Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

CỞ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.59 KB, 33 trang )

Cở sở lý thuyết và thực tiễn về bảo hiểm xã
hội
1. 1- Những vấn đề lý luận cơ bản về Bảo hiểm xã hội.
1. 1. 1- Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển
Trong hai thập kỷ gần đây, cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), BHXH đã đợc nhiều ngời biết đến bởi nó liên quan trực tiếp đến quyền
lợi của đại bộ phận ngời làm công ăn lơng. Mục đích của BHXH là nhằm bù đắp
hoặc thay thế thu nhập cho ngời lao động khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn
thu nhập từ lao động, giúp ổn định đời sống cho ngời lao động cũng nh gia đình
họ.
"BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động
khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nớc theo pháp luật,
nhằm đảm đảm an toàn đời sống cho ngời lao động và gia đình họ, đồng thời
góp phần bảo đảm an toàn xã hội" (Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I).
Đối tợng của BHXH là ngời lao động. Có hai hình thức BHXH là hình thức
bắt buộc và hình thức tự nguyện.
Hình thức bắt buộc thờng đợc thực hiện đối với ngời làm công ăn lơng, vì
đó là những ngời có công việc, thu nhập và nơi làm việc tơng đối ổn định. Để bảo
đảm thu chi cho quỹ BHXH cần nắm chắc số lợng và tình trạng của ngời phải
đóng BHXH, số lợng và tình trạng của ngời đợc bảo hiểm. Hơn nữa, những đối t-
ợng này lại đợc ngời sử dụng lao động đóng thêm phí BHXH cho họ. Mức đóng
góp thờng quan hệ tỷ lệ thuận với tiền lơng của ngời lao động. Mặt khác, tiền lơng
của những đối tợng này bao giờ cũng có mối quan hệ thuận với tăng trởng kinh tế,
do vậy tổng quỹ lơng tăng thì quỹ BHXH cũng tăng theo.
Hình thức tự nguyện áp dụng đối với ngời lao động thuộc khu vực phi thể
chế hoá, ngời lao động độc lập, nông dân, Những ng ời này thờng không có
công việc, thu nhập và nơi làm việc ổn định, đặc biệt họ không đợc ngời sử dụng
lao động (nếu có) đóng thêm phí cho mình. Do vậy, việc ấn định mức phí đóng


góp đối với những đối tợng này không hề đơn giản, đòi hỏi phải có những cân
nhắc và tính toán kỹ, và chính việc hình thành quỹ BHXH tự nguyện sẽ ảnh hởng
đến việc cân đối quỹ BHXH. ở nhiều nớc, hình thức BHXH tự nguyện thờng đợc
áp dụng sau hình thức bắt buộc và ban đầu chỉ thực hiện một số chế độ thiết yếu
đối với ngời lao động.
Bản chất của BHXH là bảo hiểm nguồn thu nhập cho ngời lao động nên
mức đóng và mức hởng BHXH có liên quan chặt chẽ với tiền lơng của ngời lao
động. Mức đóng góp và mức hởng đợc tính theo tỷ lệ tiền lơng.
1. 1. 2- Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến
đời sống kinh tế - xã hội
Bàn về sự cần thiết khách quan của BHXH, trớc hết phải khẳng định
BHXH là nhu cầu của ngời lao động. Điều đó đợc giải thích bởi việc ngời lao
động luôn bị đe doạ bởi các rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập, gây khó khăn cho cuộc sống của
ngời lao động và gia đình họ. Những rủi ro đó có thể do:
- Qui luật "sinh - bệnh - lão - tử". Theo qui luật này, trong cuộc đời ngời
lao động sẽ gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động;
- Lực lợng sản xuất phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất tạo điều kiện
thuận lợi cho ngời lao động, mặt khác cũng gây những hậu quả không nhỏ nh: tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ;
- Ô nhiễm môi trờng làm cho ngời lao động suy giảm sức khoẻ, dễ mắc
bệnh ;
- Môi trờng kinh tế - xã hội: kinh tế khủng hoảng hoặc kém phát triển dẫn
đến tình trạng thất nghiệp, xã hội kém phát triển dẫn đến ốm đau bệnh tật,
Để khắc phục những rủi ro đó, ngay từ thời cổ đại, con ngời phải tự khắc
phục bằng cách tự tiết kiệm, có sự cu mang giúp đỡ của cộng đồng. Tuy nhiên, sự
tơng trợ này chỉ mang tính tự phát trong phạm vi hẹp. Chính vì vậy, nguồn tài
chính để khắc phục rủi ro không chắc chắn.
Đến giai đoạn phân công lao động đợc mở rộng hơn, sản xuất xã hội phát
triển, quan hệ xã hội, giữa các cá nhân và cộng đồng cũng phát triển hơn, do đó đã

xuất hiện các tổ chức từ thiện nhằm giúp đỡ những ngời có hoàn cảnh khó khăn.
Từ đầu thế kỷ 16, khi các ngành công nghiệp ra đời và phát triển thì số
công nhân công nghiệp tăng dần. Đây là những ngời làm công ăn lơng, lấy tiền l-
ơng làm nguồn sống chủ yếu. Những ngời này chỉ khi làm việc mới có lơng, nếu
ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc không có l ơng và cuộc sống bị đe doạ. Để giảm
thiểu nỗi lo của ngời làm công ăn lơng, nhiều tổ chức với những hình thức trợ giúp
xã hội lần lợt ra đời. Nhiều quỹ tiết kiệm đợc nhà nớc khuyến khích thành lập, có
sự đóng góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động, đợc dùng để chi trả cho
ngời lao động khi ốm đau, tai nạn, chết, Đây chính là tiền thân của các tổ chức
BHXH.
Đối với ngời lao động khi gặp rủi ro, thu nhập từ quỹ BHXH dới hình thức
BHXH trả thay tiền lơng hoặc tiền công, đợc coi là nguồn thu nhập quan trọng (có
khi là chủ yếu) để sống, để khắc phục khó khăn.
Ngày nay, BHXH đợc pháp luật của nhiều nớc ghi nhận, đã trở thành một
trong những quyền con ngời và đợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận trong
Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 nh sau: "Tất cả mọi ngời với t cách là
thành viên của xã hội có quyền hởng BHXH. Quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự
thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do
phát triển của con ngời".
Sau khi nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đợc thành lập, Chính phủ ta cũng
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH nh: Sắc lệnh 54/SL qui định điều
kiện nghỉ hu đối với công chức, Sắc lệnh 29/SL qui định chế độ thai sản - ốm
đau Ngày 27/12/1961, Điều lệ tạm thời về BHXH ra đời kèm theo Nghị định
218/CP và Nghị định 161/CP qui định 6 chế độ BHXH đối với công nhân viên
chức và ngời làm việc thuộc lực lợng vũ trang. Do đặc điểm quản lý kinh tế của
thời kỳ này, chỉ có công nhân viên chức nhà nớc mới đợc tham gia đóng BHXH,
nguồn chi trả chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nớc.
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc, hệ thống BHXH cũng phải
chuyển đổi cho phù hợp với xu hớng chung, đối tợng tham gia đợc mở rộng đến

ngời lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, ngời lao động phải tham gia đóng
BHXH, quỹ BHXH tách ra hoạt động độc lập, tự cân đối thu chi.
Những dẫn chứng mang tính lịch sử nêu trên đã chứng tỏ rẳng BHXH thực
sự là nhu cầu thiết yếu của ngời lao động, đòi hỏi xã hội phải đáp ứng. Mức độ
và hình thức đáp ứng của xã hội về BHXH cho ngời lao động trong các thời kỳ
khác nhau dĩ nhiên là không giống nhau, do phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã
hội và cơ chế vận hành của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Sự cần thiết khách quan của BHXH còn đợc thể hiện từ góc độ BHXH là
một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội.
Chính sách xã hội là loại chính sách đợc thể chế hoá bằng pháp luật của
nhà nớc dới dạng hệ thống các quan điểm, chủ trơng, phơng hớng và biện pháp để
giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trớc hết là những vấn đề xã hội liên
quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định,
phát triển đất nớc, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản, liên quan
đến quyền và lợi ích của ngời lao động, có vai trò to lớn trong việc ổn định đời
sống cho đại bộ phận dân c, từ đó góp phần ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhà nớc
phải có sự can thiệp và điều tiết nhất định, bảo đảm việc thực hiện những quyền
xã hội của ngời lao động.
Bớc vào công cuộc đổi mới, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc
sống con ngời: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ
gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc Coi nhẹ chính sách xã hội tức là
coi nhẹ yếu tố con ngời trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Nh vậy, chính sách xã
hội đã đợc Đảng ta nhận thức sâu sắc về vị trí và tầm quan trọng của nó trong
chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Việc quy định ngời lao động phải đóng BHXH có tác dụng quan trọng
trong việc phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia. Có thể là phân phối
lại thu nhập theo chiều ngang đợc thực hiện giữa những ngời lao động trẻ, khoẻ
với những ngời lao động già, ốm yếu; giữa những ngời đang làm việc và những

ngời đã về hu . Có thể là phân phối thu nhập theo chiều dọc đ ợc thực hiện giữa
những ngời có thu nhập cao và những ngời có thu nhập thấp . Sự phân phối lại
thu nhập thông qua BHXH có tác dụng góp phần thực hiện công bằng, ổn định và
tiến bộ xã hội.
BHXH xuất hiện và dần dần trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng, có
quan hệ chặt chẽ với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua việc đóng BHXH,
nền kinh tế huy động đợc một lợng tiền đáng kể để đầu t cho phát triển. Nguồn
thu BHXH là một nguồn tiết kiệm nội bộ quan trọng vì các khoản chi trợ cấp, nhất
là trợ cấp tuổi già, tử tuất cha thực hiện ngay. Nguồn thu từ các khoản nhàn rỗi đ-
ợc tích tụ thành quỹ có quy mô ngày càng lớn, quỹ này đợc đầu t để sinh lời. Do
phải bảo đảm an toàn, chi trả kịp thời, có ích với xã hội nên các khoản mục đầu t
thờng do nhà nớc xét duyệt. Nhà nớc thờng khuyến khích đầu t vào phát triển hạ
tầng, y tế, giáo dục, Nh vậy, chính sách BHXH đã góp phần vào thực hiện các
chính sách xã hội khác, thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Có thể nói, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách
xã hội. BHXH giúp ngời lao động tự bảo đảm cuộc sống cho chính bản thân và
gia đình mình, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần thực
hiện có hiệu quả các mục tiêu mà chính sách xã hội đặt ra.
Để phân tích tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - x hộiã ,
cần đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau.
Trớc hết, hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng BHXH có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. BHXH góp phần ổn định đời sống cho ngời tham gia bảo
hiểm. Khi rơi vào những trờng hợp rủi ro (nh đã đề cập ở trên), thu nhập của ngời
lao động bị giảm sút, họ và gia đình sẽ lâm vào cảnh khó khăn và khi đó, khoản
tiền BHXH sẽ là thu nhập chính.
Ngoài việc giải quyết các rủi ro xảy ra đối với ngời lao động, BHXH còn
giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, yên tâm làm việc, nâng cao năng suất lao
động, còn góp phần thúc đẩy đầu t vào nền sản xuất xã hội thông qua việc sử dụng
nguồn quỹ đã tích luỹ, góp phần tạo ra mức độ tăng trởng cao của nền kinh tế.
BHXH còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống xã hội. Chính

sách BHXH đợc thực hiện cho phần lớn ngời lao động thuộc mọi thành phần kinh
tế, do vậy, có vai trò góp phần thực hiện công bằng xã hội giữa "làm" và "hởng",
giữa ngời lao động trong các thành phần kinh tế, làm lành mạnh hoá thị trờng lao
động, tạo điều kiện cho ngời lao động tự do di chuyển, củng cố lòng tin của nguời
dân vào chế độ, tạo nền tảng vững chắc cho một thể chế chính trị xã hội . Mặt
khác, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình ổn định và phát triển góp phần làm
cho xã hội ổn định và phát triển.
1. 1. 3- Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội
a) Bộ máy Bảo hiểm xã hội
Bộ máy BHXH là cơ quan đề ra cơ chế chính sách về BHXH và tổ chức
thực hiện các cơ chế chính sách BHXH. Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ
máy phụ thuộc vào mô hình tổ chức, cách thức giao chức năng nhiệm vụ, nguyên
tắc vận hành của hệ thống tổ chức và khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống
BHXH.
Để bộ máy hoạt động có hiệu quả, trong tổ chức bộ máy ngời ta thành lập
một hệ thống bộ máy có sự "phân tách quyền" cho các bên nhằm tạo ra một cơ
chế có thể kiểm tra kiểm soát hoạt động của bộ phận nắm quyền thu chi BHXH,
thông qua đó, bảo đảm sự nghiêm túc trong hoạt động thu chi BHXH. Có thể thể
hiện điều đó trong sơ đồ 1 (xem trang 14).
Theo sơ đồ này, nghị viện (quốc hội) sẽ là cơ quan ban hành các văn bản
luật về BHXH trên cơ sở dự thảo luật do cơ quan quản lý nhà nớc về BHXH đệ
trình thông qua chính phủ. Sau khi luật đợc nghị viện (quốc hội) thông qua và có
hiệu lực thi hành, chính phủ sẽ ban hành các văn bản (nghị định, quyết định, chỉ
thị ) về việc thi hành một số điều của luật. Cơ quan quản lý nhà n ớc về BHXH
sẽ ra các văn bản (thông t, công văn, quyết định v. v ) h ớng dẫn thi hành văn bản
của chính phủ và tổ chức thực hiện thanh, kiểm tra việc thực hiện hệ thống văn
bản này của cơ quan hoạt động BHXH.
Trên cơ sở hệ thống các văn bản luật, dới luật, cơ quan tổ chức thực hiện
các hoạt động BHXH sẽ tổ chức thực hiện các hoạt động thu chi BHXH. Hoạt
động thu chi này đợc đặt dới sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nớc

về BHXH.
Nghị viện (Quốc hội) - cơ quan ban hành khung pháp lý về BHXH
Cơ quan quản lý nhà nớc về BHXH
Cơ quan hoạt động BHXH
Chính phủ (cơ quan triển khai các luật)
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức quản lý và hoạt động BHXH
Mặt khác, để bảo đảm tính nghiêm minh trong tổ chức hoạt động của bộ
máy BHXH, có thể bổ sung thêm thiết chế cho hoạt động của nó. Một trong
những cách bổ sung này là việc thiết lập một cơ chế hoạt động của bộ máy t pháp
giám sát các hoạt động BHXH, trong đó những vi phạm pháp luật về BHXH có
thể đợc đa ra xét xử nghiêm minh theo phân cấp ở từng thời kỳ.
Riêng đối với cơ quan hoạt động BHXH, để thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình, điều quan trọng là phải tổ chức đợc bộ máy đủ năng lực hoạt động và
hoạt động có hiệu quả. Có hai hình thức tổ chức quản lý chủ yếu:
- Hình thức thứ nhất: Tổ chức bộ máy theo mô hình trực tuyến chức năng,
thực hiện quản lý trực tuyến từ trung ơng đến địa phơng.
Kiểu tổ chức quản lý này có thể đợc thể hiện qua sơ đồ sau:
Văn phòng BHXH cấp trung ơng
Văn phòng BHXH thứ nhất ở cấp địa phơng
Văn phòng BHXH thứ n ở cấp địa phơng
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức cơ quan BHXH theo kiểu trực
tuyến

Trong mô hình này, hệ thống BHXH là thống nhất. Cấp trung ơng trực tiếp
quản lý các văn phòng BHXH ở địa phơng. Văn phòng BHXH địa phơng có thể đ-
ợc chia nhỏ ra thành:
- Văn phòng BHXH cấp vùng.
- Văn phòng BHXH cấp tỉnh.
- Văn phòng BHXH cấp huyện.
Chính quyền địa phơng không có quyền can thiệp vào hệ thống BHXH,

song có thể tham gia giám sát hoạt động BHXH. Cách tổ chức này chú trọng
quyền lực của trung ơng, thu BHXH về một đầu mối quản lý, nâng cao tính trách
nhiệm và tính chuyên môn hoá trong việc thực hiện các hoạt động BHXH, song ít
tranh thủ đợc sự hỗ trợ của chính quyền địa phơng.
- Hình thức thứ hai: Tổ chức bộ máy theo kiểu kết hợp quản lý giữa trung
ơng và địa phơng. Tổ chức này có thể đợc thực hiện qua sơ đồ 3 (xem trang 16).
Mô hình quản lý này đòi hỏi sự tham gia quản lý của chính quyền địa ph-
ơng. Chính quyền địa phơng chi phối hoạt động của hệ thống BHXH cả về tài
chính, nhân sự, tổ chức hoạt động. BHXH cấp trung ơng chỉ thực hiện quản lý về
chuyên môn.
Kiểu tổ chức này có lợi thế là tranh thủ đợc sự ủng hộ và hỗ trợ của chính
quyền địa phơng, song vai trò của cấp trung ơng quá thấp, tính chuyên môn hoá
của đội ngũ cán bộ có thể bị giảm. Nếu việc tổ chức quản lý của địa phơng không
nghiêm có thể để xảy ra tham nhũng.
Văn phòng BHXH cấp trung ơng
Văn phòng BHXH cấp địa phơng
Văn phòng BHXH cấp địa phơng
Chính quyền địa phơng
Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức cơ quan BHXH theo kiểu kết hợp
quản lý giữa trung ơng và địa phơng
Ghi chú:
- - - - - - - - - - - : Chỉ sự quản lý về chuyên môn.
_____________: Chỉ sự quản lý trực tiếp, toàn diện.
Trong cả hai hình thức trên, cần lu ý là tổ chức bộ máy của một văn phòng
BHXH đều nên theo một mô hình chung là mô hình trực tuyến chức năng, trong
đó những bộ phận chức năng không thể thiếu là:
- Thu BHXH,
- Chi BHXH,
- Quản lý nhân sự,
- Thanh tra,

- Kế toán tài vụ.
Ngoài ra, tuỳ từng trờng hợp cụ thể và quan điểm quản lý của từng quốc
gia, có thể hình thành những phòng chức năng khác.
Về công tác cán bộ, điều quan trọng là phải phân định rõ các chức danh
chuyên môn - nghiệp vụ trong bộ máy và thiết lập tiêu chuẩn của từng chức danh.
Khi bố trí công việc, tổ chức đào tạo cho nhân viên bộ máy, cần dựa trên hệ thống
tiêu chuẩn các chức danh. Có nh vậy hệ thống BHXH mới hoạt động hiệu quả.
b) Giao chức năng, nhiệm vụ
Nguyên tắc chung của việc giao chức năng, nhiệm vụ trong cơ cấu tổ chức
bộ máy nói chung và của BHXH nói riêng là:
- Tập hợp các chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy phải bảo
đảm bao quát hết các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy.
- Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận của bộ máy phải rõ ràng, không
có sự chồng chéo.
- Tạo lập đợc cơ chế phối kết hợp trong tổ chức hoạt động của bộ máy.
- Phân rõ trách nhiệm, quyền hạn cho từng bộ phận của bộ máy.
Đối với việc giao chức năng, nhiệm vụ cho nhân viên của bộ máy, nguyên
tắc chung là:
+ Giao nhiệm vụ phải đúng với khả năng, sở trờng của ngời lao động.
+ Nhiệm vụ giao cho bất kỳ nhóm nào đều phải có ngời chịu trách nhiệm
chính.
+ Nhiệm vụ không đợc chồng chéo, có quy định rõ tiến độ thực hiện.
c) Nguyên tắc vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội
Hệ thống BHXH nói chung đợc vận hành theo 9 nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Mọi ngời lao động trong mọi trờng hợp bị giảm hoặc mất
thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có
quyền đợc hởng BHXH.
Quyền đợc BHXH của ngời lao động là một trong những biểu hiện cụ thể
của quyền con ngời. Nhng BHXH không phải là cái có sẵn nên trớc hết phải tìm
cách tạo ra nó. ở mỗi nớc khi muốn xây dựng hệ thống BHXH, nhà nớc phải tạo

điều kiện và môi trờng kinh tế - xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và
cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những ngời sử dụng lao động và ngời lao
động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình để bảo đảm hoạt
động của hệ thống này. Đây cũng là điều kiện cơ bản để ngời lao động đợc hởng
quyền BHXH.
Biểu hiện cụ thể quyền đợc hởng BHXH của ngời lao động là việc họ đợc
hởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định gắn với trờng hợp họ bị giảm hoặc
mất khả năng lao động, mất việc làm, dẫn đến giảm hoặc mất nguồn sinh sống.
Trong nền kinh tế thị trờng, những trờng hợp đó rất nhiều và có thể xẩy ra ngẫu
nhiên. Về nguyên lý, trong những trờng hợp nh vậy, ngời lao động đợc BHXH.
Song, giữa nguyên lý và thực tiễn bao giờ cũng có khoảng cách. Khoảng cách đó
do các điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Do vậy, cần căn cứ vào điều kiện kinh
tế - xã hội cụ thể của đất nớc trong từng giai đoạn phát triển để tổ chức và hoàn
thiện dần việc BHXH đối với các trờng hợp làm giảm hoặc mất thu nhập của ngời
lao động.
- Nguyên tắc 2: Nhà nớc và ngời sử dụng lao động có trách nhiệm phải
BHXH đối với ngời lao động, ngời lao động cũng có trách nhiệm phải tự BHXH
cho mình.
Nguyên tắc này đề cập đến quan hệ ba bên: nhà nớc, ngời sử dụng lao động
và ngời lao động trong hoạt động BHXH. Trong đó, nhà nớc giữ vai trò điều tiết vĩ
mô thông qua các công cụ chính sách của mình và dành một phần ngân sách cho
BHXH để giải quyết những trờng hợp đợc quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Việc làm đó của nhà nớc sẽ giúp ngời lao động yên tâm sản xuất - công tác, góp
phần tăng năng suất lao động xã hội, đồng thời bảo đảm sự ổn định chính trị - xã
hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội. Ngời sử dụng lao động, để tạo
động lực và ổn định tâm lý cho ngời lao động, cũng cần bảo hiểm cho ngời lao
động trong các trờng hợp rủi ro do lao động nh ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp v. v Đối với ng ời lao động, dù gặp bất cứ rủi ro nào thì trớc hết, đó
cũng là rủi ro của chính bản thân họ, do vậy, họ cần phải tự BHXH cho chính
mình.

- Nguyên tắc 3: BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH độc lập và tập trung.
Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia (nhà nớc, ngời sử dụng lao động,và
bản thân ngời lao động) mà phơng thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo
nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều
ngang, tạo mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm và quyền lợi, góp
phần phòng chống những hiện tợng nhiễu trong hệ thống, mang lại nhiều lợi ích
cho những ngời có liên quan.
Song, những đóng góp đó cần đợc thu về một mối - tức là cho cơ quan
BHXH chuyên nghiệp và đợc tích tụ dần thành một quỹ tài chính độc lập và tập
trung do một cơ quan chuyên nghiệp về BHXH chịu trách nhiệm quản lý, điều
hành.
- Nguyên tắc 4: BHXH phải lấy số đông bù số ít.
Trong số đông ngời tham gia đóng góp BHXH, chỉ có những ngời lao động
mới là đối tợng hởng trợ cấp. Trong số những ngời lao động lại chỉ có những ngời
bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già, đủ những điều kiện cần thiết
mới thực sự đợc hởng trợ cấp. Trong số đó có những ngời tham gia đóng góp từ
lâu, nhng cũng có những ngời mới tham gia đóng góp,
Điều đó lý giải tại sao BHXH lại phải lấy số đông bù số ít.
- Nguyên tắc 5: Phải kết hợp hài hoà các dạng lợi ích, các khả năng và
phơng thức đáp ứng nhu cầu BHXH.
Trong BHXH các bên tham gia đều nhận đợc lợi ích, song các lợi ích không
phải luôn nh nhau, vẫn có lúc các lợi ích này mâu thuẫn nhau. Ví dụ, nếu tăng
mức trợ cấp sẽ có lợi cho ngời lao động nhng lại không có lợi cho ngời sử dụng
lao động. Nếu giảm bất lợi cho ngời sử dụng lao động thì nhà nớc lại phải gánh
chịu.
Đối với ngời lao động, muốn hởng BHXH cao thì mức đóng góp BHXH
phải cao. Song nếu đóng BHXH cao thì phần thu nhập để nuôi sống bản thân và
gia đình sẽ giảm. Do vậy, khi nghiên cứu xây dựng thiết chế BHXH, cần xác định
tỷ lệ đóng góp hợp lý để vừa bảo đảm lợi ích trớc mắt (chi tiêu hằng ngày), vừa

bảo đảm lợi ích lâu dài (mức hởng bảo hiểm) của ngời lao động.
Muốn phát triển quỹ BHXH, cần tăng nguồn thu BHXH, song trong việc
thu BHXH (từ ngời lao động, ngời sử dụng lao động và nhà nớc), có những giới
hạn không đợc phép vợt. Do vậy, cần tìm các nguồn thu khác để bổ sung cho quỹ.
Những cách làm có thể là:
- Đầu t phần vốn nhàn rỗi tơng đối của quỹ để sinh lợi.
- Hợp tác quốc tế về BHXH để có thêm phần chênh lệch do tái bảo hiểm
sinh ra.
- Tìm tòi, áp dụng nhiều phơng thức BHXH khác (ví dụ cho phép các doanh
nghiệp có thể BHXH thêm ngoài phần quy định cứng của nhà nớc).
- Nguyên tắc 6: Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng đang đi
làm, nhng không đợc thấp hơn mức sống tối thiểu.
Nguyên tắc này đề cập đến các loại trợ cấp thay thế cho tiền lơng nh trợ cấp
ốm đau, thai sản, hu trí tuổi già. Mức trợ cấp phải thấp hơn tiền lơng khi ngời lao
động đang đi làm để ngời lao động cố gắng không gặp các rủi ro dẫn đến việc
nhận trợ cấp, cố gắng làm việc. Hơn nữa, cách lập quỹ theo phơng thức dàn trải
rủi ro không cho phép trả mức phụ cấp cao hơn mức lơng, vì nếu nh vậy, gánh
nặng mà những ngời đang đi làm phải gánh cho những ngời đợc bảo hiểm sẽ quá
cao. Mặt khác, do tuổi thọ của ngời dân ngày càng đợc nâng cao, thời gian hởng
bảo hiểm tuổi già (hu trí) ngày càng dài, tổng thời gian chi cho bảo hiểm tuổi già
ngày càng lớn cũng không cho phép đặt ra mức trợ cấp quá cao dành cho những
ngời lao động gặp rủi ro.
Tuy nhiên, khi trả trợ cấp BHXH, để ít nhất là bảo đảm tái sản xuất giản
đơn sức lao động cho ngời lao động, cần trả mức trợ cấp không thấp hơn mức
sống tối thiểu.
- Nguyên tắc 7: Có sự kết hợp giữa BHXH bắt buộc và tự nguyện.

×