân thì phải
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”31.
(i) Cá nhân cịn sống được hiểu là lúc mở thừa kế thì cá nhân đó phải cịn sống.
(ii) Tổ chức cịn tồn tại là tại thời điểm mở thừa kế, tổ chức đó cịn tồn tại, vẫn
đang hoạt động bình thường, chưa tun bị Tịa án tun bố phá sản thì vẫn được
hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật.
(iii) Pháp luật cũng quy định về việc chia thừa kế cho thai nhi đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết theo quy định tại Điều 613 BLDS 2015, thì cũng được
xem là người được hưởng thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Khi đáp ứng được các điều kiện nói trên, thì những người là cha, mẹ, vợ,
chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động
thì mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng hai phần ba một định suất thừa
kế theo quy định của pháp luật.
Mỗi trường hợp chia thừa kế, sẽ có những tình trạng hưởng thừa kế khác nhau.
Vì vậy, ta cần phải xem xét tình trạng hưởng thừa kế của họ như sau:
Thứ nhất, trường hợp di chúc khơng có hiệu lực tồn bộ, thì tồn bộ di sản sẽ
được chia theo pháp luật. Khi đó, sẽ khơng cịn di sản chia theo di chúc, và vấn đề
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc khơng được đặt ra, tồn bộ di sản sẽ
được chia theo pháp luật, do đó những người thuộc diện hưởng thừa kế bắt buộc
theo quy định tại Điều 644 sẽ được hưởng di sản với tư cách là người thừa kế theo
pháp luật, toàn bộ di sản sẽ được chia theo pháp luật và họ sẽ được hưởng trọn một
suất thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, đối với trường hợp di chúc có hiệu lực một phần, thì phần di sản chia
theo di chúc sẽ bị giảm do phần di chúc khơng có hiệu lực. Ngoài ra, di sản chia
theo di chúc cũng sẽ bị giảm cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội
30
31
Khoản 2, Điều 621, BLDS 2015
Điều 613, BLDS 2015.
20
dung di chúc nếu họ chưa hưởng đủ hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật của
mình. Nhưng, nếu như những người thừa kế bắt buộc đã được hưởng đủ một suất
thừa kế bắt buộc từ phần di chúc có hiệu lực một phần kia thì phần di chúc khơng
có hiệu lực cịn lại sẽ được chia theo pháp luật.
Thứ ba, trường hợp di chúc có hiệu lực tồn bộ, mà người để lại di sản cho
những người phụ thuộc vào nội dung di chúc hưởng đủ hai phần ba suất của một
thừa kế bắt buộc vào nội dung di chúc của mình. Thì lúc này, quyền và lợi ích của
những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đã được
đảm bảo. Vì vậy, sẽ không phát sinh trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc. Phần di sản thừa kế theo di chúc sẽ được giữa nguyên theo đúng sự
định đoạt của người để lại di chúc.
Thứ tư, trường hợp di chúc có hiệu lực tồn bộ, mà người lập di chúc không
cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hưởng di sản, hoặc tuy có
cho nhưng lại cho hưởng ít hơn hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật. Thì
khi phân chia di sản, sẽ chia phần di sản cho những người đã được định đoạt trong
di chúc. Sau đó trích ra từ phần của những người thừa kế theo di chúc để bù thêm
cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, để bảo đảm
quyền và lợi ích của họ.
1.2.5 Cách xác định kỷ phần bắt buộc của người được hưởng di sản không
phụ thuộc vào nội dung di chúc
“Kỷ phần” là từ cổ xuất hiện từ lâu trong các quy định của luật La Mã. Có thể
thấy rằng, pháp luật La Mã ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện đến hệ thống dân sự
Việt Nam, trong đó có pháp luật về thừa kế. Hiện nay, trong các bản án về thừa kế
từ “kỷ phần” vẫn được sử dụng rộng rãi.
Thực tế khi áp dụng Điều 644 BLDS 2015 để đảm bảo quyền và lợi ích của
một số người trong diện hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, thì
cịn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định được hai phần ba của một suất thừa kế
bắt buộc.Vậy làm thế nào để xác định hai phần ba của một suất?
Muốn tính được hai phần ba một suất thì trước hết phải tính được một suất là
bao nhiêu? Nhưng vấn đề là hiện nay, vẫn chưa có các văn bản dưới luật chuyên
biệt nào hướng dẫn chi tiết áp dụng điều luật này. Có nhiều quan điểm khác nhau
trong việc xác định hai phần ba của một suất, dẫn đến hậu quả là việc xác định sai
phần di sản được hưởng của người thừa kế bắt buộc, do đó khơng bảo vệ được
quyền lợi của người thừa kế theo ý chí của người để lại di sản và cả người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc.