Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ca dao cổ truyền người Việt với tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.8 KB, 9 trang )

Ca dao cổ truyền người Việt với tính mơ hồ đa nghĩa
trên bình diện ngôn ngữ văn học



Nguyễn Hằng Phương


TS.Khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên


0. Ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu
ngôn ngữ từ nhiều góc độ đang trở thành nhu cầu tất yếu hiện nay. ở nước ta, có thể
nghiên cứu những vấn đề về lý thuyết ngôn ngữ học; những vấn đề về tiếng Việt và các
ngôn ngữ khác ở Việt Nam; những vấn đề về tiếp xúc ngôn ngữ và dịch thuật; những vấn
đề về dạy học tiếng Việt, tiếng nước ngoài trong và ngoài nhà trường; những vấn đề về
ngôn ngữ tác phẩm văn chương. Trong đó, tìm hiểu ngôn ngữ với tư cách là phương tiện
biểu đạt của tác phẩm văn chương là một góc độ nghiên cứu không mấy dễ dàng nhưng
cũng đầy thi vị.

Nghiên cứu tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học ở những lời ca dao cổ
truyền là vấn đề chúng tôi đặt ra trong bài viết này. Tuy nhiên, do đặc trưng thể loại và
trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ nghiên cứu những biểu hiện tiêu biểu của tính mơ
hồ đa nghĩa trong một số lời ca dao cổ truyền. Nghiên cứu đó nhằm mục đích nhận diện
tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ cùng vai trò của nó ở những lời ca dao cổ
truyền, làm tiền đề cho sự bình giá có cơ sở và sự tiếp nhận sâu sắc tác phẩm.

1. Khái niệm ca dao cổ truyền và tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật

1.1. Khái niệm ca dao cổ truyền


Thuật ngữ ca dao đã từng được dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau
"Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu" [5.26].
Và một thời "Ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong
dân gian có hoặc không có khúc điệu" [5.26]. ở trường hợp này, ca dao đồng nghĩa với
dân ca.
Trên thực tế, khái niệm ca dao đã dần dần có sự thu hẹp nội hàm.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam "dùng danh từ ca dao để chỉ
riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng
đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi).” [5.26]. Với nghĩa này, ca dao là bộ phận chủ yếu và quan
trọng nhất của thơ dân gian truyền thống.

Sau cách mạng tháng Tám (1945), giới nghiên cứu nước ta đã sử dụng tập hợp từ ca dao
mới (hay ca dao hiện đại) để phân biệt với ca dao cổ (còn gọi là ca dao cổ truyền). Như
vậy, ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là khái niệm chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn
từ của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) được sáng tác từ cách mạng
tháng Tám trở về trước. ở đây, phạm vi khảo sát của chúng tôi là một số lời ca dao cổ
truyền đã được sưu tập trong sách Kho tàng... [6].

1.2. Khái niệm tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật

Không phải đến tận bây giờ, tính mơ hồ đa nghĩa mới được biết tới. Từ xa xưa, người ta
đã quan tâm đến tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học nghệ thuật. Đó là cái "ý tại ngôn
ngoại" (ý ở ngoài lời của văn của thơ). Nhà triết học Đổng Trọng Thư đời Tây Hán đã
cho rằng thơ, kinh thi không thể giải thích được rõ ràng (thi vô đạt hỗ). Nhà thi thoại thời
Minh Tạ Trăn cũng chủ trương tả cảnh, thuật sự không nên giống như thực mà phải khác
lạ khiến cho người tiếp nhận có cảm giác mơ hồ, bí ẩn (diệu tại hàm hồ)...

Tuy nhiên, ngày nay khi tính tích cực, sáng tạo của người tiếp nhận được ý thức rõ rệt;
tính bản thể của ngôn ngữ văn học được phát hiện thì mơ hồ đa nghĩa - một thuộc tính

của văn học nghệ thuật - càng được đặc biệt coi trọng.

"Theo W.Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý định muốn biểu đạt
nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích"[8.151]. Vậy, tính mơ hồ đa nghĩa
trong văn học nghệ thuật có thể hiểu là một ý nghĩa không xác định, một hình thức thẩm
mỹ muốn biểu hiện nhiều loại sự vật, cho phép nhiều cách giải thích hình tượng nghệ
thuật.

2. Ca dao cổ truyền người Việt với tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn
học

2.1. Tìm hiểu tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học trong ca dao cổ
truyền là nghiên cứu văn chương dân gian theo cách tiếp cận mới

ở Việt Nam những năm qua, nghiên cứu ca dao đặc biệt là ngôn ngữ ca dao đã có nhiều
thành tựu. Xin đơn cử vài ví dụ. Tác giả Nguyễn Xuân Kính nghiên cứu một số yếu tố cơ
bản của chỉnh thể nghệ thuật ca dao trong đó chú ý đúng mức đến đặc điểm chung của
cách sử dụng và tổ chức ngôn ngữ, cách dùng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao. Tác giả
Mai Ngọc Chừ nghiên cứu về những đặc điểm riêng biệt độc đáo của ngôn ngữ ca dao
Việt Nam từ việc phân tích "những đặc điểm thơ" được tạo nên bởi các biện pháp tu từ,
cách ngắt nhịp, lối hiệp vần đến việc xem xét sự kết hợp nhuần nhuyễn tính chất bác học
và tính chất khẩu ngữ của ngôn ngữ ca dao Việt Nam. Tác giả Phạm Thu Yến nghiên cứu
một số yếu tố tiêu biểu trong thế giới nghệ thuật ca dao và đặc biệt đã chú ý đến lối miêu
tả và biểu hiện trực tiếp trong thơ ca dân gian.vv...

Như vậy, xác định sự có mặt và vai trò, vị trí của tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn
ngữ văn học trong ca dao vẫn còn là vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, thành tựu nghiên cứu
trước đó của các nhà khoa học thực sự là những gợi mở cần thiết giúp chúng tôi có cơ sở
để triển khai vấn đề nghiên cứu của mình. Song, tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ
thuật nói chung và trong ca dao nói riêng được xác định dựa trên cơ sở nào?


W.Empơxơn với công trình nổi tiếng Bảy loại ý nghĩa mơ hồ (1930) đã chỉ ra các loại ý
nghĩa mơ hồ (các hình thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa) trên cấp độ ngôn ngữ văn
học và mở ra một triển vọng nghiên cứu có cơ sở khoa học về vấn đề này. Theo tác giả
sách Lý luận và phê bình văn học , cách phân loại các ý nghĩa mơ hồ của W.Empơxơn
chưa thật rạch ròi, chặt chẽ, nhất quán song đã cho thấy tính mơ hồ đa nghĩa có nhiều
hình thức thể hiện và công trình khoa học trên của ông "thực sự là một kiệt tác mà bất kỳ
ai đọc xong đều không thể còn dừng lại với niềm tin cũ" [8.71].

Do trong thực tế, các loại ý nghĩa mơ hồ 6, 7 có phần như trùng lặp với các loại 2, 3, 4;
do đặc trưng thể loại và trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ nghiên cứu ba hình thức
thể hiện của tính mơ hồ là "Nói vật này mà như nói tới vật khác, vì giữa các sự vật ấy có
nhiều điểm giống nhau"; "ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ
cảnh cho phép"; "Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều thông".

2.2. Tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học trong ca dao cổ truyền

2.2.1. Khảo sát 3.481 lời ca dao cổ truyền được sưu tập trong sách Kho tàng... [6] để xác
định các loại ý nghĩa mơ hồ (hay nói cách khác là tìm các hình thức biểu hiện của tính
mơ hồ), chúng tôi thực hiện theo cách ngẫu nhiên đảm bảo cho sự nghiên cứu tương đối
khách quan khoa học

Đó là những lời ca dao được xếp theo trật tự chữ cái trong tập II bộ sách Kho tàng... Kết
quả thu được như sau:

2.2.1.1. Loại ý nghĩa mơ hồ có được khi "nói vật này mà như nói đến vật khác, vì giữa
các sự vật ấy có nhiều điểm giống nhau".
- Để tìm loại ý nghĩa mơ hồ này, chúng tôi khảo sát những lời ca dao có sử dụng một số
biện pháp tu từ tiêu biểu cấu tạo theo quan hệ liên tưởng gồm so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và
tượng trưng. Những biện pháp tu từ như điệp từ ngữ, chơi chữ, đồng nghĩa kép... không

nằm trong phạm vi khảo sát bởi chúng tôi quan niệm do cấu tạo theo quan hệ tổ hợp, các
biện pháp tu từ vừa nêu không có hoặc có rất ít khả năng tạo ý nghĩa mơ hồ.

Thí dụ 1:
397 (b) Người khôn như miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít nhưng mà ngon lâu
Người dại như củ bồ nâu
Đến khi khốn khó cơ cầu phải ăn.
CDTCM 272

Thí dụ 2:
307. Cây đa cũ bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng cồ
DCNTB I 188 HHĐN 216 HT 164 TCDG 61 VNP 7 214

Thí dụ 3:
65. Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em lạt, má đào em phai
HPV 117

Thí dụ 4:
684. Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngán
Mai trở về, mai nhớ trúc chăng
CDTCM 52

Bằng cách diễn đạt cụ thể và giầu hình ảnh, các biện pháp tu từ trên đã gợi được sự liên
tưởng phong phú và sâu sắc. Người tiếp nhận thực sự phải lựa chọn trong số những liên
tưởng phong phú, sâu sắc ấy một cách hiểu cho mình. Mơ hồ, đa nghĩa phát sinh từ đấy.
Chẳng hạn, ở thí dụ 1, miếng thịt gà, củ bồ nâu được ví với người khôn, người dại. Vị
ngon, dở của miếng thịt gà và củ bồ nâu ra sao cũng như dư vị cuộc sống khi ở với người

khôn, người dại thế nào là phụ thuộc vào sự liên tưởng tự do nhưng có cơ sở của người
tiếp nhận. ở thí dụ 2, lời ca dao như một sự nhắn gửi: khách qua đường có nghĩa thì nắng
mưa cũng chờ và nơi chờ đợi là “cây đa cũ, bến đò xưa”? Nhưng ở đây, lời nhắn gửi thật
bâng quơ, “tối nghĩa”: ai nhắn và chờ đợi với mục đích gì? “Cây đa cũ, bến đò xưa” là
một địa điểm có thật mà khách bộ hành đã dừng chân hay chỉ là một ẩn dụ chỉ địa điểm
quen thuộc có ý nghĩa nhất định với nhân vật trữ tình và người khách bộ hành? (Ngay cả
từ “nghĩa” và “nắng mưa” ở đây cũng rất mơ hồ, khó xác định...) Lời ca dao chỉ gồm hai
dòng lục bát mà có không ít dấu hỏi, bởi vậy, nó hàm chứa bao nhiêu cách liên tưởng
khác nhau. Sẽ không bao giờ là thỏa đáng nếu người tiếp nhận chỉ xác định một cách hiểu
duy nhất ở lời ca dao này. Dù vậy, mỗi lời vẫn là một thế giới nghệ thuật riêng biệt đòi
hỏi phải tiếp nhận, khám phá.

- Trong số 3.481 lời ca dao khảo sát có 1.511 lời sử dụng các biện pháp tu từ, chiếm
khoảng 43,4%. Cụ thể, số lời ca dao chứa biện pháp so sánh tu từ là 666 lời, chiếm
khoảng 44,1%; số lời ca dao chứa biện pháp ẩn dụ tu từ là 701 lời, chiếm khoảng 46,4%;
số lời ca dao chứa biện pháp hoán dụ tu từ và tượng trưng là 144 lời, chiếm khoảng
9,53% trong tổng số lời ca dao có sử dụng các biện pháp tu từ.

2.2.1.2. Loại ý nghĩa mơ hồ có được "do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh
cho phép"

- Loại ý nghĩa mơ hồ này xuất hiện khi mối quan hệ tổ hợp giữa các từ, các vế trong câu
không chặt chẽ và do sự cho phép của ngữ cảnh. Có thể xảy ra ba tình huống: thứ nhất,
quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ đó là ý thức nghệ thuật của chủ thể sáng tạo; thứ hai,
chủ thể sáng tạo buộc phải hạn định về số lượng câu chữ do sự chi phối của thể loại; thứ
ba, có thể do cả hai "nguyên nhân" ở hai tình huống trên. Theo sự phân tích của chúng
tôi, 1 số lời ca dao có chứa loại ý nghĩa mơ hồ này thường rơi vào tình huống thứ ba.

- Khảo sát 3.481 lời ca dao cổ truyền vừa nêu trên, chúng tôi thấy 350 lời có loại ý nghĩa
mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh mang lại, chiếm khoảng

10,05%.

Thí dụ:

5. Đã có một lượt thì thôi
Lượt này, lượt khác người đời khinh chê.
TCBD II 250TNPD I 111

ở lời ca dao trên, quan hệ tổ hợp giữa các từ không chặt chẽ(từ “lượt” thiếu định ngữ) gây
nên sự mơ hồ đa nghĩa.

2.2.1.3. Loại ý nghĩa mơ hồ xuất hiện khi "một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa
đều thông"

- Đây là loại ý nghĩa mơ hồ được tạo nên khi một phương tiện ngôn ngữ (ở cấp độ từ) có
hai nghĩa trong một văn cảnh cụ thể.
3,45%. Thí dụ:≈- Trong 3.481 lời ca dao khảo sát, chỉ có 120 lời chứaphương tiện ngôn
ngữ đa nghĩa này, chiếm

805. Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa.
ANPT 6a ĐNQT 102b HHĐN 54, 164 KSK 6b...

Từ "say sưa" trong lời ca dao trên có thể hiểu theo 2 nghĩa: say sưa vì rượu và say sưa cô
bán rượu...

Như vậy, trong số 3.481 lời ca dao khảo sát có tổng cộng 1.981 lời chứa các biểu hiện
của tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học, chiếm khoảng 56,9%.

2.2.2. Qua khảo sát những biểu hiện tiêu biểu của tính mơ hồ đa nghĩa trong ca dao cổ

truyền, chúng tôi có một số nhận xét:

2.2.2.1. Ca dao cổ truyền có những hình thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa. Hay nói
cách khác, trong ca dao cổ truyền có một số loại ý nghĩa

mơ hồ. Có thể đặt hình huống rằng những lời ca dao chưa khảo sát và cả những lời ca dao
còn tồn tại trong môi trường sinh hoạt của dân chúng chưa chắc đã có kết quả tương tự?
Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Song, cho dù như vậy thì nhận xét trên vẫn tồn tại, bởi
tỷ lệ cao, thấp của các loại ý nghĩa mơ hồ trong ca dao cổ truyền không phải là điều quan
trọng nhất. Điều quan trọng nhất là sự có mặt và vai trò của nó trong những lời ca dao cổ
truyền.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát ở trên vẫn là điều đáng lưu ý. Số lời ca dao cổ truyền có hình
thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa chiếm tỉ lệ không nhỏ khoảng 56,9%. Đó mới chỉ
là kết quả khảo sát biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa trong các lời ca dao cổ truyền trên
bình diện ngôn ngữ văn học. (Xem kết quả tổng hợp ở cuối mục 2.2.1.3). Trong đó, biểu
hiện thứ nhất của tính mơ hồ đa nghĩa chiếm khoảng 43,4%.(Xem kết quả thống kê ở
mục 2.2.1.1). Những hình thức biểu hiện khác của tính mơ hồ đa nghĩa trong ca dao cổ
truyền chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ khoảng 10,05% và 3,45% (Xem kết quả thống kê ở
mục 2.2.1.2 và 2.2.1.3).

×