Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Rủi ro trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.48 KB, 21 trang )

Rủi ro trên thị trường chứng khoán .Những vấn đề lý luận chung.
I/ Thị trường chứng khoán :
1 . Định nghĩa :
Trong các nền kinh tế lớn của thế giới thị trường chứng khoán là nơi
diễn ra sôi nôi nhất của hoạt động kinh tế . Lịch sử hình thành nên thị
trường chứng khoán đã có từ thế kỷ 18. Trong điều kiện của nền kinh tế
hiện đại ngày nay thị trường chứng khoán được quan niệm là nơi diễn ra
các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua
bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ
cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp.
Như vậy về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán,
qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán .
• Thị trường sơ cấp : Là thị trường mua bán cổ phiếu mới phát hành .Ở
đây vốn từ nhà đầu tư sẽ chuyển sang nhà phát hành thông qua các cổ
phiếu mới được phát hành. Đây là thị trường duy nhất đem lại nguồn
vốn cho nhà phát hành.
• Thị trường thứ cấp : là thị trường mua bán giao dịch các chứng khoán
đã được phát hành ở thị trường sơ cấp . Tại thị trường thứ cấp các hoạt
động trao đổi mua bán chứng khoán diễn ra một cách sôi nổi giữa các
nhà đẩu tư .Các nguồn vốn được luân chuyển qua tay rất nhiều nhà đầu
tư hay nói một cách khác luồng vốn này không chảy vào nhà phát
hành.Thi trường thứ cấp là bộ phận không thể thiếu cho thị trường sơ
cấp.
Trên thị trường thứ cấp giá cả các loại cổ phiếu phụ thuộc nhiều
vào quan hệ cung cầu, cạnh tranh tự do và nó hoạt động liên tục .
2 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có thể chia ra làm bốn chủ thể tham gia
thị trường là : nhà phát hành, nhà đầu tư , các tổ chức kinh doanh trên thị


trường chứng khoán và các tổ chức liên quan đến thị trường chứng
khoán .
a. Nhà phát hành : là tổ chức muốn huy động vốn qua thị trường
chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu , là hàng hóa của thị
trường.Các tổ chức này bao gồm :
− Chính phủ và địa phương là nhà phát hành trái phiếu Chính phủ và trái
phiếu địa phương. Mục đích là nhằm huy động vốn cho các dự án của
nhà nước và của địa phương. Đây là loại trái phiếu hầu như không có
rủi ro .
− Chứng khoán được phát hành từ các công ty . Các công ty chính là
những nhà phát hành các cổ phiếu chủ yếu trên thị trường mục đích
nhằm huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
− Các tổ chức tài chính cũng tham gia vào việc phát hành trái phiếu , các
chứng chỉ có giá nhằm huy động vốn cho công việc , mục đích của tổ
chức.
b. Nhà đầu tư: bao gồm những nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức. Nhà đầu tư chính là những người mua bán nhiều nhất chứng khoán
trên thị trường .
− Nhà đầu tư cá nhân : Là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời như
công nhân viên chức muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán nhằm
thu thêm lợi nhuận .
− Nhà đầu tư có tổ chức: thường được gọi là các định chế tổ chức thường
xuyên mua bán chứng khoán với khối lượng lớn. Các tổ chức này
thông tin được thu thập một cách nhanh chóng hiệu quả với một đội
ngũ các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán mục
đích nghiên cứu thị trường nhằm đưa ra những quyết định đầu tư đúng
đắn nhất. Các nhà đầu tư có tổ chức chủ yếu như các quỹ đầu tư, các
công ty bảo hiểm ...
c. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán bao gồm :
− Các công ty chứng khoán : hoạt động trên thị trường chủ yếu đảm nhận

một số nghiệp vụ chính như bảo lãnh phát hành, môi giới , tư vấn đầu
tư và quản lý quỹ đầu tư .
Để thực hiện được các nghiệp vụ của mình các công ty chứng khoán
cần có một số vốn nhất định và được các cơ quan nhà nước cấp phép
hoạt động
− Các quỹ đầu tư chứng khoán : thị trường chứng khoán có rất nhiều loại
cổ phiếu thế nên cho dù chỉ tập trung vào một lĩnh vực thì nhà đầu tư
cũng không làm sao nắm bắt hết các chiều hướng chuyển biến của nó.
Đa số các nhà đầu tư lại là những người không chuyên nghiệp,
nhiều nhà đầu tư lớn đã phải thuê các cố vấn riêng. Những nhà đầu tư
khác vì lý do nào đó không thể tự quản lý việc mua bán trong các danh
mục đầu tư của mình có thể mở các trương mục uỷ thác phân quyền
hoặc những trương mục uỷ thác toàn quyền (discretionary account) tại các
trung tâm môi giới. Và cùng với thời gian, thị trường đã hình thành một
định chế giúp các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, thực hiện đầu tư
tốt nhất vào thị trường chứng khoán được gọi là các quỹ đầu tư.
Nhà đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phiếu được mua
bán trên thị trường chứng khoán, mà họ sẽ chia sẻ hiệu quả do một quá
trình mua bán chứng khoán tập trung của quỹ này
d. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm :
−Cơ quan quản lý Nhà nước :
− Sở giao dịch chứng khoán
− Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
− Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
− Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
− Các tổ chức tài trợ chứng khoán
3.Các nguyên tắc hoạt động trên thị trường chứng khoán :
a. nguyên tắc cạnh tranh : Theo nguyên tắc này giá cả các loại cổ
phiếu được quyết định theo quan hệ cung cầu về nhu cầu chứng khoán và
mối quan hệ cạnh tranh giữa các tổ chức phát hành.

Trên thị trường sơ cấp có sự cạnh tranh giữa các tổ chức phát
hành mà chủ yếu là các công ty trong việc bán cổ phiếu của mình ra cho
các nhà đầu tư. Trên thị trường thứ cấp các nhà đầu tư tự do cạnh tranh
tìm kiếm lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo nguyên tắc
đấu giá.
b.nguyên tắc công bằng : theo nguyên tắc này tất cả các công ty, các
tổ chức phát hành, các nhà đầu tư ... tất cả đều có quyền lợi và nghĩa vụ
như nhau .Tất cả đều phải tuân thủ các quy tắc , quy định và đều bị xử
phạt nếu vi phạm.
c. Nguyên tắc công khai : Theo nguyên tắc này , mọi hoạt động mua
bán trên thị trường đều phải minh bạch.Sở giao dịch chứng khoán công bố
các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị truờng. Các tổ chức niêm
yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hằng năm của công
ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của
giám đốc, người quản lý, cổ đông đa số .
d.nguyên tắc đấu giá :Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc
đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia
thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai hình
thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và
trực tiếp đấu giá.
Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc nhập
vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ
này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch
với khối luợng cao nhất.
e.Nguyên tắc trung gian :Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng
khoán trên thị truờng chứng khoán đều đuợc thực hiện thông qua các
trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện
giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà
môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác nhu cung cấp thông tin và

tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư...
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận
với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi
giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để
khớp lệnh .
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán
đuợc hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao
dịch
II/ Rủi ro trên thị trường chứng khoán :
A. Rủi ro :
1. Định nghĩa :rủi ro là khả năng xảy ra những kết quả không mong
muốn trong tương lai.Rủi ro chỉ phát sinh khi không có một sự chắc chắn
về mất mát xảy ra.
Theo cách hiểu đó nếu xác suất mất mát là 0 hoặc là 1 thì không có
rủi ro . Một người rơi từ tầng 30 thì khả năng sống sót là 0, mặc dù có
mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro do đã biết trước
hậu quả nhưng nếu 1 người rơi từ tầng 3 thì khả năng sống sót , hậu quả
chưa thể thấy được như vậy như vậy là có rủi ro .
Nhắc đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là
khả năng xảy ra mất mát .Xác suất thì có 2 loại là xác suất khách quan và
xác suất chủ quan.
− Xác suất khách quan hay là xác suất tiên nghiệm là xác suất được xác
định bằng các phương pháp quy nạp và diễn dịch. Chẳng hạn khi tung
đồng xu theo phương pháp diễn dịch có thể tính xác suất xuất hiện
mặt ngửa là 50% .
− Xác suất chủ quan là xác suất là ước tính chủ quan của cá nhân với khả
năng xáy ra. Khi một người mua vé sổ xố , lượng vé bán ra là 1 triệu
thì khả năng trúng là 1 phần triệu nhưng xác suất chủ quan của người
mua vé còn cao hơn rất nhiều lần so với xác suất tiên nghiệm.
Trên thị trường chứng khoán rủi ro thể hiện qua sự sụt giảm , thua lỗ

hoặc những biến động thất thường về mức sinh lời của chứng khoán.
2. Phân loại rủi ro trên thị trường chứng khoán : trên thị trường
chứng khoán có 2 loại rủi ro chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ
thống .
a. Rủi ro hệ thống : những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty,
không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất
cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro không phân
tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành
công nghiệp hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm
phát, sự kiện kinh tế và chính trị... Đa dạng hóa đầu tư cũng không thể loại
bỏ loại rủi ro này. Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống
là những công ty mà doanh số, lợi nhuận và giá chứng khoán thường theo
sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán. Phần
lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ bản và khai khoáng,
những ngành có định phí lớn hay những ngành liên quan đến sản xuất ô tô
chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, ví dụ ngành thép, cao su,
kính,... Rủi ro hệ thống được chia làm 3 loại rủi ro chính: rủi ro thị
rường, rủi ro lãi suất và rủi ro sức mua
* Rủi ro thị trường : Giá cả cổ phiếu giao động mạnh trong một
khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập, tình hình kinh doanh của công ty
vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thể rất khác nhau nhưng phụ
thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu
nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi trong
mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy
vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường.
Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà
đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với
chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là
nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các
nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình

như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội còn các sự kiện vô hình là các sự
kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường
xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng
của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó.
Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối
với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn và sau đó kéo theo những
phản ứng dây chuyền ( domino) làm tăng vọt số lượng bán, giá cả chứng
khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.
*Rủi ro lãi suất :Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá
trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai của chứng khoán ,
nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung .Giá cả chứng khoán
luôn có xu hướng biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường , lãi suất
thị trường tăng làm giá thị trường của chứng khoán bị giảm và ngược
lại.Vì thế sự biến động của lãi suất sẽ làm giảm giá trị hiện tại của các
chứng khoán của các chứng khoán được đầu tư ở các thời điểm khác nhau
ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được .
Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất
Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng
của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công
ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi
ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng
khoán có rủi ro.
*Rủi ro về sức mua :Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được
định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà đầu
tư .Trong khi đó rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu

×