Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NH ĐT&PT NAM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.56 KB, 30 trang )

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NH ĐT&PT
NAM HÀ NỘI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHTM
1.1.1. Khái niệm - đặc điểm NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế .Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng , trong đó ngân hàng thường chiếm
tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng trong
nền kinh tế hiện nay
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế , đặc biệt là chính sách tiền tệ ,
vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn
định kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một loại tổ chức có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng . Vậy mà
vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân
hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện
trong nền kinh tế. Vấn đề là chỗ không chỉ chức năng của ngân hàng đang thay
đổi mà chức năngcủa đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không
ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính- bao gồm cả các công ty
kinh doanh chứng khoán, các công ty môi giới chứng khoán, các quỹ tương hỗ
và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố giắng cung cấp các dịch vụ của ngân
hàng. Ngược lại ngân hàng cũng đối phó với đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài
chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động
sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ
tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét tngân hàng trên phương
diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp . ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.


Ngân hàng là tổ chúc thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế– xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho
toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ
gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước, tỉnh, thành phố …) đối với các
doanh ngiệp , ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho
việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy , mua sắm trang thiết bị .Khi
doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá
và dịch vụ, họ thường sủ dụng séc, uỷ nhiệm chi , thẻ điện tử hay tài khoản
điện tử…và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính , họ
thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của
ngân hàng do chính phủ (thông qua mua các chứng khoán của chính phủ) là
nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phat triển
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một tổ chức tài chính tham gia nhiều hoạt động cung cấp
cho công chúng và doanh nghiệp trong đó một số hoạt động chính của ngân
hàng như sau:
a). Vốn chủ sở hữu :
Để bắt đầu hoặt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất
định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sủ dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị,
nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành nguồn vốn này
rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu năng lực tài chính của ngân hàng ,yêu cầu và sự
phát triển.
Nguồn vốn hình thành ban đầu tùy theo tính chất của ngân hàng mà nguồn
gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước,
ngân sáh nhà nước cấp , nếu là ngân hàng cổ phần các cổ đông đóng gióp tthông qua
cổ phần hay cổ phiếu . Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng gióp.
Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc về sở hữu tư nhân.
Nguồn bố sung trong qúa trình hoạt động: trong qúa tình hoạt động, ngân

hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể .
+) NguỒn tỪ lỢi nhuẬn : Trong điỀu kiỆn thu nhập ròng lỚn hơn không
chỦ ngân hàng có xu hướng gia tăng vỐn cỦa chỦ bẰng cách tích luỹ mỘt
phẦn thu nhẬp ròng thành vỐn đầu tư. TỶ lỆ tích lŨy tùy thuỘc vào cân nhẮc
cỦa chỦ ngân hàng vỀ tích lŨy và tiêu dùng. NhỮng ngân hàng lâu năm, thu
nhẬp ròng lỚn, nguỒn vỐn tích lŨy tỪ lỢi nhuẬn sẼ cao so vỚi vỐn cỦa chỦ
hình thành ban đầu.
+) Nguồn vốn từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
qui mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng
vốn của chủ do NHNN qui định… đặc điểm của hình thức huy động này là không
thường xuyên, song lại góp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào
lúc cần thiết
Các quỸ: Ngân hàng có nhiỀu quỸ . mỖi quỸ có mỤc đích riêng.trước
tiên là quỸ dỰ phòng tỔn thẤt, quỸ này được trích lẬp hàng năm và dược tích
lŨy lẠi nhẰm bù đắp hao mòn cỦa vỐn dưới tác động cỦa lẠm phát. QuỸ
thẶng dư là phẦn đánh giá lẠi tài sẢn cỦa ngân hàng và chênh lỆch giữa thỊ
gía và mỆnh gía cỔ phiẾu khi phát hành cỔ phiẾu mỚi. Tuy theo quy định cỤ
thỂ cỦa tỪng nước, các ngân hàng có thỂ có các quỸ phúc lỢi khen thưởng,
quỸ giám đốc…
NguỒn vay nỢ có thỂ chuyỂn đổi thành cỔ phẦn: các khoẢn vay trung
và dài hẠn cỦa NHTM mà có khẢ năng chuyỂn đổi thành vỐn cỔ phẦn có
thỂ coi là mỘt bỘ phẬn vỐn chỦ sỞ hỮu cỦa ngân hàng do nguỒn này có
một sỐ đặc điỂm như sỬ dỤng lâu dài, có thỂ đầu tư vào nhà cỬa đất đai và có
thỂ không phẢi trẢ khi đến hẠn trẢ
b). Nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Nguồn tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất đối
với NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các
tài khoản tiền gửi để gĩư và thanh toán hộ cho khách hàng, bằn cách đó ngân
hàng đã huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi là

nguồn quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia
tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền chất lượng ngày
càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác
nhau.
Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc của cá nhân gửi
vào NH để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép ,
các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện.
Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được nhập vào tiền
gửi thanh toán theo yêu cầu ,nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp thay
vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí
thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng, thủ tục làm
rất đơn giản. yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh
toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh
toán và tài khoản cho vay. Một số ngân hàng sử dụng nhiều “biến tướng” của tài
khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ
chức tín dụng khác.
Tiền gửi có kỳ hạn: nhiều khoản thu cố định của doanh nghiệp và dân cư
sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện
cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu
của người gửi tiền. Ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi kỳ hạn (có kỳ hạn và
không kỳ hạn) người gửi thanh toán không được sử dụng các hình thức thanh
toán đối với tiền gửi thanh toán đối với loại tiền gửi này. Khi cần chi tiêu người
gửi phải đến ngân hàng để rút tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được
hưởng lãi suât cao hơn tuỳ theo độ dài kỳ hạn.
Đối với dân cư . các tầng lớp dân cư có các khoản thu nhập tạm thời chưa
sủ dụng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối
với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng
nhiều tiền tiết kiệm ngân hàng cố giắng làm thay đổi thói quen giữ vàng và tiền
mặt tại nhà của dân cư bằng cách mở rộng mạng lưới huy động. đưa ra các hình
thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn ngân hàng có thể mở cho

mọi người tiết kiện nhiều chương mục tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi
khác nhau sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song
có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. tuy nhiên
qui mô nguồn này thường không lớn.
c. Nguồn vay và các nghiệp vụ đi vay cảu NHTM
tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM tuy nhiên, khi cần ngân
hàng thường vay mượn thêm, NHNN thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy
động và vốn chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay
mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế
Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong
chi trả của NHTM . Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay
mượn NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu, các
thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần
tiền , ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN.
Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN
điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ: NHTM phải thực hiện các điều
kiệm bảo đảm và kiểm soát nhất định. Trong trường hợp chưa có thương phiếu ,
NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất
định.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Đay là nguồn vay mượn lẫn nhau và vay
của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng
đang có đự trữ vượt yêu cầu do có số dư tăng bất ngờ về các khoản tiền huy
động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìn
kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay
mượn túc thời để đảm bảo thanh khoản. như vậy nguồn vay mượn từ các ngân
hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường
hợp nó thay thế cho khoản vay mượn từ NHNN. Các khoản vay có thể không
chế chấp hoặc chế chấp bằng các chứng khoán kho bạc. Kết quả là dự trữ của

ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân
hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Rất
nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng
được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn
nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung
và dài hạn. thông thường các khoản vay không có bảo đảm. Các ngân hàng có
uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ
thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này: họ thường vay thông qua các
ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn
còn phụ thuộc vào tình độ phát triển của thị trường tài chính tạo điều kiện
chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. ghiệp vụ vay mượn
tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy
mô mệnh giá và thời hạn vay mượn thích hợp…
Các nguồn khác: bao gồn nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, uỷ
nhiệm thu, chuyển tiền,ký gửi…
d. Các phương thức sử dụng vốn
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro
trong hoạt động có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình
trạng khó khăn về tài chính của ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho
vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: quản lý yếu kém, cho vay
không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình
trạng suy thoái ngoài dự kiến. Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi ta thấy thanh
tra ngân hàng thường xuyên kiểm tra cẩn thận danh mục cho vay của ngân hàng.
đồng thời quá trình này cũng bao gồm việc đánh giá tính hiệu quả của chính
sách tín dụng mà NH đang theo đuổi nhằm bảo vệ tiền gửi của công chúng
Theo điều 3 quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001: cho vay là
hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có

hoàn trả cả gồc và lãi.
NH cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa
dạng trong mục đích vay vốn của khách hàng từ việc mua sắm tiêu dùng , học
tập cho đến kinh doanh sản xuất. Chúng ta có thế sắp xếp danh mục cho vay rất
đa dạng của NH bằng cách theo mục đích sử dụng vốn vay. Và chúng ta có thể
chia các khoản cho như sau:
Cho vay tiêu dùng.
Cho vay kinh doanh bất động sản.
Cho vay đối với tổ chức tài chính.
Cho vay hỗ trợ nông nghiệp và các khoản khác dành cho nông dân.
Cho vay kinh doanh.
Tài trợ cho thuê.
Các khoản cho vay khác…
Phương thức cho vay là tổng hợp các cách tính toán cho vay, thu nợ dựa
vào tính chất và cách xác định đối tượng cho vay. Việc áp dụng phương thức
cho vay nào là phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh và nhu cầu về vốn của đối
tượng xin vay. Một phương thức cho vay khoa học phải đảm bảo được nguyên
tắc tín dụng đồng thời phải theo sát quy trình chu chuyển của vốn vay.
Trên thế giới hiện nay, các tổ chức tín dụng sử dụng rất nhiều phương
thức cho vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lý các tổ chức. ở Việt
Nam, các phương thức cho vay được quy định trong quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước. Trong quyết định này có quy định các phương thức cho vay của các
tổ chức tín dụng như:
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực
hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.

+ Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự
án đầu tư phục vụ đời sống.
+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ
chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng
tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
+ Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ
theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức
tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm
vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt tại
máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi
cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải
tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng
thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài
khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán.
+ Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với
các quy định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín
dụng và đặc điểm khách hàng vay.

e. Các hoạt động khác của NHTM:
Ngoài các nghiệp vụ trên NHTM còn có nhưng hoạt đông như bảo lãnh,
trung gian tài chính, công cụ thực thi các chính sách tìên tệ của NHNN khi xảy
ra lạm phát hay NHNN muốn tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng ra thị trường.
Để bắt kịp sự phát triển của thị trường hiện nay các ngân hàng còn liên doanh
liên kết, đầu tư vào các doanh nghiệp hay mở các công ty để sản xuất kinh
doanh…
Đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế: Visa, Master card, séc du lịch….
Thực hiện dịch vụ ngân quỹ: Thu đổi ngoại tệ, chi trả tiền vốn, cung ứng
tiền mặt.
Kinh doanh ngọai tệ.
Thực hiện bảo lãnh: Bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, thanh toán,
chất lượng…
Thực hiện các dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong và ngoài nước.
Thực hiện các dịch vụ của ngân hàng điện tử và ngân hàng đối ngoại.
Thực hiện các dịch vụ của ngân hàng bán lẻ như: ATM, POS,
Homebanking…
1.2 HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NHTM
1.2.1 Khái quát về hoạt động bảo lãnh của NHTM
Trong nền kinh tế hiện đại để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội
về các loại hình hàng hoá, dịch vụ hoạt động thương mại đã diễn ra mạnh mẽ.
Các giao dịch kinh tế như trao đổi, mua bán, vay mượn, cam kết thực
hiện hợp đồng kinh tế đang diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức phong
phú.Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hoá, hoạt
động thương mại đã vượt qua biên giới một nước. Doanh nghiệp thu được lợi
ích to lớn từ hoạt động thương mại như: lợi nhuận, mở rộng quy mô nhưng bên
cạnh đó doanh nghiệp còn phải đối mặt với rủi ro ngày càng nhiều, mức rủi ro
ngày càng cao như rủi ro về kinh tế, chính trị, rủi ro thông tin không cân xứng,
rủi ro không thực hiện hợp đồng, rủi ro chất lượng sản phẩm kém, rủi ro thanh
toán, rủi ro đạo đức. Để hạn chế những rủi ro này, doanh nghiệp cần phải thu

thập thông tin khoa học rồi lựa chọn đối tác kinh doanh an toàn nhất. Nhưng khi
đó chi phí doanh nghiệp phải tự bỏ ra để tìm hiểu khách hàng là quá lớn, mất
thời gian và để có đầy đủ thông tin về bạn hàng có thể sẽ mất đi cơ hội kinh
doanh. Do đó, nền kinh tế đòi hỏi phải có một công cụ để hạn chế rủi ro và đảm
bảo cho các giao dịch thương mại diễn ra an toàn, tăng sự tin cậy giữa các đối
tác kinh doanh. Như vậy từ bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu có một sự
đảm bảo trong giao dịch dẫn tới hình thức giao dịch đảm bảo với biểu hiện là sự
đảm bảo của một bên thứ 3, có đủ tư cách và năng lực để dàn xếp, đảm bảo uy
tín, tạo tín nhiệm cho đối tác.
Bảo lãnh xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 60 như một dạng thư tín
dụng dự phòng. Khoảng những năm 70 Bảo lãnh được sử dụng trong các giao
dịch quốc tế. Vào thời gian này các quốc gia thịnh vượng nhanh chóng vì sản
xuất dầu hoả ở Trung Đông liên tục ký kết những hợp đồng kinh tế lớn để thực
hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh tân công nông nghiệp quốc
phòng. Giá trị rất lớn của các hợp đồng đòi hỏi phải có một sự đảm bảo chắc
chắn về phía đối tác khi tham gia vào giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do
ngân hàng phương Tây phát hành đã rhực sự đáp ứng yêu cầu về thuận lợi và an
toàn cho các quốc gia xuất khẩu.
Từ những năm 70 trở đi, phạm vi áp dụng và doanh số bảo lãnh ngày
càng tăng. Bảo lãnh không chỉ áp dụng trong giao dịch quốc tế mà còn cả với
hợp đồng ký kết trong nước, cả trong hợp đồng thương mại và giao dịch tài
chính, thuê mua, liên doanh. Bảo lãnh đã có mặt ở hầu hết các giao dịch lớn
trong phạm vi nội địa và quốc tế.
Năm 1981, tổng số cam kết bảo lãnh của các ngân hàng Mỹ là 49 tỷ.
Năm 1995, tổng số cam kết bảo lãnh của các ngân hàng Mỹ là 250 tỷ.
Số tiền cho một bảo lãnh ngày càng tăng.
Tại Việt Nam nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh phát triển từ đầu những
năm 90 nhưng do chưa có sự chỉ đạo thống nhất bằng văn bản pháp lý chặt chẽ
nên hoạt đồng bảo lãnh vẫn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Để khắc phục ngày 17/9/92 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành

quyết định 192/NH_QĐ về bảo lãnh, tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài nhằm đưa
hoạt động bảo lãnh vào thống nhất.
Ngày 16/9/04 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định
196/QĐ_NH về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh tạo ra cơ chế pháp lý tương đối
hoàn chỉnh cho nghiệp vụ bảo lãnh .
Ngày 25/8/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định
283/2000/QĐ_NH về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng để thay thế cho
các quy chế trước đây.
Ngày 11/2/2003 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định
112/2003/QĐ_NH về sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh ngân
hàng kèm quyết định 283.
Đến nay hoạt động bảo lãnh ngân hàng phát triển nhanh chóng, hình thức
ngày càng đa dạng, doanh số bảo lãnh ngày càng cao cho thấy tiềm năng phát
triển nghiệp vụ này, đặc biệt trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá.
1.2.2 Phát triển hoạt động bảo lãnh của NHTM
1.2.2.1. Khái niện bảo lãnh
Theo quan niệm và tập quán chung, bảo lãnh là sự cam kết của người bảo
lãnh đối với người hưởng bảo lãnh khi nhận được yêu cầu của người được bảo
lãnh sẽ cam kết đền bù trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện
các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình làm thiệt hại đến quyền lợi của bên thụ
hưởng.
Bảo lãnh thường xuyên xuất hiện khi một người muốn vay một khoản
tiền hoặc muốn tham gia một hoạt động nào đó nhưng chưa có đủ độ tin cậy đối
với đối tác của mình, do đó phải nhờ một người thứ ba có đầy đủ tài sản và uy
tín đứng ra đảm bảo.
Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam tại điều 366 định nghĩa: “Bảo
lãnh là việc bên thứ ba ( gọi là người bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ ( gọi là người được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ thông qua uy tín ngân hàng.

Thực chất là việc ngân hàng đưa ra cam kết dưới hình thức phát hành thư bảo
lãnh. Ngân hàng không phải xuất tiền cho bên được bảo lãnh khi phát hành thư
bảo lãnh nên nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng được coi là hình thức tín dụng gián
tiếp, được hạch toán và theo dõi ngoại bảng. Chỉ khi nào phát sinh nghiệp vụ trả
nợ thay hoặc đền bù các vi phạm phát sinh thì khoản tiền đó mới được đưa vào
hạch toán nội bảng và ghi nhận là một khoản vay mới của khách hàng.
Theo quan điểm này bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ”Tín dụng chữ
ký- Signature Credit”, là hoạt động không dùng đến vốn của ngân hàng. Bảo
lãnh ngân hàng được coi là một hình thức tín dụng gián tiếp và được coi là tài
sản ngoại bảng.

×