Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Các vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu Chính Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.33 KB, 18 trang )

Các vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu Chính Phủ
1.1. Khái quát về trái phiếu Chính Phủ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trái phiếu Chính Phủ
1.1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán(người cho vay)
một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải
hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Như vậy, thực chất là với trái
phiếu, trái chủ là người cho vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết
quả hoạt động sử dụng vốn của người cho vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ thanh
toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Nếu một công ty
không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản đối
với công ty đó. Quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của trái chủ được ưu tiên
trước cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường. Đây sẽ là sự đảm bảo quan trọng cho
các nhà đầu tư và như vậy trái phiếu có mức độ rủi ro thấp hơn so với cổ phiếu.
Trái phiếu Chính Phủ do Chính Phủ phát hành. Những trái phiếu này
được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà Nước hoặc để xây
dựng các công trình công cộng, hoặc để giải quyết những khó khăn về tài chính.
Trái phiếu Chính Phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là
loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu
Chính Phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các
công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.Mệnh giá của trái phiếu có thể được ghi bằng
đồng ngoại tệ hoặc đồng bản tệ. Nếu trái phiếu Chính Phủ được phát hành trong
nước thì đó là bộ phận hình thành những khoản nợ trong nước. Nếu trái phiếu
Chính Phủ được phát hành tại nước ngoài thì hình thành một khoản nợ nước
ngoài. Trái phiếu Chính Phủ được đảm bảo chắc chắn bởi uy tín của Chính Phủ
và tài sản của quốc gia, trái phiếu Chính Phủ có khả năng cầm cố, và chuyển
nhượng. Các tổ chức nhân đạo, các tổ chức tôn giáo, các công ty phục vụ cho
mục đích công cộng thường ưu tiên mua trước và được miễn giảm phí giao
dịch. Hệ thống ngân hàng là người trợ giúp đắc lực của nhà nước trong quá trình
phát hành và thanh toán trái phiếu Chính Phủ.


1.1.1.2. Đặc điểm của trái phiếu Chính Phủ
Thông qua khái niệm về trái phiếu Chính Phủ ở trên, ta thấy TPCP là công
cụ vay nợ đặc biệt của Chính Phủ, nó có độ an toàn cao. Vì nó đặc biệt nên
ngoài những đặc điểm chung của trái phiếu, TPCP còn có những đặc điểm riêng
đó là:
• TPCP là loại trái phiếu có độ rủi ro thấp nhất. Vì nó có nguồn ngân sách
Nhà Nước đảm bảo
• Là loại trái phiếu có uy tín cao, an toàn nhất trên thị trường
• Quy mô phát hành và giao dịch lớn chính vì vậy TPCP có ảnh hưởng lớn
đến thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung
• Do TPCP là công cụ an toàn, khối lượng phát hành lớn, có nhiều ưu đãi,
do đó chủ yếu TPCP do trung gian tài chính nắm giữ.
1.1.2. Phân loại trái phiếu Chính Phủ
Có rất nhiều cách phân loại trái phiếu Chính Phủ, tùy theo từng mục đích mà
có cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này ta chỉ nghiên
cứu trái phiếu dài hạn.
1.1.2.1. Phân loại theo chủ thể ủy quyền phát hành
Theo điều 4 Nghị định 141/2003/NĐ-CP, TPCP bao gồm: tín phiếu kho
bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại
tệ, công trái xây dựng tổ quốc.
• Tín phiếu kho bạc là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn dưới 1
năm, phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước
và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.
• Trái phiếu kho bạc là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn từ 1
năm trở lên được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân
sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt.
• Trái phiếu đầu tư là: loại trái phiếu Chính Phủ có thời hạn từ một
năm trở lên, bao gồm các loại sau:
+ Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc
diện ngân sách đầu tư, năm trong kế hoặch đầu tư đã được Chính Phủ phê duyệt

nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch
+ Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế
hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính Phủ phê duyệt.
• Trái phiếu công trình trung ương là: loại trái phiếu Chính Phủ có
kỳ hạn từ 01 năm trở lên do Kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn
theo quyết định của Thủ tướng Chính Phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu
tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn
ngân sách trong năm.
• Trái phiếu ngoại tệ là: loại trái phiếu Chính Phủ, có kỳ hạn từ 1
năm trở lên do Bộ Tài Chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ
tướng Chính Phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi.
• Công trái xây dựng Tổ quốc do Chính Phủ phát hành nhằm huy
động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình quan
trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian đáo hạn
Do trái phiếu Chính Phủ phát hành có kỳ hạn 1 năm trở lên, nên khi phân
loại TPCP theo thời gian đáo hạn có những loại sau:
• Trái phiếu ngắn hạn (Shorts) có thời hạn từ 1 đến 5 năm;
• Trái phiếu trung hạn (Mediums) có thời hạn từ 5 đến 15 năm;
• Trái phiếu dài hạn (Longs) có thời hạn hơn 15 năm;
• Trái phiếu vô hạn (Perpetuities) không có ghi ngày đáo hạn.
1.1.2.3. Phân loại khác
Theo hình thức sử dụng vốn: Trái phiếu kho bạc gắn với việc thực hiện
những chính sách tài khóa, trái phiếu đầu tư huy động vốn cho các công trình
thuộc diện ngân sách nhà nước cấp phát…
Theo cách tính lãi: Lãi suất trái phiếu phát hành được xác định trên cơ sở
kết quả của từng phiên đấu thầu. Lãi suất trái phiếu có thể áp dụng cố định cho
cả kỳ hạn trái phiếu hoặc thả nổi hàng năm theo sự biến động của lãi suất trên
thị trường tài chính, tiền tệ. Trường hợp áp dụng lãi suất thả nổi, căn cứ ý kiến

thoả thuận của Bộ Tài Chính, tổ chức phát hành công bố mức lãi suất tham
chiếu trước khi đấu thầu. Lãi suất chính thức sẽ được công bố trước theo từng
thời gian hoặc vào các thời điểm thanh toán lãi trái phiếu trên cơ sở lãi suất
tham chiếu tại thời điểm công bố.
Theo hình thức biểu hiện: Trái phiếu đấu thầu qua thị trường giao dịch
chứng khoán tập trung được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán
ghi sổ; có ghi tên hoặc không ghi tên.
• Đối với hình thức chứng chỉ: Bộ Tài Chính quy định nội
dung để tổ chức phát hành in và phân phối cho các tổ chức trúng thầu.
• Đối với hình thức bút toán ghi sổ: Do Trung tâm Giao dịch
chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán) và các tổ chức lưu ký ghi và quản lý
sổ sách.
Theo tiêu thức quản lí: có trái phiếu ghi danh và trái phiếu vô danh
• Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả
trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi
đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra
và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang
chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
• Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ
của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh
có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc
lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ.
Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác
nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
Tuy nhiên, cho dù phân loại theo hình thức nào thì TPCP cũng có những
đặc điểm giống trái phiếu khác về mệnh giá, lãi suất, kì hạn.
• Mệnh giá( giá trị danh nghĩa hay giá trị bề mặt ) là giá trị ghi
trên trái phiếu, nó xác định tổng số tiền gốc mà trái chủ được nhận cho tới hết
thời hạn của trái phiếu. Khác với cổ phần, mệnh giá trái phiếu là yếu tố được
xác lập rất rõ ràng, vì đây là cơ sở đặt nền móng cho các quan hệ nghĩa vụ suốt

chiều dài tồn tại của trái phiếu. Mệnh giá trái phiếu thường được định chuẩn ở
các số càng chẵn càng tốt, tuỳ theo giá trị đồng bạc ở mỗi nước, đồng thời cũng
là để giúp cho việc giao dịch thuận tiện. Thường mỗi thị trường sẽ có những
mệnh giá được chuộng nhất và được khuyến khích sử dụng. Ví dụ ở Mỹ hiện
nay, khi nói đến trái phiếu trong TTCK thì dân chúng có thói quen liên tưởng
ngay đến loại 1.000USD. Loại 5.000USD cũng phổ biến nhưng không bằng loại
1.000USD. Những loại nhỏ hơn 1.000USD gọi là "baby bond" (trái phiếu nhỏ
lẻ) được các công ty cần huy động vét (thường là để lập quỹ hoàn trái hoặc hoán
nợ cho các loại trái phiếu trả lãi cao đã huy động trước đó) nhưng không nhỏ
hơn 1.000USD. Các baby bond phải chịu phí giao dịch đắt hơn.
Tại Việt Nam, trong thời gian khởi động để chuẩn bị cho việc ra đời
TTCK, ta cũng đang quan tâm đến một mệnh giá đồng bộ để đáp ứng yêu cầu
kỹ thuật trong giao dịch. Có thể nói, Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển VN (BIDV)
là nhà phát hành tiên phong loại trái phiếu tiêu chuẩn này, vào tháng 11 và 12
năm 1999, với các mệnh giá chuẩn là 10.000.000 VNĐ và 1000 USD.
• Lãi suất: Đây là thành tố xác định quyền lợi về thu nhập
định kỳ (phần cứng) cho người sở hữu trái phiếu (chủ nợ). Tiền lãi, theo thông
lệ đã phổ biến, được trả cứ nửa năm một lần, nên khi tính toán ta cần chia đôi lãi
năm ra hai phần bằng nhau. Chẳng hạn trái phiếu mệnh giá 10.000.000đ, lợi
suất danh nghĩa (nominal yield = lãi suất = rate of interest) là 10% thì mỗi sáu
tháng trái phiếu đó nhận được 500.000đ, và từ đó tính ra tháng, ra ngày. Lãi suất
chia làm 2 loại: lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế.
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất ghi trên trái phiếu. Nó quy
định mức lợi tức mà trái chủ được hưởng so với mệnh giá của trái phiếu. Như
vậy, bất kể điều gì xảy ra đối với giá của một trái phiếu coupon có lãi suất hàng
năm 8% và mệnh giá 1000 USD, nó sẽ vẫn được trả 80 USD lợi tức hàng năm
cho đến khi đáo hạn
Lãi suất thực tế: được xem xét trong mối liên hệ giá trị thời
gian của tiền. Lãi suất thực tế (lãi suất hiệu quả) là lãi suất mà bạn thực sự thu
được từ một khoản đầu tư hoặc phải trả cho một khoản vay sau khi tính đến tác

động của lãi suất ghép. Thông thường cái mà chúng ta hay nhìn thấy là lãi suất
danh nghĩa, còn lãi suất thực tế sẽ được tính toán từ lãi suất danh nghĩa theo một
số phương pháp nhất định. Lãi suất danh nghĩa gắn liền với phương pháp tính
lãi đơn giản, còn lãi suất thực tế là kết quả của phương pháp tính lãi kép.
• Kỳ hạn: Là độ dài thời gian cho đến khi người phát hành trái
phiếu trả lại toàn bộ tiền gốc cho trái chủ và nhận lại trái phiếu. Với tất cả các
loại trái phiếu bình thường, việc hoàn trả lại tiền gốc sẽ được thực hiện vào
ngày đáo hạn (maturity). Ngày đáo hạn còn là cơ sở quan trọng để xác định các
kỳ trả lãi. Kỳ trả lãi được xác định mỗi năm hai lần. Ví dụ: trái phiếu J&J, trả lãi
vào ngày 1 tháng Giêng và 1 tháng Bảy; trái phiếu F&A trả lãi vào ngày 1 tháng
Hai và 1 tháng Tám; J&D trả lãi ngày 1 tháng Sáu và 1 tháng Chạp (dương
lịch),… Tại các thị trường phát triển, việc quy định số ngày trong năm và
phương pháp đếm ngày được chuẩn hoá tuỳ theo loại trái phiếu. Ở Mỹ trái
phiếu công ty và trái phiếu đô thị được tính theo năm có 360 ngày và tháng có
30 ngày (kể cả tháng Hai). Nhưng trái phiếu Chính Phủ thì lại tính một năm là
365 ngày và tháng tính theo ngày lịch thực tế.
Có 3 loại cơ cấu đáo hạn căn bản của một đợt phát hành trái phiếu:
• Loại trái phiếu có thời hạn cố định (term bonds) đáo hạn tất cả cùng một lúc.
• Loại trái phiếu đáo hạn theo nhóm (serial bonds) từng kỳ, loại này được phát
hành một đợt nhưng có kỳ đáo hạn khác nhau theo lịch trình định trước. Ví dụ:
một trái phiếu đô thị có lượng phát hành 100 tỷ đồng có lịch đáo hạn mỗi năm 5
tỷ suốt trong chiều dài tồn tại của đợt đó là 20 năm.
• Loại trái phiếu đáo hạn kết hợp (balloon bonds) đáo hạn từng phần nhưng đa
phần là vào kỳ cuối cùng. Ví dụ một đợt phát hành trái phiếu "balloon" có thể
mỗi năm thu hồi 3% giá trị phát hành ban đầu trong vòng 20 năm, rồi sau đó tất
toán 40% còn lại vào năm đáo hạn. Từ balloon cho ta khái niệm phần phình ra
nằm ở cuối trái bóng.
Để phù hợp với kế hoạch sử dụng tài chính và tính toán hiệu quả kinh tế,
một nhà phát hành có thể bán trái phiếu trải ra qua vài ba năm, họ sẽ thu xếp đợt
phát hành theo từng sê- ri tách biệt.

1.2. Thị trường trái phiếu Chính Phủ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường trái phiếu Chính Phủ
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường chứng khoán, mà
TTCK lại là một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường tài chính. Chính
vì vậy, trước khi tìm hiểu về thị trường TPCP ta sẽ tìm hiểu qua vài nét về thị
trường tài chính.
1.2.1.1. Khái niệm, cấu trúc của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự luân chuyển vốn từ những người
có vốn nhàn rỗi tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể
được định nghĩa là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính. Hoạt động trên

×