Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Lịch sử mĩ thuật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 24 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA: LỊCH SỬ

----------

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: LỊCH SỬ MỸ THUẬT VIỆT NAM
Đề tài:

ĐẶC ĐIỂM MỸ THUẬT THỜI LÝ

Giảng viên hướng dẫn : Thầy Đàm Văn Thọ
Nhóm

: Trần Thị Thiên Chi
Phan Thị Diệu Kỳ
Nguyễn Xuân Vũ

Lớp

: 18CVNH03

Đà Nẵng, tháng 03 năm 2021

0


MỤC LỤC:
MỞ ĐẦU:..................................................................................................................2
NỘI DUNG:..............................................................................................................4


1.

Vài nét về bối cảnh lịch sử - thời Lý (1009–1225):......................................4

2.

Đặc điểm mỹ thuật thời Lý:..........................................................................5
2.1.

Nghệ thuật kiến trúc:..............................................................................5

2.2.

Nghệ thuật điêu khắc:...........................................................................11

2.3.

Nghệ thuật hội họa và đồ gốm:.............................................................17

KẾT LUẬN:............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO:......................................................................................22

1


MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử, đấu tranh dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã tạo
nên một nền mỹ thuật phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc.
Dựa trên những điểm tương đồng trong văn hóa các thời kì, từ những đặc điểm:
tinh thần, tư tưởng, trí tuệ vừa chung vừa riêng. Mà từ mỹ thuật nguyên thủy, đến

mỹ thuật phong kiến và tiếp đến sau này, dân tộc ta đã tạo nên những dấu ấn riêng
biệt mà không phải dân tộc nào cũng làm được. Khi nói đến mỹ thuật Việt Nam
một thời kì nào đó là phản ánh cuộc sống con người và cảnh vật q hương, trí tuệ
con người thời kì đó.
Qua một quãng thời gian dài của chế độ phong kiến Việt Nam, bởi nhiều đại cai
trị, do vậy mà mỹ thuật mỗi thời kì lại mang yếu tố triều đại khác nhau. Song trong
các triều đại đó, triều đại tồn tại lâu nhất và để lại một lịch sử mỹ thuật dày dặc
nhất, phải kể đến triều Lý với hơn 200 năm cai trị, và những điểm đặc biệt trong
mỹ thuật. Đã để lại những đặc sắc rất riêng, song lại có giá trị vơ cùng q giá
trong mỹ thuật Việt Nam.

2


NỘI DUNG:
1. Vài nét về bối cảnh lịch sử - thời Lý (1009–1225):
Nhà Lý hoặc Lý triều (để phân biệt với nhà Tiền Lý
của Lý Nam Đế), là một triều đại phong kiến trong lịch
sử Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Thái Tổ Thần Vũ
hồng đế Lý Cơng Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch
năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền
Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi
Nữ hồng đế Lý Chiêu Hồng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị
ép thối vị để nhường ngơi cho chồng là Trần Cảnh vào
(Phần lãnh thổ nước ta dưới thời Lý)
năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.
Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách
lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài
chục năm. Vào năm 1054, hoàng đế Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ
Việt thành Đại Việt, mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.

Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo, nhưng ảnh hưởng
của Nho giáo cũng rất cao, với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu
(1070) và Quốc tử giám (1076), và các khoa thi để chọn người hiền tài khơng có
nguồn gốc xuất thân là q tộc ra giúp nước. Về thể chế chính trị, đã có sự phân
cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên
quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm kinh đô, đổi
tên thành Thăng Long đã đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân
hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Những danh thần
như Lê Văn Thịnh, Bùi Quốc Khái, Doãn Tử Tư, Đồn Văn Khâm, Lý Đạo Thành,
Tơ Hiến Thành,...đã góp sức lớn về văn trị và chính trị, tạo nên một nền văn hiến
rực rỡ của triều đại nhà Lý.
Quân đội nhà Lý được xây dựng có hệ thống đã trở nên hùng mạnh, ngồi chính
sách Ngụ binh ư nơng, các Hoàng đế nhà Lý chủ trương đẩy mạnh các lực lượng
thủy binh, kỵ binh, bộ binh, tượng binh....cùng số lượng lớn vũ khí giáo, mác,
cung, nỏ, khiên và sự hỗ trợ công cụ công thành như máy bắn đá, những kỹ thuật
tiên tiến nhất học hỏi từ quân sự Nhà Tống. Việc trang bị đầu tư và quy mô khiến
quốc lực dồi dào, có đủ khả năng thảo phạt các bộ tộc man di ở biên giới, cũng như
quốc gia kình địch phía Nam là Chiêm Thành hay cướp phá thường xuyên, bảo vệ

3


thành cơng lãnh thổ và thậm chí mở rộng hơn vào năm 1069, khi Hồng đế Lý
Thánh Tơng chinh phạt Chiêm Thành và thu về đáng kể diện tích lãnh thổ. Quân
đội nhà Lý còn vẻ vang hơn khi đánh bại quân đội của Vương quốc Đại Lý, Đế
quốc Khmer và đặc biệt là sự kiện danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân đội đánh
phá vào lãnh thổ nhà Nhà Tống vào năm 1075, dẫn đến Trận Như Nguyệt xảy ra
trên đất Đại Việt và quân đội hùng mạnh của nhà Tống hồn tồn thất bại.
Nhà Lý cịn nổi tiếng về nghệ thuật với kinh đô Thăng Long phỏng theo mơ hình
kinh thành Trường An của nhà Đường và Khai Phong của nhà Tống, tạo nên một

quần thể kiến trúc vĩ đại và hoa lệ. Những hiện vật về mái ngói, linh thú trang trí
trên nóc mái và các loại gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ cao của các nghệ nhân
thời Lý. Con Rồng thời Lý được xem là hình tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo
hình đương thời, bên cạnh các tượng Phật lớn còn lại cho thấy tư duy đồ sộ của
người thời Lý là rất lớn. Ba trong 4 bảo vật của An Nam tứ đại khí là Tháp Báo
Thiên, Chng Quy Điền và Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm được tạo ra trong thời
đại nhà Lý. Cùng với sự sùng đạo Phật, những tinh hoa nhất của nghệ thuật thời Lý
đa phần đều thể hiện qua các bức tượng Phật, chùa chiền, phản ánh sự xa hoa tột
độ của Phật giáo thời Lý.
 Tiểu kết:
Tất cả mọi điều kiện xã hội đã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của mỹ
thuật thời Lý. Sự phát triển và ổn định của kinh tế, chính trị đều điều kiện đầu tiên,
quan trọng cho rất nhiều cơng trình kiến trúc được xây dựng. Trang trí trong các
cơng trình kiến trúc cung đình, phật giáo là các tác phẩm điêu khắc, hội hoạ phù
hợp được sáng tác.
Đất nước đã đi vào con đường xây dừng và tự chủ. Về mặt nghệ thuật tạo hình,
thời Lý cũng để lại nhiều tác phẩm kiến trúc, điêu khắc hội hoạ… có giá trị. Đồng
thời góp phần khẳng định phong cách mỹ thuật mang đậm đà bản sắc dân tộc vẫn
được duy trì và ngày càng rõ nét.
2. Đặc điểm mỹ thuật thời Lý:
2.1.Nghệ thuật kiến trúc:
Sau thời gian dài chống giặc phương Bắc, đến thời Lý là thời kì hịa bình tương
đối lâu dài của nước ta. Dân tộc ta bắt đầu đi vào ổn định và xây dựng đất nước.
Về mặt kiến trúc, phát triển mạnh cả hai thể loại: kiến trúc tôn giáo và kiến trúc thế
tục.
4


a. Kiến trúc thế tục:
Ở kiến trúc thế tục, đáng chú ý là những cơng trình thuộc về cung đình. Trong

đó nổi bật là thành Thăng Long.

Kinh thành Thăng Long được khởi dựng từ mùa thu năm 1010 đến mùa xuân
năm 1011 xong cơ bản, về sau được bổ xung vào năm 1029 và 1203. Với dấu tích
hiện cịn bờ đê và những đoạn thành cao, nối lại cho vòng thành khép kín dài trên
20km, được xây dựng ở vị trí trung tâm của đất nước nơi giữa đồng bằng, các núi
sông lớn đều chầu về, dễ dàng liên hệ với cả nước bằng đường bộ hoặc bằng
đường thuỷ, có thể tấn cơng hay phịng ngự đều thuận lợi, từng được khai thác từ
đầu thời đại đồ đồng và đến thế kỷ X đã trở thành trung tâm kinh tế – văn hố
“mn vật cực kỳ giàu tịnh đơng vui”.
Vịng thành đất đắp trên là giới hạn hoàn bộ kinh thành cũng là phòng thành
chống lụt và ngăn địch từ xa mới tới. Bốn phía có bốn ngơi đền thờ các vị thần bảo
hộ cho kinh thành: phía Nam có đền Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương là thần núi,
phía Tây có đền Voi Phục thờ Linh Lang đại vương là thần sông. Các thần núi, thần
sông là linh khí đất nước, và do đó Núi Sơng chính là biểu hiện củaTổ Quốc. Phía
Đơng có đền Bạch Mã thờ thần Ngựa Trắng là biểu trưng của mặt trời, được tiếp
nhận từ văn hố ấn Độ, phía Bắc có đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trần Vũ có
nguồn gốc từ văn hố Trung Hoa có tài trừ ma quỷ.
Bên trong phịng thành chia làm hai phần lồng nhau là Hồng thành và khu dân
cư ngăn cách bởi bức tường xây gạch, mở bốn cựa về bốn phía mang các tên nhằm
cầu phúc cho dân tộc: cửa Tường Phù ở phía đơng, cửa Quang Phúc ở phía tây, cửa
Đại Hưng ở phía nam và cửa Diệu Đức ở phía bắc. Trong hồnh thành, ngay lần
mới xây dựng đầu đã có trung tâm là điện Càn Nguyên làm nơi vua coi chầu, hai
bên phải trái có các điện Tập Hiền và Giảng Võ là nơi làm việc của vua. Phía sau
dựng điện Long An và Long Thuỵ làm chố nhà vua nghỉ ngơi, hai bên phải trái có
điện Nguyệt Minh và điện Nhật Quang.Phía sau là các cung Thuỷ Hoa và Long
Thuỵ để cung nữ ở. Năm 1029 làm lại điện Càn Nguyệt và bị sét đánh, đổi tên là
5



điện Thiên An, hai bên phải trái có điện Diên Phúc và Tun Đức, phía đơng có
điện Văn Minh và phía tây có điện QuảngVũ, hai bên có gác chng để dân kêu
việc thì đánh. Trước thềm rồng có lầu Chính Dương ở trên điện Phụng Thiên để
báo giờ giấc. Đằng sau xây điện Trường Xuân, bên trên có lầu Long Đồ để ngắm
cảnh. Giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân là dựng điện Thiên Khánh để vua
nghe chính sự. Đợt xây dựng năm 1203 xây một loạt cung điện ở phía tây tẩm
điện, có cả ao ni cá dưỡng ngư nước thơng với dịng sơng. Lần bổ sung này, các
cung điện được " chạm trổ trang sức khéo léo, cơng trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa
từng thấy" ( Việt sử lược). Trong Hồng thành cịn có đài Chúng Tiên lợp ngói
vàng và ngói bạc, có chùa Hưng Thiên với quả chuông bằng 310 lạng vàng, chùa
Vạn Tuế, chùa Chân Giáo ... và nhiều hồ ao, vườn ngự để vừa tơn cảnh trí vừa điều
hồ khí hậu, đảm bảo mơi trường xanh, đẹp.
Ngồi Hồng thành là nơi sinh hoạt cảu đủ tầng lớp xã hội, về cơ bản cũng quy
hoạch theo bốn phía. Phía bắc có hồ Dâm Đàm ( Hồ Tây) là thắng cảnh nổi tiếng
với đền Đồng Cổ tổ chức hội Thề hàng năm, đền Quáng Thánh, cung Từ Hoa để
công chúa cùng các cung nữ trồng dâu ni tằm, có các làng hoa Nhật Chiêu, Nghi
Tàm, Quảng Bá cung cấp hoa cho kinh thành. Phía nam có phủ đệ của các thái tử,
hoang tử và quan lại, doanh trại của quân đội, Văn miếu và trường Quốc Tử Giám,
chùa Thắng nghiêm với lầu Thiên Phật và quả chuông 800 lạng bạc, đàn Xã Tắc để
cầu được mưa và đàn Hồn Khâu để tế giáo, có trường bắn để đua ngựa, bắn cung
và tập võ. Phía Đơng là nơi bn bán nhộn nhịp, có hồ Lục Thuỷ với tháp Báo
Thiên là đài chiến thắng, sông Hồng thường mở hội đua thuyền. Phía Tây là khu
nơng nghiệp, có 13 trại mới được khai thác, nhiều dinh thự trên những gò đồi, các
vua Lý thường tổ chức lễ mừng sinh nhật ở đây.
Khi thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông
To Lịch là con rồng vươn mình từ sơng Nhuệ, ngoi lên sơng Hồng đón ánh dương
và nhận nước, có rốn là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp vào hồ Trúc
Bạch và hồ Gia Ngư.
Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân bố
cân đối hai bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân ( sĩ – nơng – cơng – thng ) có

một khu vực hoạt động riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng cảnh và di tích,
nhiều sinh hoạt văn hố của triều đình.

6


b. Kiến trúc tôn giáo:
Đạo Phật được truyền vào nước ta từ khoảng đầu công nguyên. Sang thời Lý
đạo Phật nhanh chóng phát triển và trở thành tơn giáo chính, thu hút nhiểu tầng lớp
trong xã hội. Vua và quý tộc tôn sùng đạo Phật nên bỏ tiền ra xây dựng nhiều chùa
tháp thờ Phật.
Chùa:
Thời Lý dựng nhiều chùa nhưng khơng ngơi chùa nào cịn đến nay, một số ít chỉ
để lại nền móng ( như các chùa Phật Tích, Vĩnh Phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa
Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên, chùa Long Đọi ở Hà Nam... ),
số khác chỉ sót ít di vật (như chùa Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng và chùa
Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ở Thanh Hoá), chùa Một Cột ( Hà
Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể biết qua thư tịch và ý
đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là Đại – Trung
và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sở số ruộng và số người giúp việc nhà chùa, song
dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại:
- Chùa dựng trên một cột:
Sử cũ cho hay Thăng Long có “Lầu chng một cột, sáu cạnh, hình hoa sen”
trong điện Linh Quang, chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) có tồ sen trối lên mặt nước,
trong có tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên
Hựu tự được bia và sử cũ miêu tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang
bao quanh và cầu cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn
cách sen.
 Chùa Một Cột – Diên Hựu Tự:
Chùa Một Cột là một cơng trình kiến trúc độc đáo của dân tộc ta. Nó chứng tỏ

sự sáng tạo trong nghệ thuật kiến trúc. Chùa Một Cột ngày nay là ngơi chùa hình
vng, mỗi chiều 3m được dựng trên một cây cột có đường kinh 1,2m, cao 4m.
Chùa Một Cột xưa và nay đều xứng đáng là một trong nhiều tác phẩm tiêu biểu
cho Thăng Long – Hà Nội.
Đỉnh cột dựng ngôi chùa mang hình bơng sen là “y theo mưu mới, lại đưa vào
dấu tích xưa”. Dấu tích xưa là là kiểu nhà mái trịn khắc trên trống đồng Đơng Sơn,
là cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên cành cây ... Trên cơ sở đó đã sáng
tạo theo mưu mới là giấc mơ cảu vua Lý Thái Tông được Quan Âm dắt lên đài sen.

7


Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 20m, vậy ngơi chùa trên đó phải lớn và
tồn cảnh rất rộng.

- Chùa kiêm hành cung:
Loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé thăm, để lên chùa,
tổ chức cùng quân thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng cảnh, gần với núi
sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp phật để trải rộng lại
vươn cao.Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn
nước vừa tượng trưng cho vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường long, Long
Đọi, Chương Sơn.
 Chùa Phật Tích (Van Phục tự - xã Phượng Hoàng, huyện Tiền Sơn, tỉnh Bắc
Ninh):
Chùa được xây dựng năm 1057. Ngày nay chủa cổ khơng cịn. Trên nền chùa
xưa, năm 1991, một ngơi chùa mới khang trang, đẹp đẽ đã được dựng lên. Song
các lớp nền chùa và 39 cây tháp còn tồn tại đến ngày nay đã cho biết nhiều điều về
ngôi chùa được xây dựng vào thế kỉ XI, đời Lý. Chùa Phật Tích được xây dựng
dưới chân núi Phật Tích gắn với sự tích về cây tháp tháp cao và pho tượng Phật
trong lịng tháp.Trên nền tầng ba có 5 đơi tượng thú sắp thành hai hàng ngang đối

xứng nhau trước cửa chùa. Các tượng thú gồm: sư tử, voi, trâu, tê giác, ngựa.

8


Đầu thế kỉ XII chùa đã được dựng lại theo kiểu nội cơng ngoại quốc, song lại bị
phá hủy hồn tồn vào năm 1947 trước thời kì kháng chiến chống Pháp. Pho tượng
tuyệt đẹp của thời Lý bị lộ ra ngoài trời cùng mưa nắng. Mãi sau này, chùa mới
được dựng lại và tồn tại đến ngày nay.
- Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng:
Các bà Hoàng thương tham gia đóng góp, có thể dựng ở các sườn núi ( như
chùa Vĩnh phúc, chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi đầu làng
( như chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng n), mặt bằng khá rộng,
điều khắc khơng có hình rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử
đội toà sen mà dân gian gọi là “ông Sấm” gắn liền với việc cầu đảo cần cho nông
nghiệp lứa nước.
- Chùa làng:
Dựng ở cùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại ( như chùa Chèo ở Bắc Giang,
chùa Kim Hồng ở Hà Tây), quy mơ nhỏ, dấu vết cịn lại hiếm hoi, khơng được thư
tịch đề cập. Có thể lúc đầu đây chỉ là thảo am hay mái đá. Đơi khi có sự tham gia
cảu quy tộc nhưng ở miền núi khuất nẻo.
Kết hợp dấu tích cịn lại với thư tịch, ta thấy tháp thời Lý có quy mơ lớn, được
xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh ở danh lam tạo ra một tổng thể
kiến trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cấn đối, hồ nhập với mơi trường để hài hồ với
tự nhiên và nâng quy mơ lên nhiều lần. Những cơng trình này gắn với q tộc cũng
gắn với toàn dân, cầu chúc hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc.
Tháp:
Tháp thời Lý là đền thờ phật giáo, trong lịng có pho tượng Phật như tháp phật
Tích, tháp Chương Sơn, tháp Tường Long ... Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên
Đại Thắng Tư Thiêm lại mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời.


( Tháp trong chùa Phật Tích )

( Tháp trong chùa Báo Thiên )

9


Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện
vng, tầng dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng lên
cao càng thu nhỏ dần, theo những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều
cao tháp thường bằng chu vi chân tháp. Một số tháp đã khai quật có cạnh chân dài
từ 8m đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn 30 m đến hơn 70m, phù hợp
với tháp cảu BảoThiên được sử cũ ghi là cao vài mươi trượng và văn học xây dựng
thành hình tượng cột trụ chống trời. Nền móng tháp phải vững chắc, xây tường dầy
và dất cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá. Các tháp thờ Phật thường có số tầng lẻ
biểu thị sự phát triển, dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết thương là 5 – 7 – 9
thậm chí 13 tầng, riêng tháp đài Chiến thắng có số tầng chắn (12 hay 30 tầng) lại
biểu thị sự ổn định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tuỳ tháp mà thuần gạch, thuần
đá hoặc xem kẽ gạch với đá, cả đồng nữa, có cả tháp gốm men. Mặt ngồi tháp
được khắc rạnh, những hình rồng, vịng sánh đức phật. Những bộ phận nhơ ra được
gắn tượng người chim, và kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc.
Những cây tháp này hoà vào thiên nhiên mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh cảu
mọi người.
Như vậy, nhìn chung các cơng trình kiến trúc thời Lý ở cả hai lĩnh vực tôn giáo
và thế tục điều có quy mơ lớn. Các cơng trình kiến trúc thường được xây dựng ở
nơi có phong cảnh đẹp, có núi sơng phù hợp với thuyết phong thủy. Phần lớn đều
có bố cục cân xứng, hài hịa, tạo được cái đẹp tổng thể giữa cảnh trí thiên nhiên với
những gì con người dựng lên, phù hợp với quan niệm của nhà Phật. Bằng tài năng
và sự khéo léo, các nghệ nhân đã tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tạo hình có giá

trị trong kho tàng mỹ thuật cổ.
2.2.Nghệ thuật điêu khắc:
Cũng giống nhiều nền mỹ thuật cổ trên thế giới, ở mỹ thuật thời Lý có sự gắn bó
giữa các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, hội họa đi cùng với kiến
trúc chùa tháp, là các pho tượng Phật, tượng thờ, các chạm nổi trên gỗ, đá với
nhiều đề tài khác nhau, khá phong phú. Ở đây ta nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc
thời Lý qua một số tác phẩm còn được lưu giữ cho đến ngày nay.
a. Điêu khắc tượng:
Tượng phật:
Các pho tượng thường gồm hai phần: tượng phật và bệ tượng làm bằng đá. Tuy
vật phần bệ tượng đá thô hơn, hạt đá nổi rõ hơn so với đá làm tượng Phât. Toàn bộ
10


pho tượng như được quy vào trong hai khối nón chồng lên nhau, giữa hai khố đó là
tịa sen được tạo bở hai lớp cánh sen ngửa, nằm trong khối chỏm cầu. Bệ sen
thường nhỏ hơn một chút so với bệ rộng của pho tượng. Tất cả tạo cho pho tượng
có vẻ động, đối lập với dáng ngồi tĩnh nghiêm trang của Đức Phật. Tượng phật mặt
hơi cúi, miệng hơi mỉm cười. Vì vậy khi vào chùa, ngước mắt nhìn lên ta bắt gặp
Phật nhìn ta khuyến khích. Phật trở nên gần gũi, thân thiện và sống động hơn. Trên
chân dung là sự tập trung những nét điển hình đã được tổng kết trong dân gian:
Mặt trái xoan, mũi dọc dừa, lông mày lá liễu, mắt lá dăm. Miệng nhỏ, môi nở dày
mọng, đầy sức sống. Đôi mắt được tạc rất khéo như lim dim nửa mở, nửa khép,
bộc lộ sự suy tư và phát hiện được điều lí thú. Thân thẳng, mỏng. Đường nét, khối
khỏe, dứt khoát kết hợp với sóng áo nổi cao, mềm mại, lan tỏa gợi sự hài hòa, cân
đối giữa các yếu tố tĩnh – động, cứng – mềm. Dưới tòa sen là hai bậc cấp của bệ
bát giác được trang trí bằng các con rồng chầu lá đề. Dưới cùng là sáu tầng sóng
nước cách điệu cao, đường nét mềm mại, dày đặc tương phản với nét nổi cao,
thống, cách đều trang trí trên thân tượng.
 Tượng Phật chùa Phật Tích:


Pho tượng Phật chùa Phật Tích là tác phẩm quý giá của thời Lý để lại. Tác phẩm
đã thể hiện đức Phật theo tinh thần thẩm mỹ của người Việt. Do đó tượng mang
đặc điểm riêng biệt, khác với các pho tượng cùng loại ở các nước châu Á khác.
Tượng được biểu hiện là sự kết hợp hài hịa giữa hai yếu tố tơn giáo và hiện thực.
Ở tượng Phật chùa Phật Tích vừa có sự nghiêm trang sâu lắng trầm tư, lại vừa rất
phúc hậu, sôi nổi, tươi mát tràn đầy sức sống.
Tượng khác:
Ngồi những hình tượng được tạo ra mang tính hiện thực như đã kể trên, cịn
một số hình tượng được tạo ra từ những yếu tố thần thoại, tôn giáo…
Sau đây là các loại tượng phổ biến ở thời kì này:
11


- Tượng người chim:
Trong phế tích các tháp Phật Tích, Long Đọi và Chương Sơn đã tìm được một số
tượng người chim vốn xưa đậu trên những đấu chạc dưới các tâng mái. Đây là
nhân vật thần thoại, nửa trên là người nhưng ngồi đơi tay cịn thêm đơi cánh, nửa
dưới hoàn toàn là chim. ở Long Đọi, người chim đánh chũm choẹ, cịn ở Phật Tích
có người chim đánh trống cơm, có người chim gẩy đàn nguyệt. Là nhân vật thần
thoại song từng phần lại rất thực, hoạt động nghệ thuật sôi nổi, nét mặt tập trung
vào âm thanh cảu những nhạc cụ đang biểu diễn, đôi canh cũng như vỗ theo và
những túm lông đuôi uốn lượn bay lên mềm mại. Có thể xem đây là những nhạc
cơng thiên thần.

Pho tượng là sự kết hợp một cách hài hịa và hợp lí hai yếu tố: con người và
chim. Phần đầu, thân người với chiếc trống cơm trước ngược được gắn một cách
hữu cơ với phần thân, cánh, chân và đuôi chim. Chân dung mang vẻ phúc hậu, tĩnh
lặng rất quen thuộc với người Việt. Pho tượng được thể hiện đậu trên một đấu
vuông. Tác phẩm là sự kết hợp giữa yếu tố khối, trịn, đóng kín của điêu khắc với

yếu tố đường nét mềm mại, phong phu, trau chuốt của nghệ thuật chạm khắc trang
trí. Đây cũng là một đặc điểm vừa có sự kế thừa vừa thể hiện phong cách riêng của
thời Lý
- Tượng thú:
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội tồ sen mà dân gian gọi là “ơng
Sấm”, thì ở thềm tầng bậc thứ 2 của chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành
một hành ngang hai bên cửa đối nhau.
Ơng Sấm ở chùa Bà Tấm chỉ có phần đầu, hai
con đội chung một toà sen, ở thế nằm cao 1m,
rộng 1m36, cịn ở chùa Hương Lãng (Hưng n)
chỉ có một con chạm cả phần đi, dài 2m30 cịn

12

Mơ hình 3D tượng ông Sấm ở
chùa Bà Tấm


phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phủ phục đội tồ sen, trán có
chữ Vương là chúa rừng xanh. Ngồi những lơng xù cuộn xốy, dọc chân và quanh
mép cịn có hang hoa văn dấu hỏi tựa nhau, quang miệng có những bơng hoa nhiều
cánh, phần đi được trang trí rất kỹ, có lẽ do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do
ước vọng cần mưa nên địa phương gọi sư tử là “ơng Sấm”
Cịn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toả ra là sư tử – voi – trâu – tê giác
– ngựa, tất cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật
thiêng cảu thế giới nhà Phật.

Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần
thoại gần giống như người nhưng đươi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế,
thống nhất phong cách nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đề là những

con vật thực, từ con vật rất thân thuộc (trâu) đến những con vật hầu như khơng có
ở Việt Nam (sư tử) nhưng đều được chạm rất thực, khối hình to mập, dáng khoẻ
chắc, cso phần xa với phong cách Lý mà đến thời Trần mới phát triển.
b. Chạm khắc trang trí:
Các hình tượng hoa sen, hoa cúc, con rồng, sấu, sóng nước, nhạc cơng, vũ nữ,…
là những mơ típ chủ yếu trong chạm nổi trang trí của thời nhà Lý. Các hoa văn
trang trí thời Lý được cách điệu cao và thường được sắp xếp thành các đồ án trang
trí cụ thể trong hình trịn, hình lá đề… Mật đồ hoa văn trang trí dày đặc trên bề
mặt. Hình thường nhỏ li ti, đường nét mượt mà, trau chuốt, trang trí tỉ mỉ, chi tiết.

13


Hình Rồng:
Có một số con rồng rất lớn, thân đi ra dài vài mét ( như ở cột đá chùa Dạm, đế
bia chùa Long Đọi và chùa Chương Sơn, trong ao rồng cảu Phật Tích), song phần
lớn là những con rồng nhỏ dài mười phân nằm trong một số đồ án gọn xinh theo
các hình trịn, thoi, chữ nhật, lá đề, nửa lá đề ... nhưng luôn thống nhất về cấu tạo :
đầu to với bờm tóc mượt bay, răng nanh cuộn xoắn với mơi trên lại có thêm đường
viền thành chiếc mào phập phồng như ngọn lửa, mũi như đoạn vịi co dãn, lơng
mày cuộn vịng lên cả hai đầu và cạnh đó là hình trang trí chứ S không bao giờ
thiếu vắng, là dấu hiệu về nguồn nước.
Thân rồng tròn trịa, dài nhỏ, uốn thắt túi thoăn thoắt như chiếc lò xo ẩn tàng sức
bật mạnh, cứ thế thu nhỏ về đuôi, nếu không để ý đến chân thì khơng phân biệt
được thân với đi, dọc lưng có đường vây nhưng vảy cá và dưới bụng là dãy nếp
gấp như bụng rắn để dễ di chuyển. Rồng có 2 chân trước mọc lệch chố và 2 chân
sau mọc cùng chố, chân sau cũng dài hơn hẳn, chân nào cũng như múa rất dẻo, mỗi
chân có ba ngón với móng cong nhịn sắc như của chim. Một số người quên gọi là
rồng giun, nhưng ngay ở đương thời người xưa đã nhiều lần gọi là long xà tức là
rồng rắn, lấy con rắn làm cơ bản rồi thêm vào một số hoạ tiết khác, làm cho con

vật thần thoại mà thân thuộc như con vật thực. Nền rồng là mây trời nhưng cũng có
khí là hoa lá. Trong cấu tạo, con rồng có cả yếu tố âm và dương, nó lưỡng cư và
lương tĩnh, tuy đã gần với triều đình, nhưng về bao quát vẫn là con vật biểu trưng
nguồn nước, là chố dựa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước, cảu cư dân
gắn vận mệnh với sông nước, và phần nào cũng nhắc nhở nguồn gốc dân tộc và
con rồng cháu tiên. Hình rồng Lý là hình trạng trí đạm chất Việt Nam, có tiếp nhận
mộ số yếu tố văn hố Đơng Sơn và văn hố phương Nam, rất khác rồng Trung
Quốc trước và cùng thời với nó.
Trên các hiện vật điêu khắc đá và gốm còn truyền cho đến nay , các nhà khoa
học chỉ thấy rồng tạc dưới dạng phù điêu , không thấy chạm chìm và chạm trịn .
Đó là những con rồng thân trịn lẳng ,khá dài và khơng có vẩy , uốn khúc mềm mại
và thon dài từ đầu đến chân , rất nhẹ nhàng và thanh thoát . Các nhà nghiên cứu gọi
đây là rồng hình giun hay hình dây và điều đập vào mắt mọi người là nó mang hình
dạng của một con rắn .
Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên , miệng thì há to , mép trên của miệng
khơng có mũi , kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại , vươn lên cao ,vuốt nhỏ
dần về phía cuối . Một chiếc răng nanh mọc từ cuối hàm trên , uốn cong và vắt qua
14


vịi mép ở trên , có trường hợp răng nanh rất dài , uốn lượn mềm mại để vươn lên ,
hoặc với vòi lên bao lấy viên ngọc .

Thân rồng dài , dọc sống lưng có một hàng vẩy thấp tỉa riêng ra từng cái , đầu
vây trước tua vào hàng vây sau . Bụng là đốt ngắn như bụng rắn , có bốn chân ,mỗi
chân có ba ngón phía trước , khơng có ngón chân sau . Vị trí của chân bao giờ cũng
đặt ở một chỗ nhất định .Chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất , chân đối
xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn này . Hai chân sau bao giờ bao giờ cũng
ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba . cả bốn chân đều có khủy phía sau và có móng
giống chân lồi chim .

Nhạc cơng và vũ nữ:
Chùa Phật Tích có một số chân tảng đá kê cột của thời Lý được dừng lại, mặt
trên chạm thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mắt bên là bốn dàn nhạc
giống nhau.
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm
cao 13cm, người xưa tạo ra một khung hình cách
mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phái trên là
dải dấu móc tựa lưng nhau như cách hoa, cịn viền
phía dưới là dải song hai loại chồng chất như ở bệ
tượng Phật, giành ra khoang giữa dài 70cm cao
9,5cm để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vịng
sáng lá đề bên trong có vài bơng hoa như hoa cúc,
tất cả được đặt trên một bơng sen, hẳn là hình tượng
trưng cho đức Phật. Hai bên có mười nhạc cơng
chia đơi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vịng

15


sáng, động tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau,
từng cặp từ hai đầu vào giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và
sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp phách nở và chập. Từng người đều chân thấp
chân cao, mình uốn vặn ba khúc, từ búi tóc cao và cổ chân cịn tốt ra nhưng dải
lụa bay lượn nhịp nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các đường lượn của thân thể
trịn lẳn.
Bức chạm đơng người mà khơng che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ
lớn bằng nhau, ở đây như có cả tính dân chủ cơng đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ cịn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2
mặt giống nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt
trong chia ra các ô tam giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó

bức chạm phải để dốc 450 hình người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài
2m15, từng hình đều to, rõ và dáng chung như các nhạc cơng Phật Tích nhưng hai
tay đaư lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá sen cuộn trịn.
Hình hoa lá:
Trên nhiều mặt phẳng cảu kiến trúc
và của bệ tượng người xưa thường
chạm hoa lá theo từng băng dài, phần
lớp là cúc sen đan xen nhau. Dây hoa
với nhữg lá nhỏ toả về hai bên là chung
cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy
từng bơng hoa trịn. Hoa được cách
điệu nhưng có thể nhận ra sen và cúc,
có khi chỉ là hoa cúc nhưng nhìn góc độ khác nhau, đều lớn như nhau. Hai loại hoa
này thường được gán cho hai tính chất thanh cao ( sen) và ẩn sĩ ( cúc), song trong
văn hố tâm linh nó cịn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở
thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng cảu trời đất, nó coi thường
cả uy của sương và sự lấn của tuyết.
Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí
dương. Cịn sen ở nước,cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu
yếu tố âm, gợi hình mặt trăng. Hình chạm hai thứ hoa này đan xen nhau cịn là sự
hồ hợp âm dương để tạo phúc cho cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống
hoa thường có hình người bé tí trèo sống động.

16


Cùng với kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc thời Lý đã khá phát triển và để lại
nhiều tác phẩm có giá trị đến ngày nay. Qua các tác phẩm điêu khắc đã bộc lộ khả
năng tạo khối, trình độ tư duy thẩm mĩ, tư duy hình tượng cao. Nghệ thuật thời Lý
mang tính cách điệu cao, hình khối, đường nét mềm mại, uyển chuyển với tính

hiện thực sống động. Các hoa văn trang trí đều được cách điệu từ hình trong tự
nhiên song ở trình độ cao, các nghệ nhân đã biến hoa lá, sóng nước, con người…
thành các họa tiết, các đồ án trang trí độc đáo, đầy chất sáng tạo. Điêu khắc thường
gắn với kiến trúc phù hợp tạo ra một tổng thể hồn chỉnh, mang tính nghệ thuật
cao. Tất cả đã tạo cho mỹ thuật thời Lý phát triển một cách hoàn thiện, chắc chắn
và mang một phong cách riêng, độc đáo.
2.3.Nghệ thuật hội họa và đồ gốm:
a. Hội họa:
Trang thời Lý cách ngày nay rất xa, thường vẽ trên tường vách của cơng trình
kiến trúc, một số tranh độc lập có thể vẽ trên gỗ hoặc giấy, vải nên rất khó bảo
quản và bảo dưỡng. Tường đổ, nhà cháy, nấm mốc, nắng mưa .... do con người và
thời tiết gây ra đã cướp đi tất cả. Tuy nhiên, qua thư tịch có thể chút ít về tranh, và
một phần hình vẽ trên gốm có thể cho biết thêm yếu tố hội hoạ đương thời.
Thư tịch xưa cho hay các vua Lý “ở trên lầu bốn tầng .... Tất cả cung điện ở
Thăng Long đều sơn son, cột vẽ rồng, hạc và tiên nữ”. Các chùa lại càng hay dùng
tranh vẽ để trang trí và giáo dục Phật tử. Chùa Phật Tích có “cung sơn điện vẽ san
sát trong núi” có “cung Quảng vẽ hoạ nhi hồng” có “góc cao vẽ sao ngưu và sao
đẩu sáng láng”. Nếu những hình vẽ trên chủ yếu để trang trí, thì ở một số chùa
khác lại mang rõ ý nghĩa giáo dục, chẳng hạn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn
( Thanh Hoá) dựng khi khánh thành chùa cho biết: “Quang tường thuê vẽ dung
nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương, cùng với mọi hình tướng biến hố mn
hình vạn trạng không sao kể xiết”.
Với nho giáo, Nhà nước ngay khi xây Văn Miếu đã cho vẽ chân dung 72 người
học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử để các sĩ tử noi theo. Chữ Hán với bố cục khối
vuông, được viết đẹp cũng là những bức trang chữ thuộc loại " thư hoạ". Thư tịch
cho biết vua Lý Nhân Tông " viết bút lông rất khéo, chữ như rồng múa phượng
lượn, phép theo tay nghọc của ngài như chim loan vịng, chim thước nhảy". Trong
thời gian ở ngơi, nhà vua đã nhiều lần đi thăm các chùa và viết chữ ban cho để
khắc vào bia.
17



Nhưng hình vẽ trên đều đã mất, nhưng trên gốm men ngọc của thời này cịn giữ
được một số hình khắc chìm, tức vẽ bằng vật cứng khi xương gốm mới làm xong,
sau đó tơ men và nung.
b. Đồ gốm:
Hình vẽ trên gốm thời Lý khá phong phú với nhiều đề tài hoa lá, chim mng,
thú… Các hình vẽ được đơn giản hoặc cách điệu đôi chút cho phù hợp với hình
dáng, tỉ lệ của đồ gố. Nét vẽ, mảng màu rất thống, hoạt, khơng gị bó. Ban đầu các
nghiên cứu cho thấy thời Lý có hai loại gốm: Loại thứ nhất là gốm men ngọc, màu
xanh xám trong suốt được trang trí khắc chìm hoặc khơng có hình trang trí. Vẻ đẹp
của gốm chính là ở dáng, hình. Loại thứ hai là gốm hoa nâu. Đây là gốm phủ men
vàng và vẽ hoa văn trang trí màu nâu trang nhã.
Về sau khi các nhà khảo cổ tìm kiếm và phân tích các mẫu hiện vật ở Hồng
Thành đã xác định thêm nhiều loại gốm khác nhau. Lúc này họ xác định rằng Thời
Lý đã sản xuất gốm men trắng, gốm men trắng ánh xanh, gốm men ngọc, men
xanh lục, men vàng và hoa nâu.

(Nắp hộp men xanh lục thời Lý được
tìm thấy tại khu di tích Hồng thành
Thăng Long)

- Gốm men trắng Lý: có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã
đạt tới trình độ sứ.
Thời Lý còn sản xuất loại gốm rất đẹp là gốm “ảnh thanh” (Gốm trắng xanh) (hay
gốm trắng có ánh xanh). Trước đây chưa bao giờ có ai nghĩ là ở Việt Nam có sản
xuất loại gốm này bởi độ tao nhã và tinh tế của sắc men trắng ánh xanh phủ lên
trên những đồ án hoa văn hết sức mềm mại.
Loại gốm này vốn là một dòng gốm rất cao cấp của Trung Quốc thời Tống Nguyên. Nó cũng được xuất khẩu sang Nhật Bản, Việt Nam. Giờ đây chúng ta đã
tìm thấy những mảnh bát đĩa ảnh thanh Việt Nam có loại hình và hoa văn như gốm

trắng. Đó là đóng góp tuyệt vời của gốm Lý.

18


- Gốm men ngọc Lý: Men ngọc Lý phổ biến có màu xanh ngọc sắc đậm, xương
gốm trắng đục, đanh mịn và có nhiều điểm khác biệt so với gốm thời Trần về kỹ
thuật tạo chân đế.
- Gốm men xanh lục Lý (vert glazed): hoa văn trang trí đẹp với các đề tài hoa lá,
trong đó có những đồ tinh xảo trang trí hình rồng. Ở giữa trang trí nổi hình một con
rồng uốn 18 khúc nằm trong vịng trịn, xung quanh là dải văn mây hình khánh với
dải đi lượn mềm mại, diềm ngoài cùng là dải văn chấm tròn nhỏ.
Do được tạo nổi và đan xen là các lỗ trịn trổ thủng, nên men dồn đọng khơng đều
và tạo nên những mảng màu xanh đậm nhạt khác nhau trông rất sinh động. Sự tinh
mỹ và cách thể hiện hình rồng trên nắp hộp này tương tự như hình rồng chạm trên
đố đá trịn trang trí trên Tháp Chương Sơn (Nam Định) có niên đại Lý (1107).
Ngồi ra, gốm men xanh lục cịn được trang trí khá nhiều trên đầu ngói ống và các
lá đề trang trí hình rồng, một số đĩa bát có in hình hoa cúc.
- Gốm men vàng Lý: có sắc vàng tươi rực rỡ. Cùng với men lục, gốm men vàng Lý
cũng đạt tới đỉnh cao mà ta khơng cịn gặp lại sắc độ men như vậy ở các thời sau
đó trên đồ gốm. Men vàng thời sau chủ yếu là thấy trên một số loại ngói được dùng
trong kiến trúc Hồng cung thường gọi là Hoàng lưu ly.
- Gốm hoa nâu Lý: là sản phẩm độc đáo và đặc sắc nhất của gốm Việt Nam. Gốm
hoa nâu Lý trong Hồng thành Thăng Long có chất lượng cao, đặc biệt là các loại
vò, chậu, thạp trang trí hoa sen, dây lá, ở đây có các loại thạp lớn trang trí rồng .
Bên cạnh đó cịn có nhiều loại gốm nhỏ như nắp hộp, lọ nhỏ hay bát, đĩa trang trí
rồng, hoa sen dây theo lối nền tô men nâu, hoa văn men trắng với đường nét chạm
- khắc uốn lượn mềm mại, tinh xảo. Có thể thấy rằng Thăng Long thời Lý là nơi
sản xuất đồ gốm hoa nâu đầu tiên và được dùng trước hết trong Hồng cung.
Qua các hình vẽ trên đồ gốm cũng phần nào cho chúng ta hiểu được nét vẽ, cách

tạo hình của các nghệ sĩ thời Lý. Tất cả đều có sẵn trong đầu, khi cần thiết là được
bộc lộ ra theo tình cảm, theo bàn tay tài nghệ khéo léo của các nghệ sĩ. Rất đáng
tiếc là không tìm được các tác phẩm tranh vẽ của thời Lý. Tuy nhiên như vậy cũng
khơng có nghĩa hội họa khơng phát triển. Nhưng tất cả chỉ là dự đoán suy luận một
cách logic trên cơ sở của các tư liệu, do đó cũng khơng thể đi sâu như điêu khắc
hay kiến trúc được. Tin rằng, với thời gan, điều kiện tốt hơn, những trang vàng
nghệ thuật hội họa sẽ được viết tiếp, bổ sung và hoàn chỉnh hơn lịch sử mỹ thuật
thời Lý nói riêng và của cả thời phong kiến nói chung.

19


 Tiểu kết:
Hơn hai trăm năm tồn tại, xây dựng và phát triển, thời Lý đã sáng tạo và để lại
nhiều di vật quý giá, khẳng định sự tồn tịa của một nền mỹ thuật dân tộc đã bắt đầu
định hình và khởi sắc. Nền mỹ thuật thời Lý đã phát triển tương đối hồn thiện các
loại hình nghệ thuật. Trong đó có kiến trúc, điêu khắc, hội họa, trang trí phát triển
đạt trình độ cao và gắn bó với nhau thành một tổng thể hồn chỉnh.
Nhìn chung ta có thể rút ra các đặc điểm nổi bật sau:
- Các cơng trình kiến trúc thời Lý có quy mơ lớn nhất là kiến trúc thuộc về Phật
giáo. Các cơng trình này thường được xây ở nơi có cảnh thiên nhiên rất đẹp. Nhiều
chùa thời Lý như chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Đọi, chùa Bà Tấm,.. đều được
xây ở nơi có núi, có nước thanh tịnh. Kiến trúc đã hịa với thiên nhiên thành một
tổng thể rộng lớn, khiến ngôi chùa nhỏ, thấp nhưng đã trãi ra mênh mang với đất
trời. Những cây tháp trong chùa cịn có kích thước lớn hơn rất nhiều so với chùa,
tháp có nhiều tầng và nhỏ dần về phía ngọn. Vì vậy khi nhìn lên ta thấy tòa tháp
hòa với trời mây, nối cõi trần với cõi phật, đưa ý nguyện của con người lên với
đấng tối cao (Đức Phật).
- Kiến trúc và điêu khắc thời Lý thường được bố cục một cách chặt chẽ, cân xứng
hài hòa và hướng và trọng tâm, chủ đề của tác phẩm. Điều này đã được chứng

minh qua các tác phẩm cụ thể. Các tác phẩm này đều gắn với hình tượng hoa sen
thanh cao, tinh khiết, hồn toàn phù hợp với quan niệm của nhà Phật. Mỹ thuật
thời Lý phát triển ở cả Mỹ thuật cung đình và Mỹ thuật Phật giáo. Trong đó Mỹ
thuật Phật giáo là tiêu biểu. Chùa, tháp thời Lý có quy mơ lớn. Điêu khắc thời kì
này gắn liền với kiến trúc, vì vậy chắc chắn cũng phải có kích thước phù hợp với
quy mơ chùa. Các hình tượng điêu khắc điều bắt nguồn từ thực tế thiên nhiên, con
người sinh động. Vì vật mỹ thuật thời Lý vừa mang tính tơn giáo, chính thống vừa
mang tính hiện thực. Tất cả hịa quyện vào nhau tạo ra nhiều tác phẩm đẹp. Trong
nghệ thuật tạo hình đã hình thành được phong cách riêng, mang theo đặc điểm tinh
thần dân tộc. Hay nói cách khác, với nội dung tôn giáo, nghệ sĩ thời Lý đã tìm
được hình thức thể hiện giàu chất hiện thực và dân tộc.
- Mỹ thuật thời Lý hướng tới sự hồn thiện, mẫu mực trong đường nét, khối hình.
Hoa văn nhỏ, dày đặc. Phần lớn trên bề mặt của tác phẩm điêu khắc, kiến trúc đều
có hình trang trí dày đặc, nhất là trong điêu khắc. Hoa văn trang trí được cách điệu
cao, sắp xếp trong bố cục hình trịn, vng, hình vng nhọn đầu. Tất cả đều được
bố cục tạo thành những đồ án trang trí thống nhất về phong cách suốt hơn hai trăm
20


năm tồn tại của triều Lý. Về phong cách thể hiện, mỹ thuật thời Lý mang tính tơn
giáo, chính thống nhiều hơn dân gian. Đồng thời trong mỹ thuật thời Lý cịn kết
hợp nhuần nhuyễn hai tính chất tơn giáo thần bí với tính chất vương quyền, q
tộc. Hay nói một cách khác mỹ thuật thời kì này phục vụ chủ yếu cho cung đình và
tơn giáo (Phật giáo). Tuy vậy do đặc điểm của triều Lý, của quan niệm Phật trong
tâm, gần gũi trong tâm linh con người nên Mỹ thuật thời kì này cũng rất gần gũi
với đời sống làng xã, cộng đồng dân cư. Mặc dù trong phong cách chưa thể hiện sự
đơn giản của tính chất dân gian.
- Mỹ thuật nói chung và hội họa nói riêng phục vụ cho quan niệm của nhà Phật.
Ngoài ra các tác phẩm cịn bộc lộ tình cảm u q hương, đất nước, hướng mọi
người tới sự mẫu mực, lí tưởng hóa, khuyến khích việc thiện, răn đe giáo dục con

người…

21


KẾT LUẬN:
Nhìn chung, mỹ thuật thời Lý có thể coi là giai đoạn mở đầu cho lịch sử mỹ
thuật thời đại phong kiến dân tộc tự chủ và phát triển. Nó khơng những phát triển
nhanh chóng mà cịn tạo ra được phong cách độc đáo, sáng tạo đậm đà bản sắc văn
hóa Đại Việt. Trên cơ sở tiếp thu chọn lọc các ảnh hưởng của văn hóa láng giềng.
Sự phát triển một cách vững vàng của mỹ thuật thời Lý sẽ tạo điều kiện, cơ sở cho
mỹ thuật phát triển đi lên và hồn thiện các thời kì sau.
Các thành tựu của mỹ thuật thời Lý đã để lại cho đời sau nhiều giá trị to lớn.
Một trong những giá trị nổi bật, tiêu biểu của mỹ thuật thời Lý chính là Hồng
thành Thăng Long, đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới.
Song trãi qua thời gian dài tồn tại, những hiện vật còn lại đang ngày càng mai
một dần, nền tảng và sự hiện diện của mỹ thuật thời Lý cũng giảm bớt. Chúng ta
cần tìm cách bảo tồn đồng thời phát huy những giá trị to lớn của mỹ thuật thời kỳ
này nói riêng và nền tảng mỹ thuật Việt Nam nói chung.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Phạm Thị Chính (2013), Lịch sử mĩ thuật Việt Nam, NXB Đại học sư
phạm.

2.


Phan Ngọc, “Mỹ thuật thời lý”, />
3.

“Nghệ thuật Việt Nam thời Lý”, Bách khoa từ điển mở, Wikimedia.

4.

Phan Thi, “Mỹ thuật Việt Nam thời Lý – Trần”, Phanthi.vn.

5.

“Sơ lược về mĩ thuật thời Lý (1010 - 1225)”
/>
6.

“Hình tượng Rồng thời Lý”, Hội Mỹ thuật Việt Nam.
/>ong/2010/10/2542.html

23



×