Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI MỘT SỐ NHỮNG KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.66 KB, 24 trang )

1
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI MỘT SỐ NHỮNG KIẾN NGHỊ
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động huy động vốn của các
ngân hàng thương mại.
2.1.1. Những quy định chung về hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
thương mại
Trong các văn bản pháp luật hiện hành, không có nhiều các quy định về hoạt động huy động
vốn của các ngân hàng thương mại. So với các nghiệp vụ khác của ngân hàng, chẳng hạn như các
hoạt động tín dụng, thì số lượng các quy phạm trong mảng này còn khá hạn chế. Có thể nói nó chưa
thu hút được sự quan tâm của các nhà lập pháp. Các quy định nhìn chung còn khá sơ sài, tuy nhiên,
trong giai đoạn từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cũng đã có những bổ sung đáng kể.
Trong các văn bản có quy định liên quan đến hoạt động huy động huy động vốn của các ngân
hàng thương mại, không có bất cứ một văn bản nào đưa ra một định nghĩa pháp lí về hoạt động huy
động vốn, Luật Các tổ chức tín dụng và Nghị định 49/2000/ND-CP chỉ liệt kê những loại hình được
coi là hoạt động huy động vốn. Các hoạt động của các ngân hàng là khá đa dạng và hình thức của
nó biến đổi không ngừng, chính vì vậy, việc đưa ra một khái niệm mang tính liệt kê như vậy rõ ràng
không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của thực tiễn, những quy định đó sẽ nhanh chóng bị lạc hậu.
Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, hoạt động huy động vốn nói chung của các tổ chức
tín dụng bao gồm bốn hoạt động cơ bản được quy định tại một chương riêng của luật này: 1)hoạt
động nhận tiền gửi (điều 45); 2) hoạt động phát hành giấy tờ có giá (điều 46); 3) hoạt động vay vốn
giữa các tổ chức tín dụng (điều 47); 4) hoạt động vay vốn của Ngân hàng nhà nước (điều 48). Nhìn
chung, Luật Các tổ chức tín dụng chỉ nêu một cách khái quát nhất về các hình thức huy động vốn
của các tổ chức tín dụng (trong đó có các ngân hàng thương mại) mà không có bất cứ quy định gì
thêm. Vấn đề này một lần nữa được quy định tại Nghị định số 49/200/ND-CP về tổ chức và hoạt
động của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, tại điều 3 Nghị định này quy định:
“Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
1. Nhận tiền gửi của cá nhân tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới dạng tiền gửi
không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác.
2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá
nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc Ngân hàng nhà nước chấp nhận.


3. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước
ngoài.
4. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Ngân hàng
nhà nước Việt Nam.
5. Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước.”
Có thể nhận thấy các quy định được nêu ra trong hai văn bản này chỉ ở dạng liệt kê. So sánh với
các hình thức huy động vốn trong thực tiễn và trên thế giới đã được trình bày ở trên có thể thấy đây
là các hình thức huy động vốn cơ bản và chủ yếu của không chỉ các ngân hàng mà còn của các tổ
chức tín dụng từ trước đến nay. Tuy nhiên, so với nghiệp vụ ngân hàng hiện đại trong giai đoạn
hiện nay, các hình thức huy động vốn đã thực sự đa dạng hơn nhiều, có lẻ đó là một nguyên nhân
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
2
quan trọng mà Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản quan trọng không quy định một cách chi
tiết cụ thể mà chỉ nêu một cách khái quát và sơ lược về hoạt động này, những vấn đề cụ thể về hình
thức, phương thức tiến hành đều dành lại cho các văn bản hướng dẫn của cơ quan chuyên môn (các
Quy chế ban hành kèm các Quyết định của Ngân hàng nhà nước).
Điều này có ưu điểm là giúp cho hệ thống pháp luật có thể phản ứng nhanh với những thay đổi
của thực tiễn kinh tế xã hội, tuy nhiên, không phải là không có hạn chế. Tính ràng buộc từ hệ quả
pháp lí của các văn bản hướng dẫn này và tính thống nhất của chúng đôi lúc thật sự gây khó khăn
cho cả các chủ thể quản lí và bị quản lí.
Như đã được phân tích ở trên, các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và Nghị định về tổ
chức và hoạt động của ngân hàng thương mại chỉ quy định những vấn đề cơ bản nhất, có thể nói, đó
chỉ như là cái khung của hoạt động, nếu hiểu theo nội hàm rộng nhất của các hoạt động này, các
hình thức huy động vốn trong thực tiễn cũng có thể được xếp vào trong bốn loại hình cơ bản được
liệt kê đó, nhưng nếu để điều chỉnh từng các quan hệ phát sinh trong từng nghiệp vụ riêng lẻ thì có
khả năng gặp phải nhiều khó khăn. Chẳng hạn, về hình thức pháp lí của quan hệ đó, quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia. Tuy nhiên, cũng cần có sự phân biệt giữa các vấn đề mang nặng tính
nghiệp vụ và các quy phạm thông thường khác, ngân hàng nhà nước có thể nói là cơ quan chủ quản
trong lĩnh vục này, nên để các quy phạm thiên về tính nghiệp vụ cho cơ quan này quy định của là
một sự hợp lí. Dự thảo luật các tổ chức tín dụng mới thật sự đã khắc phục được rất nhiều các hạn

chế này, đa phần các vấn đề được quy định chi tiết và chặc chẽ hơn.
Xét từ khía cạnh lí luận, pháp luật ngân hàng là mảng pháp luật chuyên ngành, các quan hệ
ngân hàng vẫn mang bản chất gốc của nó là các quan hệ dân sự. Chính vì vậy, theo nguyên tắc
chung, khi các quan hệ này không được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật chuyên ngành thì
sẽ tự động chịu sự điều chỉnh của các quy định chung của pháp luật dân sự quy định trong Bộ luật
Dân sự. Trên thực tế, chúng ta đang vận dụng điều này để điều chỉnh một số các quan hệ thuộc lĩnh
vực huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Chẳng hạn, trong bốn nghiệp vụ huy động vốn
của ngân hàng thương mại được liệt kê ở trên, nếu loại hình huy động vốn nào có được các văn bản
hướng dẫn cụ thể thì sẽ áp dụng các văn bản hướng dẫn đó, loại hình huy động vốn nào không có
hướng dẫn cụ thể hoặc mới phát sinh mà chưa được hướng dẫn hoặc những loại hình đã được
hướng dẫn mà các quy định chưa bao quát hết thì sẽ được tự động điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nhận xét cách khách quan, trong tình trạng quá độ như hiện nay, đặc biệt là giai đoạn liền trước
và sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, cơ quan lập pháp và các bộ cơ quan chuyên ngành thật sự
đã quá tải trong việc cố hoàn thiện các văn đáp ứng yêu cầu thiết lập một hệ thống pháp luật đầy
đủ, tương thích và minh bạch phù hợp với các yêu cầu của tổ chức thương mại thế giới. Hệ thống
pháp luật đang trong giai đoạn hoàn thiện thì những vấn đề như thế này có thể tạm chấp nhận được,
tuy nhiên, rõ ràng nó thể hiện sự không chuyên nghiệp trong phương thức quản lí của các cơ quan
hành chính nước ta. Thể hiện sự sơ sài và yếu kém của một thị trường tài chính chưa phát triển đầy
đủ và kém năng động.
Vấn đề này chắc chắn sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng thương mại nói chung và
cho các tổ chức tín dụng nói chung khi tiếp cận với các vấn đề thực tiễn. Ngân hàng thực tế là một
doanh nghiệp, về lí, nó được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, như những doanh
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
3
nghiệp khác. Tuy nhiên, như đã được đề cập, là một loại hình kinh doanh có điều kiện, nó phải chịu
rất nhiều sự ràng buộc cả về mặt pháp lí và những phương thức quản lí hành chính khác. Sự không
rõ ràng trong các quy định như thế này sẽ hạn chế rất lớn sự năng động và sáng tạo trong hoạt động
của các ngân hàng thương mại.
Đó là nhìn từ góc độ lợi ích của các ngân hàng, đứng từ góc độ nhà quản lí, một khi các quy

định không rõ ràng, các cơ quan công quyền và cả ngân hàng trung ương cũng sẽ rất khó khăn trong
việc quản lí, đảm bảo sự minh bạch hóa thông tin trong thị trường các ngân hàng mình quản lí, đây
lại là một yêu cầu rất quan trọng đối với loại hình hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro này. Hơn nữa, khi
không nắm được cụ thể tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại, việc điều hành chính
sách tiền tệ cũng như vận hành các công cụ điều tiết sẽ vô cùng khó khăn.
Rõ ràng với một thị trường tài chính năng động như hiện nay, các nghiệp vụ tài chính trên thế
giới ngày càng hết sức đa dạng và phức tạp, sự ràng buộc một danh sách những nghiệp vụ mà các
ngân hàng được phép thực hiện huy động vốn và không được là hoàn toàn không hợp lí, nhất là
trong khi từng ngày đều có thể có những nghiệp vụ mới phát sinh và ngày nay, chúng ta đã trở
thành một bộ phận và kết nối này càng chặc chẽ với thị trường tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, cũng
cần thiết có một khung pháp lí hoàn thiện hơn đối với loại hình nghiệp vụ này. Chưa nói đến hoạt
động huy động vốn, đối với các giao dịch ngân hàng thông thường khác, thật sự cũng không thể
đơn giản chịu sự điều tiết của các quy định Bộ luật Dân sự. Bởi các quan hệ này mang những tính
chất đặc trưng mà cần thiết có một phương thức điều chỉnh riêng biệt.
1

Những phân tích được trình bày ở đây dựa trên các quy định của các văn bản pháp luật đang có
hiệu lực (mà chủ yếu là Luật Các tổ chức tín dụng 1997), tuy nhiên, thời điểm hết hiệu lực của nó
cũng sắp đến. Dự thảo luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng mới sẽ sớm được
thông qua trong thời gian không xa. ở đây, trong quá trình phân tích các quy định của hệ thống
pháp luật hiện hành về họat động huy động, tác giả cũng sẽ đề cập một số quan điểm của mình về
những quy định mới của dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng như một sự tham khảo.
Thay đổi khá nhiều so với Luật Các tổ chức tín dụng 1997, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng
mới có một bố cục hoàn toàn khác và cách tiếp cận mới lạ hoàn toàn. Luật Các tổ chức tín dụng
khẳng định hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại gồm có bốn hành thức cơ bản (như
trên), nhưng Dự thảo Luật Các Tổ chức tín dụng mới không quy kết vấn đề như vậy. cụ thể Dự thảo
số 8 Luật Các tổ chức tín dụng, trong mục 2 chương 4 quy định về hoạt động của các ngân hàng
thương mại, Điều 96 quy định về hoạt động của ngân hàng thương mại:
“Ngân hàng thương mại được thực hiện các hoạt động ngân hàng sau đây:
1. Nhận tiền gửi dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết

kiệm và các loại tiền gửi khác.
1 Tham khảo thêm “vấn đề hiệu lực của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại”, ts. Nguyễn văn tuyến,
khoa pháp luật kinh tế, đại học luật hà nội, tạp chí luật học số 06/2005.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
4
2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn trong nước và phát hành trái phiếu ở nước ngoài sau khi được Ngân hàng nhà nước
chấp thuận.
3. Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
a) Cho vay;
……….”
Tiếp theo, Điều 97quy định về hoạt động vay vốn của Ngân hàng nhà nước và Điều 98 quy
định về hoạt động vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính. Sự phân loại này không dựa vào
mục đích của hoạt động mà dựa vào bản chất kinh tế của hoạt động, cái Quyết định đến phương
thức thực hiện của chủ thể cũng như phương thức điều chỉnh của chủ thể quản lí. Nhìn vào các quy
định này có thể thấy các nhà lập pháp đã có sự phân định rõ bản chất của các hình thức huy động
vốn này của các ngân hàng thương mại. hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi và phát hành
giấy tờ có giá được xếp vào nhóm các hoạt động ngân hàng còn hai hình thức còn lại thì không
2
.
Căn cứ vào khái niệm hoạt động ngân hàng được nêu tại khoản 11 điều 4 dự thảo này:
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một trong các nghiệp vụ
sau đây dưới mọi hình thức:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Nếu hoàn toàn không đề cập đến các hình thức của hoạt động ngân hàng được đề cập trong định
nghĩa trên ta vẫn dễ dàng nhận thấy hoạt động huy động vốn thông qua hình thức vay của các tổ
chức tín dụng khác, tổ chức tài chính và vay của Ngân hàng nhà nước không thỏa mãn bản chất của
một hoạt động kinh doanh. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp: “Kinh doanh là việc thực hiện

liên tục một, một số loặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,…trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”, có thể nhận thấy bản chất cũng như khởi thủy của bất kì hoạt động kinh doanh nào
cũng là nhằm mục đích sinh lợi. theo định nghĩa trên, “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh…”, mục đích chính của hai hoạt động huy động vốn của ngân hàng thông qua vay vốn của tổ
chức tín dụng, tổ chức tài chính và vay ngân hàng trung ương chủ yếu nhằm mục đích bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng thậm chí trong nhiều trường hợp bất chấp mục thua lỗ, chúng không
2 Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà tác giả chia hoạt động huy động vốn của ngân hàng thành 2 nhóm
hoạt động cơ bản: nhóm các hoạt động huy động vốn xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận và nhóm các hoạt động xuất
phát từ mục tiêu bảo đảm an toàn (phần 1.1.4. Phân loại hoạt động huy động vốn). Và cũng chính vì vậy mà tác giả
giới hạn những nghiên cứu chuyên sâu của đề tài chỉ tập trung ở khía cạnh thứ nhất của hoạt động này (hoạt động huy
động vón bằng nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá), mục đích của tác giả muốn tập trung tiếp cận hoạt động
huy động vốn của ngân hàng dưới góc độ kinh tế, tức là một hình thức của hoạt động ngân hàng.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
5
hoàn toàn nằm trong quyền tự quyết của ngân hàng mà chịu những ràng buộc từ các quy chế pháp lí
mang tính bắt buộc đến sự tồn vong của chính nó. Từ những luận cứ trên, việc phân định trên theo
quan điểm của tác giả là hợp lí. Điều này cũng cho thấy một tư duy mới và rạch ròi trong quan
điểm của nhà lập pháp, có một hướng tiếp cận hợp lí từ bản chất của quan hệ được điều chỉnh sẽ
giúp cho nhà lập pháp lựa chọn những phương thức điều chỉnh thích hợp.
Về hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại bao
gồm hai nhóm chính:
Nhóm một: các quy phạm pháp luật chuyên ngành (Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số
06/1997/QHX Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997 , Nghị định số 49/200/ND-CP về tổ chức và
hoạt động của cácc ngân hàng thương mại, và các quyết định của ngân hàng nhà nước trong việc
ban hành các quy chế của các hình thức cụ thể, các quyết định công bố lãi suất huy động, lãi suất
chiết khấu,….), chủ yếu hướng đến các vấn đê mang tính nghiệp vụ.
Nhóm hai: các quy phạm pháp luật chung, chủ yếu thuộc bộ luật dân sự, chủ yếu hướng đến nội
dung pháp lí của quan hệ, như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,…
2.1.2. Các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam liên quan đến một số
hoạt động huy động vốn cụ thể.

2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi.
A. VẤN ĐỀ LÃI SUẤT:
Hình tượng hóa một cách dễ hiểu nhất, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh mà trong
đó “tiền tệ” là hàng hóa. Chính vì vậy, lãi suất với vai trò là giá cả của tiền tệ luôn đóng vai trò
trung tâm. Đối với hoạt động huy động vốn nói chung hay với hoạt động nhận tiền gửi của các
ngân hàng thương mại nói riêng, vấn đề lãi suất và cơ chế điều chỉnh của nó có tác động chi phối
rất lớn. Phân tích các quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi sẽ bắt
đầu bằng việc xem xét việc điều hành lãi suất trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn.
Kinh tế học đưa ra nhiều khái niệm về lãi suất, từ cụ thể đến trừu tượng, tuy nhiên, trong các
văn bản pháp luật hiện hành của nước ta không có bất cứ định nghĩa nào về lãi suất nói chung. Tuy
nhiên, vấn đề thu hút được sự quan tâm từ cả hai lĩnh vực kinh tế học và luật học chính là cơ chế
điều hành nó, sự thay đổi của nó và những tác động của nó đến các chủ thể có liên quan. Luật Các
tổ chức tín dụng vận hành chỉ hơn 10 năm nhưng với cơ chế điều hành lãi suất đối với các tổ chức
tín dụng đã trãi qua khá nhiều những thay đổi và hiện nay có thể nói vẫn chưa tìm kiếm được một
phương thức điều chỉnh thật sự thích hợp. Sự không ổn định đó đã gây khá nhiều khó khăn cho
hoạt động của các ngân hàng nói riêng và với toàn nền kinh tế nói chung, đồng thời cũng dấy lên
nhiều cuộc tranh luận gay gắt vẫn chưa có hồi kết.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
6
• LỘ TRÌNH THAY ĐỔI CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
3
.
 Sau khi luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực, Ngân hàng
nhà nước Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất trần để điều chỉnh lãi suất kinh doanh
của các ngân hàng thương mại (Quyết định số 39 ngày 17/1/1998 của Thống đốc
NHNN, theo Quyết định này mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay vốn
bình quân là 0,35%/tháng đã được bãi bỏ). Bước đầu, các ngân hàng thương mại đã có
quyền tự chủ quyết định lãi suất lãi suất huy động trên cơ sở cung – cầu vốn thị
trường.
 Ngày 02 tháng 08 năm 2000, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Đức Thúy ban hành

Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay
của ngân hàng đối với khách hàng, trong đó thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho
vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam và cơ
chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Cụ thể, đối với lãi
suất cho vay bằng Việt Nam đồng các ngân hàng ấn định lãi suất cho vay đối với
khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố theo nguyên tắc
lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc Ngân
hàng nhà nước quy định từng thời kỳ. Ngân hàng nhà nước công bố lãi suất cơ bản
trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của
nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước trong từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng
tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
 Và vào ngày 30 tháng 05 năm 2002, trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 546 ngày 30/5/2002 về việc
thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng
Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Trong đó quy định: Từ tháng 6/2002, bãi bỏ
quy định các TCTD ấn định lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản cộng biên độ; các
TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung - cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay; NHNN công bố lãi suất cơ bản
nhưng với mục đích định hướng lãi suất thị trường và chỉ có ý nghĩa tham khảo đối
với các TCTD khi ấn định lãi suất kinh doanh. Như vậy, có thể nói, lãi suất huy động
và cho vay của các TCTD đối với khách hàng được thực hiện theo cơ chế thoả thuận,
sự can thiệp hành chính của Nhà nước đã cơ bản chấm dứt. tuy nhiên, cũng nhiều ý
kiến cho rằng đây là một Quyết định mang tính nóng vội, là “quan điểm của trường
3 Ở đây tác giả viện dẫn cả những quy định liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại
hoàn toàn không phải là một sự nhầm lẫn, vì thật sự có một mối quan hệ rang buộc theo tỉ lệ thuận giữa hai loại lãi
suất này và rõ ràng khi ban hành những cơ chế điều chỉnh này, chủ thể ban hành rõ ràng hướng đến cả hai đối tượng
trên. Trên thực tê, hai loại lãi suất này chịu sự điều chỉnh của cùng một cơ chế được ban hành bởi Ngân hàng nhà
nước.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103

7
phái “cấp tiến”, muốn “đốt cháy” giai đoạn, “chạm ngõ” với kinh tế thị trường đầy
đủ”
4
.
 Năm 2006, thời điểm Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực với điều khoản quy định về lãi
suất hợp đồng vay tài sản: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố với loại cho vay tương
ứng”
5
. đây có lẽ là một vấn đề không được tính đến của Ban soạn thảo Bộ luật Dân sự
2005, nó thật sự đã gây ra những xáo trộn rất lớn đối với việc điều hành cơ chế lãi
suất của Ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại hoang mang, hàng loạt các
hợp đồng vay tiền liên quan đến các ngân hàng có khả năng bị xem là vô hiệu lực vì vi
phạm điều khoản về lãi suất. Ngân hàng nhà nước không có câu trả lời cho hàng loạt
các vướn mắc nảy sinh.
 Sau hàng loạt những yêu cầu và kiến nghị, hai năm sau, với ý kiến của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội khóa XII và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà
nước đã xây dựng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trình Thường trực Chính phủ xem
xét, nhất trí tại văn bản số 3168/VPCP-KTTH ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản của Văn phòng Chính phủ. Trên cơ sở đó, Thống đốc NHNN đã ban hành
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ
bản bằng Đồng Việt Nam. Cụ thể, văn bản này quy định: “Các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối
với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước
Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản”. Văn bản này về cơ bản
thiết lập lại sự thống nhất về đường lối điều chỉnh lãi suất cơ bản của hệ thống pháp
luật tài chính ngân hàng và Bộ luật Dân sự 2005. Nhìn một cách tổng thể, sau một thời

gian áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, chúng ta lại quay về với cơ chế lãi suất trần,
tuy được thể hiện bằng một phương thức hiện đại hơn.
 Và chắc chắn, trong tương lai không xa, khi dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, dự thảo
Luật Ngân hàng nhà nước và dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực sẽ thiết
lập thêm một cơ chế điều hành lãi suất mới. Và tất nhiên, tuy chưa thể nói gì về tính
hiệu quả của cơ chế điều hành mới này nhưng chắc chắn sẽ hạn chế được tối đa việc
phát sinh những sự mâu thuẩn như trong giai đoạn vừa qua.
Nhìn vào tổng quan những sự thay đổi trong cơ chế điều hành lãi suất trong giai đoạn 12 năm
kể từ khi luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực, có thể kết luận về sự
thiếu ổn định của cơ chế này, và ắt hẳn, nó cũng đóng vai trò không nhỏ đối với những thất bại của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của mình.
4 Châu Đình Phương, “Lãi suất: ôn cố tri tân”, Tạp Chí Kinh Tế Và Dự Báo số 17 (433) tháng 9/2008.
5 Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
8
• ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÍ TRONG CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
TRONG THỜI GIAN QUA.
a) VỀ MẶT PHÁP LÍ .
Vấn đề này thực sự đã gây nhiều sóng gió trên các diễn đàn luật học trong thời gian qua, đã có
rất nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này, đặc biệt, kể từ sau ngày Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu
lực, các ngân hàng thương mại hoang mang, nhiều hợp đồng vay vốn mà chủ thể là các ngân hàng
có nguy cơ bị vô hiệu. Người ta sẽ phải tuân theo loại lãi suất nào, văn bản nào sẽ ưu tiên được áp
dụng? Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, và trong thời gian dài, chỉ có các nhà nghiên cứu lên tiếng, và
điều đó không đủ cơ sở pháp lí để làm an lòng các ngân hàng thương mại trong việc quyết định
mức lãi suất huy động cũng như mức lãi suất của những hợp đồng tín dụng khác.
Vấn đề thứ nhất: Tính thống nhất của cơ chế điều hành lãi suất trong các quy định của
pháp luật.
Như đã được trình bày ở trên, theo Quyết định số 546 ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam
của TCTD đối với khách hàng, đã trao cho các ngân hàng thương mại quyền tự do lựa chọn mức lãi

suất huy động vốn, lãi suất tín dụng theo tác động cung cầu từ thị trường. Tuy nhiên, ngày
1/1/2006, điều 476 Bộ luật Dân sự 2005 lại quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng
không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Rõ ràng, thông qua quy định này, pháp luật dân sự đã thiết lập cơ chế điều hành bằng
lãi suất trần đối với hoạt động huy động vốn và các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Với những quy định không rõ ràng của các văn bản liên quan, đã thật sự đặt các ngân hàng thương
mại vào “ngã ba đường”.
Khác với Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 đã mở rộng tối đa phạm vi điều chỉnh đối
với các quan hệ dân sự. Cụ thể tại Điều 1 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Bộ luật Dân sự quy định
địa vị pháp lí, chuẩn mực pháp lí cho cách xử sự của cá nhân, pháp nhân,… trong các quan hệ dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Mang bản chất là một quan hệ dân
sự, chính vì vậy, các quan hệ liên quan đến hoạt động huy động vốn, liên quan đến lãi suất cũng có
thể sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định về lãi suất của Bộ luật Dân sự. Căn cứ vào các quy định
của Luật Ban hành văn bản pháp luật, văn bản chuyên ngành không được được trái với các văn bản
quy phạm pháp luật chung
6
, phải đảm bảo tính thống nhất. Bộ luật Dân sự 2005 (kể cả phần chung
và Điều 476 mục 4 Chương XVIII) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật không quy định
trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật chung (Bộ luật Dân sự) và văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành (Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành) quy định về cùng
một vấn đề (lãi suất vay) mà có khác nhau, thì áp dụng văn bản pháp luật chuyên ngành. Cho nên,
khi có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật Dân sự và văn bản quy phạm pháp luật chuyên
ngành về lãi suất vay, ngân hàng không có cơ sở để áp dụng quy định của văn bản pháp luật chuyên
ngành trong việc xác định lãi suất cho vay.
6 Điều 3 (nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật) luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số
17/2008/QH12 ngày 03 tháng 06 năm 2008.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
9
Tuy trong hệ thống pháp luật Việt Nam không công khai thừa nhận nguyên tắc ưu tiên áp dụng
văn bản pháp luật chuyên ngành khi có sự khác biệt giữa các văn bản (theo nguyên tắc đảm bảo sự

thống nhất của pháp luật, không thể để tồn tại tình trạng các văn bản pháp luật mâu thuẩn nhau),
nhưng trên thực tế, khi xuất hiện sự mâu thuẩn này, người ta thường vẫn có tâm lí ưu tiên áp dụng
văn bản chuyên ngành (vì tâm lí chịu tác động từ cơ quan chủ quản – thường là chủ thể ban hành
văn bản đó). Dù xét về lí, văn bản quy phạm pháp luật chung nên là văn bản được ưu tiên.
Trên đây chỉ là những vấn đề mang tính pháp lí, nếu xét riêng về nội dung của từng quy định, sẽ
rất vô lí khi điều khoản về lãi suất trong Bộ luật Dân sự không điều chỉnh cả trường hợp các hợp
đồng vay tiền liên quan đến các ngân hàng. Hoạt động huy động vốn hay cho vay của các ngân
hàng chiếm số lượng lớn nhất trong các quan hệ vay vốn nói chung cả về mặt số lượng và quy mô,
và nó cũng đóng vai trò trung tâm Quyết định đến lãi suất thực trên mặt bằng lãi suất của các quan
hệ vay vốn khác trong thực tế. Nếu giả định lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng và
các loại hình vay vốn khác được điều chỉnh bằng hai cơ chế điều chỉnh khác nhau thì thật sự nhà
lập pháp đã đi trái với các nguyên tắc thực tiễn.
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành
lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam có thể nói là một Quyết định đúng đắn để sửa chửa những sai
lầm của mình. Theo giải trình của Ngân hàng nhà nước Việt Nam việc ban hành Quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN dựa trên cơ sở pháp lý: Luật NHNN, Điều 9 và 18 quy định “NHNN xác định
và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” và “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công
bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh”; Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự quy
định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do
NHNN công bố đối với loại vay tương ứng”. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố là công cụ để điều
hành chính sách tiền tệ, thực hiện các chức năng: Một là, làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất
kinh doanh. Hai là, có tác dụng định hướng và điều tiết lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Theo đó, lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD và xu hướng biến
động cung - cầu vốn, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn
7
.
Tuy nhiên, đây cũng là một Quyết định mang tính tạm thời để đối phó với tình huống hiện tại
(ổn định thị trường tài chính, thực hiện mục tiêu thắt chặt tiền tệ trong giai đoạn nền kinh tế lạm
phát, hệ thống tài chính thế giới sụp đổ). Như đã được đề cập ở trên, với sự ra đời của Bộ luật Dân

sự (sửa đổi), luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng mới, nhà nước ta sẽ lựa chọn
được một cơ chế điều chỉnh thích hợp ca về mặt pháp lí và tài chính.
Vấn đề thứ hai: Lãi suất cơ bản.
Nếu như vấn đề trên thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như báo giới
thì vấn đề này chưa hệ thấy được đề cập. Đây là vấn đề xuất hiện trên cơ sở vai trò của lãi suất cơ
bản. Theo khoản 12 Điều 9 luật Ngân hàng nhà nước 1997: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân
7 Ngân hàng nhà nước việt nam, Thông báo về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và Điều 476 Bộ luật Dân sự và điều chỉnh cơ chế lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu
(Tài liệu họp báo ngày 17 tháng 5 năm 2008).
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103

×